Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

nền dân chủ xã hộ chủ nghĩa và nhà nước xã hội chủ nghĩa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.08 KB, 16 trang )

CHƯƠNG VII:
NỀN DÂN CHỦ XHCN VÀ NHÀ NƯỚC XHCN
I. NỀN DÂN CHỦ XHCN ( hay chế độ dân chủ XHCN)
1. Quan niệm về dân chủ
a. Khái lược lịch sử của vấn đề dân chủ.
- Dân chủ là một phạm trù lịch sử, là sản phẩm của quan hệ giai cấp và
đấu tranh giai cấp, phạm trù dân chủ xuất hiện từ khi có giai cấp, có
nhà nước.
Dân chủ là một phạm trù lịch sử ( nghĩa là nó có quá trình phát sinh, phát
triển và diệt vong). Phạm trù dân chủ xuất hiện từ khi có giai cấp và nhà
nước nên nó cũng mất đi khi giai cấp và nhà nước không còn nữa ( tức là
sang XH CSCN)
Tại sao phạm trù dân chủ lại xuất hiện khi có giai cấp và nhà nước ?
Bởi vì khi xuất hiện chế độ tư hữu thì xh bắt đầu có sự phân hóa thành kẻ
giàu người nghèo, xh có nạn người bóc lột người. Do vậy lịch sử lúc đó
cũng là lịch sử của đấu tranh đòi quyền tự do dân chủ.
Vấn đề dân chủ là một trong những vấn đề mà nhân loại qua các thời kỳ
lịch sử đều rất quan tâm. Tuy nhiên mỗi giai cấp trong các thời đại khác
nhau và qua các chế độ khác nhau thì cũng có quan niệm về dân chủ cũng
khác nhau. Do đó nội dung của vấn đề dân chủ cũng khác nhau biểu hiện
tuần tự theo dòng thời gian, có những nền dân chủ cụ thể tương ứng với
các chế độ xh.
- Các hình thức dân chủ trong lịch sử:
*. Dân chủ nguyên thủy: ( dân chủ tiền chính trị)
- Tại sao lại gọi dân chủ nguyên thủy là dân chủ tiền chính trị ?
+ Bởi vì trong chế độ CSNT chưa có giai cấp nên cũng chưa có nhà nước,
chưa có sự áp bức bóc lột, chưa có sự phân háo giàu nghèo cho nên nhu
Th.sĩ Nguyễn Thị Thu Hà
1
cầu dân chủ chưa có. Sự tồn tại của dân chủ nguyên thủy nó chỉ là thứ dân
chủ tự nhiên thuần phát nên khái niệm dân chủ chưa ra đời. Vì vậy dân


chủ trong xh chưa mang tính chính trị nên gọi là dân chủ tiền chính trị.
+ Trong XH CSNT nơi chưa có giai cấp và đấu tranh giai cấp thì không
thể có một chế độ dân chủ đầy đủ và đúng nghĩa của một chế độ chính trị.
Song ở đó lại tồn tại một hình thức “đặc biệt của dân chủ” mà Ăngghen
gọi là “ dân chủ quân sự” hay “dân chủ nguyên thủy”. Trong các kỳ “ Đại
hội nhân dân” mọi người đều được tự do phát biểu, biểu quyết những vấn
đề quan trọng của thị tộc và bầu ra những thủ lĩnh quân sự của họ.
+ Trong nền “dân chủ nguyên thủy” ấy “quyền lực của nhân dân” cái vốn
có ở con người là thiêng liêng, bất khả xâm phạm.
Tại sao tồn tại dân chủ nguyên thủy ?
Bởi do sự phát triển hết sức thấp kém và chậm chạp của điều kiện kiếm
sống của con người. Công cụ lao động thô sơ chủ yếu là đồ đá, LLSX
chưa phát triển. Hoàn cảnh đó đã buộc họ phải liên kết với nhau trong lao
động tập thể và trong đấu tranh sinh tồn. Mọi người trong xh đó hoàn toàn
bình đẳng.
Theo Lênin đây là thời kỳ tồn tại hình thức “dân chủ quản lý”. Sự công
bằng, bình đẳng, bác ái của xh thị tộc được quy định một cách khách quan
bởi tính chất và trạng thái của nền kinh tế.
Ăng ghen khẳng định: “ với tất cả tính ngây thơ và giản dị của nó, chế độ
thi tộc đó quả là một tổ chức tốt đẹp biết bao. Không có quân đội, hiến
binh và cảnh sát, không có quý tộc, vua chúa… không có những vụ xử
án… ở đấy… tất cả đều bình đẳng và tự do, kể cả phụ nữ”
( M-Ă T
2
, t 21, tr 136)
- Như vậy: Dân chủ trong XH CSNT là dân chủ cho mọi người, nền
dân chủ sơ khai đầu tiên trong lịch sử xh loài người.
*. Dân chủ chủ nô.
Sự phát triển của LLSX, công cụ lao động cải tiến đã làm cho NSLĐ tăng
lên, sản phẩm làm ra không chỉ thỏa mãn nhu cầu tối thiểu của con người

mà còn tạo ra một số của cải dư thừa. Chính đây nảy sinh lòng tham ở một
số người – trước hết là tù trưởng, tộc trưởng. Họ chiếm đoạt tài sản chung
đó biến thành tài sản riêng cho mình. Do đó xh phân chia thành kẻ giàu
người nghèo dẫn đến xh có sự phân chia giai cấp, làm cho nền “dân chủ
Th.sĩ Nguyễn Thị Thu Hà
2
nguyên thủy” tan rã, thay thế cho nền “dân chủ nguyên thủy” là nền “dân
chủ chủ nô”.
Nền dân chủ chủ nô là nền dân chủ đầu tiên được tổ chức dưới hình thức
nhà nước – nhà nước chủ nô. Khi đó nhà nước chủ nô mới chính thức sử
dụng danh từ “dân chủ”, tiếng Hi lạp cổ đại gọi là “demos” là ‘dân”, và
“Kratos” là “quyền lực” nghĩa là quyền lực của dân.
Tuy nhiên nền dân chủ chủ nô cũng không phải là nền dân chủ cho mọi
người. Đặc biệt là đối với những người nô lệ, họ không được pháp luật
thừa nhận là người, chỉ được xem như là “công cụ biết nói”, “ động vật 2
chân”. Lênin đã chỉ rõ bản chất của nền dân chủ chủ nô là “ Tất cả nguồn
lợi đều thuộc về chủ nô, còn nô lệ không có một quyền gì cả và vẫn là
một giai cấp bị áp bức họ không được coi là người”
- Do vậy: Trong XH CHNL dân chủ chỉ được thực hiện với thiểu số bóc
lột chủ nô và bộ phận rất nhỏ là người bình dân còn người nô lệ thì
không được thừa nhận là con người.
*. Nền dân chủ phong kiến.
Thắng lợi của chế độ PK đối với chế độ nô lệ dẫn đến sự thay thế nền dân
chủ chủ nô bằng nền dân chủ chuyên chế PK. Chế độ PK với PTSX mới
cao hơn đã đem lại cho người nô lệ được hưởng một số ích lợi nhất định,
làm cho họ thực sự trở thành con người. Trên thực tế người nông nô được
hưởng rất ít sản phẩm lao động mà họ làm ra sau khi đã nộp tô cho chúa
đất: Quyền tự do dân chủ ấy chưa đáng là bao còn rất hạn chế song đó là
quyền dân chủ cao nhất trên lĩnh vực kinh tế mà người nông nô đạt được
so với người nô lệ trong xh CHNL.

Song xét về mặt thiết chế nhà nước thì chế độ PK lại là một bước lùi so
với chế độ CHNL. Bởi vì ở chế độ PK thực chất là không có dân chủ. Lê
nin cho rằng: “ trong đêm trường trung cổ dân chủ đã bị săn lùng và thủ
tiêu không thương tiếc”
Đứng đầu nhà nước là vua, vua được coi là con trời, thay trời trị dân, vua
có quyền lực tối cao, chế độ PK tồn tại theo kiểu cha truyền con nối không
thông qua bầu cử: “ con vua thì lại làm vua”, còn mọi người dân chỉ là
“thần dân” là đối tượng của sự dạy bảo, của sự ban ơn. Họ chỉ có quyền
đó là cái quyền phục tùng.
Th.sĩ Nguyễn Thị Thu Hà
3
- Do vậy: trong chế độ PK, nhà nước PK là nhà nước chuyên chế chứ
không phải là nhà nước dân chủ, nên chế độ PK thực chất là không có
dân chủ
*. Nền dân chủ TS
Sự phát triển của LLSX đã làm cho QHSX PK ngày càng trở nên lỗi thời
tất yếu một PTSX mới hơn sẽ thay thế nó, Người đại diện cho PTSX này
chính là GCTS.
Nảy sinh trong lòng XHPK, GCTS ngày càng có thế lực về kinh tế, những
bước đường phát triển kinh tế của GCTS luôn bị kìm kẹp bởi thế quyền và
thần quyền. GCTS đã tiến hành đấu tranh chống lại chế độ PK trên tất cả
các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, tư tưởng… nhằm chống lại tư tưởng thần
học đòi tự do, bình đẳng, đòi tự do trao đổi buôn bán, tự do sản xuất kinh
doanh…
Để tập hợp lực lượng, GCTS đã đưa ra các khẩu hiệu: “ tự do, bình đẳng,
bác ái” nên nó đã tập hợp được một lực lượng to lớn trong quá trình đấu
tranh dẫn đến thắng lợi của cuộc CMTS, dẫn đến thành lập nhà nước TS
và nền dân chủ TS.
Nền dân chủ TS ra đời là một bước tiến mới trong lịch sử tiến hóa của dân
chủ, nhưng về thực chất nền dân chủ TS chưa phải là nền dân chủ đầy đủ

nhất, dân chủ của đa số nhân dân lao động mà chỉ là nền chuyên chính của
GCTS.
Trong giai đoạn đầu của CNTB, GCTS là người đại diện cho LLSX tiên
tiến. Do đó nó đóng vai trò trung tâm trong việc tập hợp lực lượng để
chống PK. GCTS đã xây dựng lên một thể chế dân chủ như : quyền đầu
phiếu phổ thông, chế độ phân quyền, quyền tự do cá nhân.
Tuy nhiên nền dân chủ TS thực ra chỉ thực hiện cho thiểu số giai cấp bóc
lột, còn nhân dân lao đong và đông đảo các các tầng lớp giai cấp khác
tuyệt nhiên không có dân chủ. Do vậy Lê nin khẳng định: “bất cứ chế độ
dân chủ TS nào ngay cả chế độ dân chủ hoàn thiện nhất cũng vẫn là chế
độ dân chủ cho người giàu có”
Toàn bộ “thiết chế được GCTS dựng lên để nhằm mục đích duy nhất là
bảo vệ địa vị thống trị của GCTS, để truyền bá tư tưởng TS, để mị dân
Th.sĩ Nguyễn Thị Thu Hà
4
chống lại tư tưởng về tự do, dân chủ của GCVS. GCTS không bao giờ nới
rộng dân chủ cho người lao động”.
Do đó “ chế độ dân chủ TS, tuy là một bước tiến lịch sử vĩ đại so với thời
trung cổ. Song dưới chế độ tư sản nó không thể không là một chế độ dân
chủ trật hẹp, bi cắt xén, giả hiệu, giả dối, một thiên đường cho bọn giàu
có, một cái bẫy đối với những người bị bóc lột.
Đặc biệt khi CNTB chuyển sang giai đoạn ĐQCN thì nó càng thể hiện
tính chất phản động của nó, dân chủ ngày càng thu hẹp, nhân dân lao đọng
bị áp bức bóc lột nặng nề, dẫn tới khoản cách giàu nghèo ngày một xa.
Ví dụ:
Nếu cứ tính khoảng 15 năm trước đây 1% dân số Mỹ gồm những gia đình
TS giàu có nhất chiếm 27% tài sản quốc dân thì hiện nay con số đố lên
gần 40%, hiện nay ở Mỹ vẫn có khoảng 33 triệu người sống trong cảnh
nghèo khổ.
- Như vậy: dân chủ TS là thứ dân chủ hình thức, dân chủ với bọn TS

thôi còn chuyên chính với nhân dân lao động.
*. Nền dân chủ XHCN.
Đến XH – XHCN nền dân chủ thực sự theo đúng nghĩa của nó là quyền
lực thuộc về nhân dân, mọi người đều có quyền bình đẳng, là nền dân chủ
cho số đông và chỉ chuyên chính với số ít kẻ bóc lột. Chúng ta sẽ được
nghiên cứu kỹ ở phần 2.
b. Quan niệm của CNM –Ln về dân chủ
CNM – Ln đã kế thừa những nhân tố hợp lý, những hoạt đọng thực tiễn và
những nhận thức của nhân loại về dân chủ, CNM- Ln cho rằng:
- Thứ nhất, dân chủ là nhu cầu khách quan của nhân dân lao động,
dân chủ là quyền lực của dân dân
- Thứ hai, khi có nhà nước thì dân chủ mang bản chất của giai cấp
thống trị
Như vậy khi xh xuất hiện giai cấp và nhà nước thì không có dân chủ
“chung chung”, “phi giai cấp”, “siêu giai cấp”, “ dân chủ thuần túy”.
Th.sĩ Nguyễn Thị Thu Hà
5
Lịch sử nhân loại đã chứng minh rõ các kiểu dân chủ: chế độ dân chủ chủ
nô, chế độ dân chủ TS, chế độ dân chủ VS (xhcn) . Riêng chế độ PK là
chế độ quan chủ ( quân chủ lập hiến) không phải là chế độ dân chủ, nhưng
những nhu cầu dân chủ, những biểu hiện dân chủ trong nhân dân, trong
xh, thậm chí ngay cả trong một số triều đình PK… của xh PK vẫn có.
- Thứ ba, khi có nhà nước dân chủ, dân chủ còn có ý nghĩa một hình
thức nhà nước.
Biểu hiện đó là chế độ bầu cử, bãi miễn các thành viên nhà nước, có quản
lý theo pháp luật nhà nước và thừa nhận ở nhà nước đó “ quyền lực thuộc
về nhân dân” ( dân là những ai thì do bản chất giai cấp thống trị quy
định), gắn liền với một hệ thống chuyên chính của giai cấp thống trị.
- Thứ tư, tính giai cấp thống trị gắn liền và chi phối tính dân tộc, chế độ
chính trị, văn hóa, xh… ở mỗi quốc gia dân tộc.

2. Bản chất của nền dân chủ XHCN
Dân chủ có quá trình phát triển lâu dài qua các chế độ XH khác nhau. Sự
hình thành dân chủ XHCN đánh dấu bước phát triển mới về chất, nó là sự
kế thừa tất cả những giá trị nhân văn, nhân đạo tích cực của các nền dân
chủ trước hết là dân chủ TS.
a. Sự ra đời của nền dân chủ XHCN.
- Nền dân chủ XHCN ra đời khi GCCN và ND LĐ giành được chính
quyền, được củng cố, phát triển và hoàn thiện. Dân chủ XHCN bắt
nguồn từ bản chất của XHCN, của chế độ XHCN. Dân chủ vừa là mục
tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng CNXH.
+ Nền dân chủ XHCN chỉ ra đời sau khi GCCN và ND LĐ giành được
chính quyền, thông qua cuộc CMXHCN ( CMT10 Nga), hoặc thông qua
CMDTDCND do Đảng của GCCN lãnh đạo thắng lợi, là nền dân chủ
nhân dân từng bước chuyển biến thành nền dân chủ XHCN. Bởi vì cùng
với việc thiết lập, củng cố nhà nước XHCN thì GCCN và ND LĐ phải ban
bố và thực hiện quyền tự do dân chủ cho quảng đại quần chúng nhân dân.
Do vậy nền dân chủ XHCN ra đời là một tất yếu khách quan, phù hợp với
quy luật phát triển của lịch sử.
Th.sĩ Nguyễn Thị Thu Hà
6
+ Tai sao nói dân chủ XHCN lại khác về chất so với các chế độ dân chủ
trước ?
Dân chủ TS là nền dân chủ tiến bộ trong lịch sử nhưng nó cũng chỉ là dân
chủ cho GCTS, dân chủ tự do ở đây là tự do mua bán sức lao động và
người công nhân dưới CNTB được tự do về mặt thân thể, tự do bán sức
lao động.
Như khi nền sản xuất TBCN bị đình trệ, khủng hoảng thì quyền tự do bán
sức lao động của người công nhân cũng mất, chỉ còn tự do chết đói.
Chính vì vậy M- Ă đã cho rằng: “chế độ TB là chế độ mua bán sòng
phẳng, không tình, không nghĩa”

Ví dụ: trong XHTB hiện nay, các nhà tư tưởng TS rêu rao rằng ngày nay
công nhân đã có cổ phần, sở hữu. Đặc biệt trong cổ phần hóa theo nguyên
tắc: Thiểu số phục tùng đa số. Vấn đề đó tưởng như dân chủ nhưng thực
chất lại không dân chủ. Vì nhà TB không bao giờ bán quá 49% số cổ
phiếu. Và theo thống kê hiện nay số cổ phiếu của GCCN có được không
quá 10% và do vậy điều hiển nhiên GCCN vẫn bị lệ thuộc hoàn toàn vào
nhà TB.
+ Ngược lại nền dân chủ vô sản ( DC XHCN) là nền dân chủ khác về chất
so với các nền dân chủ trước đó, nó thực hiện dân chủ rộng rãi cho tuyệt
đại đa số còn chỉ hạn chế dân chủ với thiểu số bọ bóc lột. Nên trong tác
phẩm “ CMVS và tên phản bội Kauxky” các nhà kinh điển của CN M –Ln
đã chỉ ra rằng: “ DC XHCN là dân chủ gấp triệu lần so dân chủ TS”
b. Bản chất của nền dân chủ XHCN.
* Bản chất chính trị:
- Là dân chủ đặt dưới sự lãnh đạo của đảng, đảng của GCCN để thực
hiện quyền lực xh của nhân dân.
Các nhà kinh điển của CNM- Ln đã chỉ rõ: bản chất chính trị của nền dân
chủ XHCN là sự lãnh đạo chính trị của GCCN thông qua đảng của nó đối
với toàn xh, nhưng không phải chỉ để thực hiện quyền lực và lợi ích riêng
cho GCCN, mà chủ yếu là thực hiện quyền lực cho toàn thể nhân dân lao
động.
Chỉ có dưới sự lạnh dạo của GCCN thì quyền lực mới trở thành quyền lực
của nhân dân lao động, ND LĐ là chủ thể thực sự của quyền lực thể hiện
được ứng cử, bầu cử vào các cơ quan nhà nước.
Th.sĩ Nguyễn Thị Thu Hà
7
- Trong chế độ dân chủ XHCN, bao nhiêu quyền lực đều là của dân,
bao nhiêu sức mạnh đều ở nơi dân, bao nhiêu lợi ích đều là vì dân.
Lưu ý:
Dân chủ phải đi đôi với tập trung, bởi dân chủ mà không có tập trung là

dân chủ vô tổ chức, vô kỷ luật, dân chủ quá trớn. Điều này đã được Bác
Hồ nói: giữa dân chủ và tập trung là 2 mặt của một vấn đề, giữa chúng có
mối quan hệ biện chứng với nhau. Nếu dân chủ mà không có tập trung thì
sẽ dẫn tới vô tổ chức, vô chính phủ. Ngược lại tập trung mà không có dân
chủ sẽ dẫn tới tệ độc đoán chuyên quyền.
* Bản chất kinh tế:
- Nền dân chủ XHCN dựa trên chế độ công hữu XHCN về TLSX
- Kế thừa tính ưu việt, xóa bỏ nhược điểm và yếu tố lạc hậu của các nền
kinh tế trước đó như: tư hữu, áp bức, bóc lột nhân dân.
+ Nền dân chủ XHCN có cơ sở kinh tế là chế độ công hữu về TLSX, nó là
điều kiện để cho nhân dân thực hiện quyền lực của mình, nó tạo điều kiện
để giải phóng người lao động ra khỏi ách áp bức, bóc lột, tự do phát triển
cá nhân. Chính trong xh đó, mọi người đều hăng hái lao động và thực hiện
nguyên tác phân phối theo lao động, nên nó là cơ sở cho sự bình đẳng
giữa người và người. Bởi khi người lao động chưa làm chủ TLSX thì
không thể làm chủ quá trình tổ chức quản lý và quá trình phân phối được.
Ngược lại trong XH TBCN dựa trên chế độ CHTN TBCN về TLSX nên
con người bị áp bức, bị bóc lột, không có sự bình đẳng và sẽ không có dân
chủ. Bởi lẽ không nói đến tự do dân chủ giữa kẻ giàu – người nghèo,
không thể có dân chủ giữa GCTS và người lao động.
+ Trong xh giai cấp nào nắm giữ TLSX ( tức giai cấp nào thống trị về
kinh tế thì giai cấp đó sẽ nắm quyền thống trị về chính trị và các lĩnh vực
khác). Chính vì vậy trong XH – XHCN , QHSX dựa trên chế độ công hữu
về TLSX được xác lập , GCCN và ND LĐ làm chủ TLSX chủ yếu nên họ
cũng làm chủ quá trình sản xuất, từ đó thúc đẩy LLSX phát triển. Do làm
chủ trong lĩnh vực kinh tế nên GCCN sẽ làm chủ về chính trị trị, xh, tư
tưởng.
Th.sĩ Nguyễn Thị Thu Hà
8


* Bản chất tư tưởng - văn hóa:
- Nền dân chủ XHCN lấy hệ tư tưởng Mác – Lênin làm nền tảng chủ
đạo
- Kế thừa và tiếp thu tư tưởng và tinh hoa văn hóa dân tộc.
Lưu ý: Dân chủ XHCN không phụ thuộc vào cơ chế đa nguyên và sự tồn
tại của đa đảng đối lập, chế độ một đảng hay nhiều đảng là sản phẩm của
điều kiện từng nước. Trong điều kiện của nước ta không có cơ sở của cơ
chế đa nguyên vì vậy đảng ta không chấp nhận đa nguyên chính trị, đa
đảng đối lập.
+ Nền dân chủ XHCN không chấp nhận vấn đề đa nguyên chính trị, đa
đảng đối lập. Bởi vì vai trò lãnh đạo của ĐCS đối với xh đã được hình
thành trong lịch sử và do nhân dân lựa chọn. Và thực tế lịch sử cũng đã
chỉ ra rằng: nếu trong cuộc đấu tranh chống lại GCTS nếu GCCN không
có ĐCS lãnh đạo thì phong trào của họ sẽ mãi dừng lại ở tự phát và sẽ
không bao giờ giành thắng lợi cả.
Ở nước ta nhân dân ta không chấp nhận đa nguyên chính trị bởi vì xét về
bản chất không có một xh nào lại không chịu sự lãnh đạo của một đảng
chính trị dựa trên hệ tư tưởng nhất định. Ở XHTB, dù cho có nhiều Đảng
thay nhau cầm quyền nhưng thực chất cũng đều do GCTS với hệ tư tưởng
của nó lãnh đạo. Đa nguyên chính trị thực sự chỉ là thời kỳ lịch sử ngắn
ngủi chuyển từ chế độ xh này sang chế độ xh khác.
+ Đặc biệt khi CNXH ở L.XÔ và Đ. ÂU sụp đổ, các nhà tư tưởng đã rêu
rao rằng cơ chế đa đảng được coi là dấu hiệu của giá trị dân chủ chung của
nhân loại, là cơ sở, là điều kiện để có dân chủ. Đây là tư tưởng phản động.
Ở nước ta sau đổi mới cũng vậy, nhiều người đã kêu gọi Đảng và nhà
nước nên thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Nhưng Đảng ta
đã thực hiện nhất quán chính sách một Đảng lãnh đạo ( ĐCS) và thực hiện
nhất nguyên chính trị ( học thuyết M –Ln, tư tưởng HCM).
Mục đích là để cho bọn phản động không chui được vào hàng ngũ của
Đảng và Nhà nước, phá hoại sự nghiệp CM thì công cuộc đổi mới sẽ

không thể giành thắng lợi được.
+ Đa nguyên chính trị (thuyết): Từ quan điểm triết học lần đầu tiên GCTS
dùng thuật ngữ này vào đầu thế kỷ 18, để biện luận về quan điểm chính trị
Th.sĩ Nguyễn Thị Thu Hà
9
của mình dựa trên cơ sở tự do cạnh tranh TBCN, chủ trương nhiều đảng
phái cùng hoạt động trong một nước. Ngày nay, CNĐQ dùng thuật ngữ đa
nguyên chính trị chống các nước XHCN, chống phong trào công nhân và
các dân tộc tiến bộ, đòi mở rộng dân chủ vô chính phủ, chống tập trung
dân chủ, phủ nhận sự lãnh đạo của ĐCS.
3. Hệ thống chính trị XHCN
a. Sự hình thành HTCT:
- HTCT xuất hiện gắn liền với sự xuất hiện giai cấp và nhà nước.
Trong xh CSNT hình thức cộng đồng người là thị tộc, bộ lạc, xh chưa
phân hóa thành giai cấp nên nhà nước cũng chưa xuất hiện, bởi vậy HTCT
cũng chưa xuất hiện.
Nhưng khi loài người chuyển sang HTKT – XH CHNL, xh phân chia
thành giai cấp đối kháng ( chủ nô và nô lệ). Để điều hòa mâu thuẫn trong
xh thì nhà nước xuất hiện. Cùng với sự ra đời của nhà nước thì HTCT
tương ứng cũng được hình thành trong đó nhà nước là một bộ phận và là
bộ phận quan trọng nhất cấu thành HTCT.
Như vậy HTCT đầu tiên trong lịch sử là HTCT CHNL, sau đó là HTCT
PK, rồi đến HTCT TBCN và hiện nay chúng ta đang xây dựng HTCT
XHCN.
b. HTCT XHCN :
* Sự ra đời của HTCT XHCN:
Cũng như những HTCT trước đó, HTCT XHCN ra đời cũng là một tất
yếu lịch sử. Sự ra đời của HTCT XHCN là sự thay thế HTCT TBCN; và
nó được đánh dấu bằng cuộc CMT10 Nga 1917.
Cuộc CMT10 Nga đã đập tan chế độ Nga Hoàng, đập tan sự thống trị của

GCTS, quý tộc để thiết lập nhà nước XHCN ở Nga. Việc thiết lập nhà
nước XHCN ở Nga cũng có nghĩa là HTCt XHCN được hình thành. Như
vậy có thể nói sau khi GCCN và ND LĐ đánh đổ được ách thống trị của
GCTS giành được chính quyền về tay mình thì khi đó HTCT XHCN ra
đời.
* Quan niệm về HTCT XHCN:
Th.sĩ Nguyễn Thị Thu Hà
10
- Là hệ thống các tổ chức chính trị căn bản có quy mô quốc gia, có ý
nghĩa chiến lược đối với sự tồn tại và phát triển của một nước XHCN.
- K/niệm HTCT XHCN: là một cơ cấu xh bao gồm: ĐCS, N
2
, các đoàn
thể và các tổ chức chính trị - xh dưới sự lãnh đạo của ĐCS nhằm thực
hiện quyền lực của nhân dân lao động để xây dựng CNXH.
Như vậy trong cnxh: chính đảng Mác – Lê nin ( ĐCS), N
2
XHCN, các tổ
chức chính trị xh của nhân dân do ĐCS lãnh đạo là những nhân tố cấu
thành HTCT XHCN.
Dưới sự lãnh đạo của ĐCS, thông qua hoạt động của nhà nước, các tổ
chức chính trị xh và bằng sự tham gia trực tiếp của nhân dân ngày càng
thực hiện đầy đủ hơn quyền và trách nhiệm tham gia các công việc của
nhà nước và xh. Do vậy HTCT trong CNXH thực chất là cơ chế bảo đảm
quyền dân chủ rộng rãi nhất của nhân dân.
* Cấu trúc của HTCT XHCN:
- HTCT XHCN gồm: Đảng, Nhà nước, Công đoàn, Mặt trận tổ quốc và
một số tổ chức chính trị - xh khác.
- Đối với nước ta: HTCT của nước ta bao gồm ĐCS VN, N
2

CHXHCN
VN, mặt trận tổ quốc VN và các tổ chức chính trị - xh khác của nhân
dân hoạt động trên cơ sở lấy liên minh GCCN với GCND và tầng lớp trí
thức làm nền tảng dưới sự lãnh đạo của ĐCS để thực hiện đầy đủ
quyền làm chủ của nhân dân và xây dựng CNXH
Tóm lại: HTCT XHCN mang tính thống nhất, nó thể hiện trong mối quan
hệ giữa các bộ phận cấu thành HTCT là thống nhất. Tuy nhiên, cũng phải
có sự phân công phối hợp rành mạch từ trung ương xuống địa phương.
II. NHÀ NƯỚC XHCN
1. Quan niệm về nhà nước XHCN:
- Nhà nước là một trong những tổ chức chính trị cơ bản nhất của
HTCT XHCN
- Là công cụ quản lý, bảo vệ, xây dựng đất nước.
+ Như vậy nhà nước XHCN là cơ quan quyền lực : nhân dân trao cho nhà
nước quyền lực của mình để nhà nước quản lý nhà nước ( thông qua bầu
Th.sĩ Nguyễn Thị Thu Hà
11
cử và ứng cử vào cơ quan nhà nước). Với tư cách là cơ quan quyền lực thì
nhà nước thực hiện chức năng trấn áp của đại đa số nhân dân đối với thiểu
số bọn phản động chống phá CM ( chức năng “ chống”)
+ Nhà nước XHCN là bộ máy hành chính: bộ máy nhà nước xhcn bao
gồm một hệ thống các cơ quan có tư cách pháp nhân công quyền tạo thành
một chỉnh thể thống nhất từ trung ương xuống địa phương ( hành chính có
nghĩa là sự thi hành chính sách, pháp luật của chính phủ). Với tư cách là
bộ máy hành chính và là tổ chức quản lý kinh tế - xh thì nhà nước thực
hiện chức năng xh là phait giữ vững sự ổn định và phát triển bền vững của
tất cả mọi mặt của đời sống xh như kinh tế, an ninh chính trị, trật tự an
toàn xh, giáo dục, y tế, văn hóa ( chức năng “xây”)
2. Bản chất, chức năng, nhiệm vụ của nhà nước XHCN
a. Bản chất:

Bản chất của nhà nước là vấn đề mấu chốt cơ bản của mọi thời dại, luôn
luôn là vấn đề trung tâm của mọi vấn đề chính trị và tranh luận chính trị.
Bản chất của nhà nước trả lời cho câu hỏi:
+ Nhà nước ấy của ai ?
+ Do giai cấp nào tổ chức ?
+ Phục vụ lợi ích cho giai cấp nào trong xh ?
Nghiên cứu về nguồn gốc của nhà nước, các kiểu nhà nước trong lịch sử,
chúng ta thấy rằng bản chất của nhà nước được thể hiện tập trung ở tính
chất giai cấp của nhà nước, ở vai trò xh và những đặc trung cơ bản của
nhà nước.
- Bản chất của nhà nước XHCN vừa có bản chất GCCN, vừa có tính
nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc.
N
2
XHCN mang bản chất GCCN vì GCCN là giai cấp đại diện cho PTSX
tiên tiến, thực hiện SMLS là lãnh đạo phong trào xây dựng CNXH thông
qua đội tiên phong của mình là ĐCS. Mặt khác GCCN thuộc nhân dân mà
ra, đại diện cho lợi ích toàn dân tộc do đó N
2
XHCN mang bản chất
GCCN.
Đảng ta và CT HCM từ lâu đã có quan điểm đúng đắn, rõ ràng về nhà
nước XHCN trong đó nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Th.sĩ Nguyễn Thị Thu Hà
12
b. Chức năng, nhiệm vụ:
* Chức năng:
- Chức năng đối nội:
+ Chức năng đối nội của nhà nước XHCN thể hiện tập trung ở việc quản
lý xh trên tất cả các lĩnh vực của toàn xh chủ yếu bằng pháp luật, chính

sách, pháp chế XHCN và hệ thống các cơ quan nhà nước từ trung ương
xuống địa phương.
+ Nhà nước XHCN thực hiện chức năng chuyên chính đối với mọi tội
phạm và mọi kr thù để bảo vệ độc lập, trật tự an toàn xh, thực hiện dân
chủ rộng rãi đối với nhân dân.
- Chức năng đối ngoai:
+ Mở rộng quan hệ hợp tác hữu nghị, bình đẳng tin cậy, tôn trọng cùng có
lợi vì sự phát triển và tiến bộ đối với các nước trên TG.
+ Bảo vệ vững chắc tổ quốc XHCN, ngăn ngừa nguy cơ xâm lược.
* Nhiệm vụ:
- Quản lý kinh tế, nhất là xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật cao của CNXH
gắn liền với cải thiện không ngừng đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân.
- Quản lý văn hóa – xh.
III. CẢI CÁCH NHÀ NƯỚC TRONG QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI HỆ
THỐNG CHÍNH TRỊ
1. Đổi mới HTCT ở nước ta hiện nay:
Đảng ta vận dụng cụ thể hóa và mở rộng một cách đúng đắn về HTCT
XHCN vào điều kiện cụ thể của nước ta hiện nay.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH được
ĐHĐBTQ Lần thứ VII của ĐCS VN thông qua ghi rõ: “ Toàn bộ tổ chức
và hoạt động của HTCT nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và
từng bước hoàn thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm quyền lực thuộc về
nhân dân”
* Một số nguyên tắc chung về đổi mới HTCT ở nước ta hiện nay:
- Một là, đổi mới HTCT là đổi mới về nội dung và phương thức hoạt
động, tổ chức cán bộ và các mối quan hệ giữa các tổ chức chính trị hợp
Th.sĩ Nguyễn Thị Thu Hà
13
pháp và đang có vai trò đổi mới cả nước ta. Vì thế không thay đổi mục

tiêu, con đường XHCN, độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.
- Hai là, trong quá trình xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ XHCN thì
nguyên tắc, chức năng, nhiệm vụ của chuyên chính vô sản vẫn được thực
hiện ngày cang tốt hơn.
- Ba là, xuất phát từ thực tiễn CM nước ta, Đảng, Nhà nước, nhân dân ta
không chấp nhận “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập”
- Bốn là, đổi mới trong sự ổn định để phát triển đất nước đi theo định
hướng XHCN.
Trên cơ sở những vấn đề nguyên tác chung thống nhất đó mà tiến hành
các nội dung cụ thể hơn sau đây:
a. Về xây dựng chỉnh đốn ĐCSVN .
- Phải xác định rõ và đúng mục đích của Đảng ta trong quá trình lãnh đạo
xh.
- Xác định đứng vai trò, chức năng của Đảng là lãnh đạo xh trên mọi lĩnh
vực
- Phương thức lãnh đạo của Đảng: là lãnh đạo bằng hệ tư tưởng Mác – Lê
nin, tư tưởng HCM thể hiện qua đường lối CM, chủ trương lớn, chiến
lược và phương pháp CM.
b. Về cải cách Nhà nước.
c. Đổi mới nội dung, phương pháp hoạt động của Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể nhân dân.
Mặt trận Tổ quốc là tổ chức chính trị rộng rãi nhất của nhân dân ta, tập
hợp tất cả các giai cấp, các tầng lớp, các dân tộc, các tôn giáo, các tổ chức,
lứa tuổi, nghề nghiệp… các cá nhân VNam và Việt kiều yêu nước cùng
tán thành mục đích… dân giàu, nước mạnh, xh công bằng, dân chủ, văn
minh
Đó là:
- Xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN
- Cần quán triệt chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức chính trị - xh trong
quá trình đổi mới

- Phương pháp thực hiện, hoạt động: Tự nguyện, dân chủ, hiệp thương,
phối hợp hành động.
Th.sĩ Nguyễn Thị Thu Hà
14
2. Cải cách Nhà nước XHCN ở VNam hiện nay.
ĐHĐBTQ lần thứ IX, X đã đặc biệt chú ý việc lãnh đạo quá trình cải cách
nhà nước ta theo hướng chung là: xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN,
dưới sự lãnh đạo của ĐCS.
Đảng ta chỉ rõ: “ Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm
chủ của nhân dân, là nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân.
Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các
cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và
tư pháp.
Cải cách tổ chức và hoạt động của nhà nước gắn liền với xây dựng chỉnh
đốn Đảng đối với nhà nước. Xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn , nâng
cao chất lượng hoạt động của các tổ chức đảng và đảng viên trong các cơ
quan nhà nước.
Trước Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước ta.
- Cải tiến tổ chức và hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân.
Cần xây dựng chương trình lập pháp, phát huy quyền trình dự án luật của
đoàn thể nhân dân, nâng cao kiến thức lập pháp của đại biểu quốc hội,
nâng cao trình độ năng lực thẩm tra các dự án luật của Hội đồng nhân dân,
UBTVQH để góp phần làm tròn, làm đúng chức năng quy định.
Về cải tiến và hoạt động của Quốc hội đã được đề cập trong ĐH 9: Tinh
giảm bộ máy giúp việc của Quốc hội, xây dựng luật trưng cầu dân ý, tăng
cường cán bộ chuyên môn nghiệp vụ có trình độ cao.
- Sửa đổi cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động của chính phủ.
Đây là biện pháp nhằm xây dựng và kiện toàn bộ máy nhà nước, để làm
được việc đó phải coi trọng bàn bạc tập thể, nhưng bên cạnh đó cần phải
giao quyền hạn nhất định cho cá nhân, người đứng đầu chính phủ. Cần

phải sắp xếp tinh giảm các dơn vị trực thuộc, cắt bỏ những khâu trung
gian trùng lặp về chức năng của chính phủ.
Cần xác định lại chức năng, nhiệm vụ của chính quyền các cấp tình,
huyện, xã… lấy đó làm cơ sở sắp xếp lại tổ chức, đề cao quyền chủ động
và trách nhiệm của đại phương, đông thời đảm bảo sự chỉ đạo thống nhất
của Nhà nước từ TW xuống cơ sở.
Th.sĩ Nguyễn Thị Thu Hà
15
- Kiên quyết sắp xếp lại tổ chức, tinh giảm biên chế các cơ quan hành
chính làm cho bộ máy gọn nhẹ, hoạt động có hiệu quả.
Cải cách hành chính phải tiến hành đồng bộ từ cải cách thể chế hành chính
đến cải cách tổ chức bộ máy và công tác cán bộ, công chức hành chính.
Để cải cách hành chính có hiệu quả chúng ta cần phải làm những công
việc sau đây:
Phải cải cách thủ tục hành chính, hoàn thiện thể chế quản lý bằng pháp
luật, đề cao trách nhiệm, nghĩa vụ công dân trong cải cách thể chế và thủ
tục hành chính để mở rộng dân chủ.
Trước đây thủ tục hành chính rất rườm rà, phải trải qua nhiều cửa, nhiều
khâu trung gian không cần thiết, cho đến nay do có sự cải cách thủ tục
hành chính, chúng ta quán triệt nguyên tắc hoạt động “ một cửa một con
dấu”.
- Đổi mới nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức nhà nước.
Trước hết là nâng cao chất lượng đào tạo, đào tạo lại cán bộ công chức
theo yêu cầu mới của cải cách Nhà nước. Đồng thời đổi mới việc quản lý,
đánh giá cán bộ công chức. Sử dụng đãi ngộ cán bộ công chức… tăng
cường kiểm tra, giám sát, thưởng phạt nghiêm minhcans bộ công chức.
Tóm lại:
Đổi mới HTCT và từng bước hoàn thiện nền dân chủ XHCN. Thực chất
của việc đổi mới và kiện toàn HTCT ở nước ta là xây dựng nền dân chủ
XHCN. Dân chủ, đến lượt nó lại là quy luật hình thành phát triển và tự

hoàn thiện HTCT XHCN. Làm tốt việc này chính là góp phần tạo ra một
động lực tổng hợp cho sự nghiệp xây dựng đất nước trong TKQĐ lên
CNXH.
Th.sĩ Nguyễn Thị Thu Hà
16

×