Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

đặc điểm của quy phạm pháp luật.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.78 KB, 7 trang )

MỤC LỤC
I. Đặt vấn đề.
II. Giải quyết vấn đề

1. Khái niệm và đặc điểm của quy phạm pháp luật.
2. Cơ cấu quy phạm pháp luật.
III. Kết thúc vấn đề
Danh mục tài liệu
1
I.Đặt vấn đề.
C.Mac từng nói: “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động
chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng đều cần đến
một sự chỉ đạo để điều hòa những hoạt động cá nhân và thực hiện những
chức năng chung phát sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ thể sản xuất khác
với sự vận động của những khí quan độc lập của nó.” Vì vậy, quản lý xã hội
là yếu tố cần thiết tất yếu của đời sống cộng đồng xã hội. Khi xã hội phát
triển tính chất xã hội hóa của các hoạt động xã hội ngày càng cao càng cần
phải đề cao vai trò của quản lý, đề cao tính tổ chức và ý thức tự giác, tinh
thần làm chủ của mỗi người. Một trong những phương tiện giúp con người
(giai cấp thống trị) quản lý xã hội tốt và dễ dàng hơn đó chính là các quy
phạm pháp luật.
Trong bài luận này, chúng ta sẽ cùng xem xét các khái niệm, mục đích,
ý nghĩa và yêu cầu của từng bộ phận trong cơ cấu pháp luật.
II.Giải quyết vấn đề.
1.Khái niệm và đặc điểm của quy phạm pháp luật.
1.1Khái niệm.
Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự chung do Nhà nước ban hành và
bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động để
điều chỉnh các quan hệ xã hội theo những định hướng nhất định.
1.2. Đặc điểm của quy phạm pháp luật.
Qui phạm pháp luật là một loại quy phạm xã hội, vì vậy nó mang đầy


đủ những đặc tính chung vốn có của một qui phạm xã hội như : là qui tắc xử
sự chung, là khuôn mẫu để mọi người làm theo, là tiêu chuẩn để xác định
giới hạn và đánh giá hành vi của con người. Thông qua qui phạm pháp luật ta
biết được hoạt động nào có ý nghĩa pháp lý, hoạt động nào không có ý nghĩa
pháp lí, hoạt động nào phù hợp với pháp luật, hoạt động nào tráI với pháp
luật.v.v. Ví dụ : Để biết được đâu là hoạt động tình cảm, đâu là hoạt động
pháp luật chúng ta phải căn cứ vào các qui phạm pháp luật. Để đánh giá hành
vi nào là trộm, hành vi nào là cướp… phải căn cứ vào các qui phạm của luật
hình sự.
Ngoài những đặc tính chung của qui phạm xã hội thì quy phạm pháp
luật còn có những đặc tính riêng là :
Quy phạm pháp luật luôn gắn liền với nhà nước. Chúng do các cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền đặt ra, thừa nhận hoặc phê chuẩn, Nhà nước
đảm bảo thực hiện bằng nhiều biện pháp.
Quy phạm pháp luật thể hiện ý chí Nhà nước.
Quy phạm pháp luật được đặt ra không phải cho một tổ chức hay cá
nhân cụ thể mà cho tất cả các tổ chức và cá nhân tham gia quan hệ xã hội mà
nó điều chỉnh. Vì vậy, quy phạm pháp luật được đặt ra không phải chỉ để
điều chỉnh một quan hệ xã hội cụ thể mà để điều chỉnh một quan hệ xã hội
chung.
2
Nội dung mỗi qui phạm pháp luật thường thể hiện hai mặt : cho phép
hoặc bắt buộc.
Quy phạm pháp luật vừa mang tính xã hội, vừa mang tính giai cấp.
Giữa các qui phạm pháp luật luôn có sự liên hệ mật thiết và thống nhất với
nhau tạo nên một hệ thống pháp luật thống nhất cùng điều chỉnh có hiệu quả
các quan hệ xã hội vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn
minh.
2. Cơ cấu quy phạm pháp luật.
2.1.Giả định

a. Khái niệm.
Giả định là một phần của quy phạm pháp luật trong đó nêu ra những
tình huống (hoàn cảnh, điều kiện) có thể xảy ra trong đời sống xã hội mà quy
phạm pháp luật sẽ tác động đối với những chủ thể (tổ chức, cá nhân) nhất
định, nói cách khác giả định nêu lên phạm vi tác động của quy phạm pháp
luật đối với cá nhân hay tổ chức nào? Trong những hoàn cảnh, điều kiện nào?
Chẳng hạn, Điều 95 Luật khiếu nại, tố cáo 1998 quy định: “ Cơ quan,
tổ chức, cá nhân có thành tích trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, người tố
cáo có công trong việc ngăn ngừa thiệt hại cho Nhà nước, tổ chức, cá nhân
thì được khen thưởng theo quy định của pháp luật”. Phần giả định của quy
phạm này là: “ Cơ quan, tổ chức , cá nhân có thành tích trong việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo, người tố cáo có công trong việc ngăn ngừa thiệt hại cho
Nhà nước, tổ chức, cá nhân”.
b. Mục đích, ý nghĩa.
Phần giả định của quy phạm pháp luật trả lời cho câu hỏi: Tổ chức, cá
nhân nào? Trong những tình huống (hoàn cảnh, điều kiện) nào? Thông qua
phần giả định của quy phạm pháp luật chúng ta biết được tổ chức, cá nhân
nào? khi ở vào những hoàn cảnh, điều kiện nào? thì chịu sự tác động của quy
phạm pháp luật đó. Việc xác định tổ chức, cá nhân nào và những hoàn cảnh,
điều kiện nào để tác động là phụ thuộc vào ý chí của nhà nước.
c.. Yêu cầu.
Những chủ thể, hoàn cảnh, điều kiện nêu trong phần giả định của quy
phạm pháp luật phải rõ ràng, chính xác, sát với tình hình thực tế, tránh tình
trạng nêu mập mờ, khó hiểu dẫn đến khả năng không thể hiểu được hoặc
hiểu sai lệch nội dung của quy phạm pháp luật.
Trong phần giả định nêu phạm vi tác động của quy phạm pháp luật.
Do vậy, khi xây dựng pháp luật cần phải dự kiến được mức tối đa những tình
huống (hoàn cảnh, điều kiện) có thể xảy ra trong đời sống thực tế mà trong
đó quan hệ xã hội cần phải được điều chỉnh bằng pháp luật.
Các tổ chức, cá nhân khi thực hiện pháp luật cần phải nhận thức thật

chính xác xem chủ thể nào chịu sự tác động của quy phạm pháp luật đó.
Chẳng hạn, Khoản 1 Điều 102 Bộ luật hình sự Việt Nam 1999 quy định: “
Người nào thấy người khác đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng,
tuy có điều kiện mà không cứu giúp dẫn đến hậu quả người đó chết, thì bị
3
phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng
đến hai năm”. Hoàn cảnh ở đây là: “người nào thấy người khác đang ở trong
tình trạng nguy hiểm đến tính mạng”, nhưng chủ thể chịu sự tác động của quy
phạm này không phải là tất cả những người trong hoàn cảnh đó mà chỉ gồm
những người: “tuy có điều kiện mà không cứu giúp dẫn đến hậu quả người đó
chết”. Như vậy, trong cùng một hoàn cảnh nhưng không phải mọi tổ chức
hay cá nhân ở vào hoàn cảnh ấy cũng chịu sự tác động của quy phạm đó mà
chỉ là những chủ thể có liên quan đến phần chỉ dẫn (mệnh lệnh) của quy
phạm mới chịu sự tác động của quy phạm (chủ thể được, buộc phải thực hiện
quy phạm đó hoặc bị áp dụng quy phạm đó).
Giả định của quy phạm pháp luật có thể giản đơn (chỉ nêu một hoàn
cảnh, điều kiện). Ví dụ: “Công dân có nghĩa vụ đóng thuế và lao động công
ích theo quy định của pháp luật” (Điều 80 Hiến pháp 1992) hoặc có thể phức
tạp (nêu lê nhiều hoàn cảnh, điều kiện). Ví dụ: “Người nào thấy người khác
đang ở tring tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, tuy có điều kiện mà không
cứu giúp dẫn đến hậu quả người đó chết, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không
giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm” (Khoản 1 Điều
102 Bộ Luật hình sự 1999).
Những hoàn cảnh, điều kiện và chủ thể được nêu trong phần giả định
các quy phạm pháp luật có thể được nêu theo cách liệt kê (kể tên tất cả các
tình huống có thể xảy ra. Chẳng hạn, Điều 29 Điều lệ trật tự an toàn giao
thông đô thị 1995 quy định: “Nghiêm cấm người điều khiển các loại xe trong
các trường hợp sau đây: a. Do tình trạng sức khỏe không tự chủ điều khiển
được tốc độ xe; b. Người lái xe đang điều khiển xe trên đường mà trong máu
có nồng độ cồn, rượu, bia vượt quá 80mmg/100mml máu hoặc 40mmg/1 lít

khí thở và các chất kích thích khác; c. Không có đủ giấy tờ đã quy định…”),
nhưng cũng có thể được nêu theo cách loại trừ (loại trừ những chủ thể hoặc
những trường hợp không chịu sự tác động của quy phạm. Chẳng hạn, Điều 7
Luật tổ chức tòa án nhân dân 1992 quy định: “Tòa án xét xử công khai, trừ
trường hợp cần xét xử kín để giữ gìn bí mật nhà nước hoặc thuần phong mỹ
tục của dân tộc”).
Giả định của quy phạm pháp luật có thể thay đổi do sự thay đổi của
các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội…của đất nước hoặc sự thay đổi của
các quan điểm chính trị - pháp lý của nhà nước và sự nhận thức của những
người có liên quan tới quá trình xây dựng pháp luật của nhà nước.
2.2. Quy định.
a. Khái niệm.
Quy định là bộ phận của quy phạm pháp luật trong đó nêu cách xử sự mà tổ
chức hay cá nhân ở vào hoàn cảnh, điều kiện đã nêu trong bộ phận giả định
của quy phạm pháp luật được phép hoặc buộc phải thực hiện.
b. Mục đích, ý nghĩa.
Bộ phận quy định trả lời cho câu hỏi: “Phải làm gì? Được làm gì?
Không được làm gì? Làm như thế nào?”
4
Ví dụ: Điều 1, Pháp lệnh thuế nông nghiệp có viết: “Mọi tổ chức và cá nhân
sử dụng đất nông nghiệp và các loại đất khác vào sản xuất nông nghiệp thì
phải nộp thuế nông nghiệp.” Trong quy phạm này bộ phận quy định (phải
làm gì?) là: “phải nộp thuế nông nghiệp”.
Thông qua bộ phận quy định của quy phạm pháp luật các chủ thể pháp
luật mới biết được là nếu như họ ở trong hoàn cảnh, điều kiện đã nêu trong
phần giả định của quy phạm thì họ phải làm gì? Được làm gì? Hoặc không
được làm gì?
Như vậy, bộ phận quy định của quy phạm pháp luật đã thiết lập cho các chủ
thể tham gia quan hệ xã hội mà quy phạm pháp luật điều chỉnh có các quyền
và nghĩa vụ nhất định.

c.. Yêu cầu.
Bộ phận quy định của quy phạm pháp luật thường được nêu ở dạng:
Cấm, không được, phải, thì, được, có… Mức độ chính xác, chặt chẽ, rõ rang
của bộ phận quy định là một trong những điều kiện đảm bảo nguyên tắc pháp
chế trong hoạt động của các chủ thể pháp luật.
Mệnh lệnh được nêu ở bộ phận quy định có thể dứt khoát (chỉ có một
sự lựa chọn cho chủ thể tham gia) hoặc không dứt khoát (nêu ra hai hoặc
nhiều cách xử sự và cho phép các tổ chức hoặc cá nhân chủ thể lựa chọn).
Trong một số trường hợp khác còn tồn tại trường hợp tùy nghi nó cho phép
các chủ thể có thể tự lựa chọn và xác định quyền và nghĩa vụ của bản thân.
2.3. Chế tài.
a. Khái niệm.
Chế tài là một bộ phận của quy phạm pháp luật nêu lên những biện
pháp tác động mà nhà nước dự kiến để đảm bảo cho pháp luật được thực hiện
nghiêm chỉnh. Các biện pháp tác động nêu ở bộ phận chế tài sẽ được áp dụng
đối với tổ chứ hay cá nhân nào vi phạm pháp luật, không thực hiện đúng
mệnh lệnh của nhà nước đã nêu ở bộ phận quy định của quy phạm pháp luật.
Ví dụ: Khoản 1 Điều 100 Bộ luật hình sự 1999 đã nêu: “Người nào đối xử
tàn ác, thường xuyên ức hiếp, ngược đãi hoặc làm nhục người lệ thuộc mình
làm người đó tự sát, thì bị tù từ hai năm đến bảy năm.” Bộ phận chế tài của
quy phạm này là “thì bị tù từ hai đến bảy năm”.
b. Mục đích, ý nghĩa.
Bộ phận chế tài trả lời cho câu hỏi: Hậu quả sẽ như thế nào nếu vi
phạm pháp luật, không thực hiện đúng những mệnh lệnh của nhà nước đã
nêu ở bộ phận quy định của quy phạm pháp luật.
Chế tài là điều kiện đảm bảo cần thiết cho những quy định của nhà
nước được thực hiện. Trong đó, các biện pháp mà nhà nước đưa ra rất đa
dạng. Như là:
- Những biện pháp cưỡng chế nhà nuước mang tính trừng phạt có
liên quan đến trách nhiệm pháp lý. Loại chế tài này gồm có: Chế tài hình sự,

chế tài hành chính, chế tài kỷ luật và chế tài dân sự.
5

×