Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỂ HỌC SINH VIẾT ĐẸP NGAY TỪ LỚP 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (418.55 KB, 23 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HÀ
NỘI
Phòng giáo dục và đào tạo Thường Tín
&&&
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
“ĐỂ HỌC SINH VIẾT ĐẸP NGAY TỪ LỚP 1”
Người thực hiện: NGUYỄN THỊ THU HUYỀN
Giáo viên chủ nhiệm lớp : 1A
Trường :Tiểu học Chương Dương
Năm học: 2011-2012
1

MỤC LỤC
Trang
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài 3
2. Mục đích nghiên cứu 3
3.Đối tượng nghiên cứu 4
4. Phạm vi nghiên cứu 4
5.Nhiệm vụ nghiên cứu
6. Các tài liệu và phương pháp nghiên cứu 4
7. Thời gian nghiên cứu 4
II. PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận 6
2. Cơ sở tâm lí 7
3. Cấu tạo chữ viết 9
4. Phương pháp dạy Tập viết 14
5 Biện pháp tiến hành 16
6. Kết quả 20
III. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 20
2


I.PHẦN MỞ ĐẦU
1/Lí do chọ n đ ề tài:
Từ thời cổ đại, khi chữ viết ra đời cho tới ngày nay khi Công nghệ
thông tin phát triển khắp toàn cầu, chữ viết vẫn giữ một vai trò quan trọng không
thể thay thế. Đối với lịch sử phát triển của xã hội loài người, chữ viết có một vai
trò rất to lớn. Chữ viết là phương tiện ghi lại thông tin, không có chữ viết thì
không thể có sách, các phát minh, các thành tựu không thể truyền lại.Âm thanh
hay lời nói là cái vỏ vật chất của ngôn ngữ vẫn có những hạn chế nhất định, có
giới hạn, không thể truyền đạt rộng rãi và chính xác, lưu giữ lâu dài như chữ
viết. Âm thanh bị hạn chế về khoảng cách và thời gian theo kiểu "tam sao thất
bản". Chữ viết khắc phục được những điểm trên, là phương tiện hoàn hảo để
truyền đạt thông tin, lưu giữ thông tin, kích thích sự sáng tạo, là thành quả kỳ
diệu, vĩ đại của loài người.
Rèn chữ viết đẹp cũng là một hình thức để phát huy thành quả kì diệu, vĩ
đại đó.
Như chúng ta thấy,dù ở thời đại nào chữ viết đẹp cũng luôn được chú
trọng.
Nhận thức được điều đó, việc rèn chữ trong nhà trường phổ thông,
đặc biệt là cấp tiểu học hiện nay càng quan trọng hơn. Cấp tiểu học chính là bậc
học nền móng; và nền móng đó được bắt đầu từ lớp 1.
Học sinh lớp 1 năm đầu tiên bước vào trường tiểu học, điều gì đối với
các em cũng mới lạ. Thầy cô giáo là những người dạy các em biết đọc biết viết.
Học chữ chính là công việc đầu tiên khi các em đến trường. Vì vậy dạy
chữ chính là dạy người.
Cố vấn Phạm Văn Đồng đã nói: “Chữ viết cũng là một biểu hiện của nết
người. Dạy cho học sinh viết đúng, viết cẩn thận, viết đẹp là góp phần rèn
luyện cho học sinh tính cẩn thận, tính kỷ luật, lòng tự trọng đối với mình cũng
như đối với thày và bạn mình”.
Ở lớp 1, Tập viết là một phân môn có tầm quan trọng đặc biệt ở tiểu học,
nhất là đối với lớp 1. Học vần, tập đọc giúp cho học sinh đọc thông viết thạo.

Viết đúng, đẹp, nhanh, rõ ràng học sinh có điều kiện ghi chép bài học của
tất cả các môn học tốt .Nhờ đó mở ra những cánh cửa bước vào tương lai, là
công cụ để các em vận dụng suốt đời.
Nhận thức được tầm quan trọng đó, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài “ Để
học sinh viết đẹp ngay từ lớp 1”
3
2/ Mụ c đích nghiên c ứu:
Học theo lời dạy của Bác Hồ: "Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích
trăm năm trồng người", "Nét chữ, nết người".
Thực tế hiện nay, chữ viết của các em học sinh tiểu học chưa được đẹp,
chưa đúng mẫu, sự liên kết giữa các nét chữ hoặc liên kết giữa các chữ cái chưa
chuẩn, tốc độ viết còn chậm, học sinh sử dụng nhiều loại bút - nhiều màu mực
để viết bài nên còn hạn chế trong việc giữ gìn “vở sạch - viết chữ đẹp”. Nếu ở
lớp 1 mà không rèn được chữ đẹp thì lên lớp trên lại càng khó có thể rèn các em
viết chữ đẹp được. Các em lớp 1 cũng như những cây non, muốn trở thành các
cây vững chắc sau này thì phải được uốn nắn kịp thời ngay từ những buổi đầu
cầm bút. Tập viết trong nhà trường ít nhất cũng ngang bằng với các môn học
khác. Có như vậy phụ huynh mới quan tâm, tạo điều kiện cho con rèn nét chữ
đẹp.
Trong ngôn ngữ viết có chức năng giao tiếp và được quy định thống
nhất. Mặc dù xác định được tầm quan trọng như vậy nhưng thực tế cho thấy
phân môn tập viết trong trường tiểu học còn chưa được coi trọng. Sách giáo
viên, tài liệu tham khảo chưa cụ thể, rõ ràng như những môn học khác nên việc
dạy phân môn tập viết còn hạn chế. Qua thăm lớp, dự giờ ta thấy có giáo viên
còn chưa nắm vững nên gọi các nét cơ bản để hướng dẫn học sinh. Và việc rèn
chữ ở lớp 1 là việc không hề dễ dàng đối với các thầy cô giáo nói chung vì các
em con nhỏ, tay viết còn chưa “cứng” và còn nhiều lúng túng khi cầm bút viết,
nhất là bút mực.
3/Đ ố i tư ợng nghiên cứu
Đối tượng chính là chữ viết của HS lớp 1.

4/ Phạm vi nghiên cứu
Trong toàn bộ chương trình Tập viết lớp 1
Trong thời gian rèn chữ viết thực tiễn trên lớp.
5/Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài Giúp HS:
- Có nhận thức đúng hơn về tầm quan trọng của việc phải rèn chữ viết.
- Các em không thấy ngại viết hay sợ viết chữ
- Tăng hứng thú trong giờ tập viết

4
6/ Các tài liệ u và phương pháp ng hiên cứu
Để nghiên cứu và thực hiện đề tài tôi sử dụng một số tài liệu sau:
* Mục tiêu môn Tập viết -Sách hướng dẫn Tiếng Việt tập 1, 2
* Chuẩn kiến thức, kĩ năng môn tập viết
* Vở Tập viết lớp 1 tập 1, 2
* Vở thực hành luyện viết chữ đẹp lớp 1, tập 1, 2
* Một số tài liệu khác.
Các phương pháp sử dụng trong đề tài:
- Phương pháp trực quan
- Phương pháp đàm thoại.
- Phương pháp tổng hợp lí luận- thực tiễn.
- Phương pháp thuyết trình.
- Phương pháp luyện tập.
7 /Thời gian thực hiện
Từ tháng 9- 2009 đến tháng 5- 2010
Từ tháng 9 – 2011 đến tháng 4- 2012
5
II. PHẦN NỘI DUNG
1/ Cơ sở lý luận:
Muốn nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh, người giáo viên cần

nắm vững:
a) Yêu cầ u cơ b ản của dạy tập viết ở lớp 1:
+ Kiến thức: Giúp học sinh có được những hiểu biết về đường kẻ, dòng
kẻ, độ cao, cỡ chữ, hình dáng, tên gọi các nét chữ, cấu tạo chữ cái, khoảng cách
giữa các chữ, chữ ghi tiếng, cách viết các chữ viết thường, dấu thanh và chữ số.
+ Kỹ năng: Viết đúng quy trình - nét, viết chữ cái và liên kết các chữ
cái tạo thành chữ ghi tiếng theo yêu cầu liền mạch. Viết thẳng hàng các chữ trên
dòng kẻ. Ngoài ra học sinh còn được rèn luyện các kỹ năng như: tư thế ngồi
viết, cách cầm bút, để vở… bài kiểm tra cuối năm là bài tập chép một đoạn
trong bài tập đọc (không mắc quá 5 lỗi chính tả).
- Muốn đổi mới phương pháp giảng dạy, giáo viên cần hiểu rõ ý đồ của
vở tập viết. Cấu trúc mỗi bài gồm phần tập viết chữ cái và từ ứng dụng.
- Ở vở tập viết lớp 1 thì cứ sau bài học vần có một bài tập viết thêm để
học sinh rèn luyện cách viết các chữ vừa học.
- Các ký hiệu trong vở tập viết phải được học sinh nắm chắc, như: đường
kẻ ngang, quy định độ cao chữ cái, dấu chấm là điểm đặt bút đầu tiên
của chữ, ký hiệu luyện viết ở nhà.

b) Chương tr ình và vở tập viết hiện hành :
Vở tập viết của Bộ giáo dục phát hành giúp học sinh không ngừng nâng
cao về chất lượng chữ viết mà còn phối hợp với các môn học khác nhằm phát
huy vai trò của phân môn tập viết. Chương trình tập viết lớp một gồm có:
Học kỳ I: Sau mỗi bài học vần học sinh được luyện viết những chữ các
em vừa học và mỗi tuần có thêm 1 tiết tập viết.
Học kỳ II: Mỗi tuần có 1 tiết tập viết, mỗi tiết 35 phút và học sinh được
làm quen với chữ viết hoa.
Ngoài ra, vở Thực hành luyện viết cũng là một công cụ theo sát chương
trình học và giúp ích thiết thực cho các em.
6
2/ Cơ sở tâm lý:

Tâm lý tình cảm có ảnh hưởng rất lớn tới quá trình nhận thức. Nếu trẻ
được viết trong tư thế thoải mái, tâm trạng phấn khởi thì dễ có kết quả tốt.
Ngược lại, nếu trẻ buồn phiền thì chữ viết cũng bị ảnh hưởng.
a) Lý thuyết hoạ t đ ộng:
Để viết được chữ thì học sinh phải hoạt động (phải tiêu hao năng lượng
của thần kinh và bắp thịt). Hoạt động viết của học sinh được thực hiện qua thao
tác sau:
- Làm quen với đối tượng: Khi giáo viên hướng dẫn thì trẻ sẽ tri giác
bằng mắt, tai và tay sẽ làm theo.
- Nói điều mình tri giác được, vừa nói vừa đưa tay theo các đường nét
của chữ cái để nhấn mạnh cách viết đồng thời nhận ra tên gọi, hình dáng chữ
đó.
- Nói thầm kiến thức mới thu nhập được để tái hiện hình ảnh đó trong óc
trước khi viết.
- Làm thử: Hình ảnh đã có trong óc cần được thể hiện trên bảng, trên
giấy bằng các dụng cụ như bút bảng, phấn, bút mực.
- Kiểm tra lại kết quả so với mẫu để rút kinh nghiệm cho lần sau.
b) Đ ặ c đi ể m đôi tay tr ẻ khi viết:
- Tay trực tiếp điều khiển quá trình viết của trẻ. Các cơ và xương bàn tay
của trẻ đang độ phát triển nhiều chỗ còn sụn nên cử động các ngón tay vụng
về, chóng mệt mỏi.
- Khi cầm bút các em có tâm lý sợ rơi. Điều này gây nên một phản ứng tự
nhiên là các em cầm bút chặt, các cơ tay cứng nên khó di chuyển.
- Muốn có thói quen viết chữ nhẹ nhàng, thoải mái, trước hết học sinh
phải biết kỹ thuật cầm bút bằng ba ngón tay (ngón cái, ngón trỏ, ngón giữa), bàn
tay phải có điểm tựa là mép cùi của bàn tay. Cầm bút phải tự nhiên, đừng quá
chặt sẽ khó vận động, nếu lỏng quá sẽ không điều khiển được bút. Cổ tay thả
lỏng mềm khi viết sẽ giúp các em đỡ mỏi tay.
- Nếu các em cầm bút sai kỹ thuật bằng 4 đến 5 ngón tay, khi viết vận
động cổ tay, cánh tay thì các em sẽ mau mệt mỏi, sức chú ý kém, kết quả chữ

viết không đúng và nhanh được.
c) Đ ặ c đi ể m đôi m ắt trẻ khi viết:
7
- Trẻ tiếp thu hình ảnh chữ viết qua mắt nhìn. Vì vậy, nếu chữ viết được
trình bày với kích thước quá nhỏ hoặc ánh sáng kém thì các em phải cúi sát
xuống để nhìn cho rõ chữ, từ đó dẫn đến cận thị.
- Trong thời gian đầu, có thể các em nhận ra đúng hình chữ nhưng
bàn tay chưa ghi lại đầy đủ hình dáng của mẫu chữ. Chỉ sau khi luyện tập, số
lần nhắc đi nhắc lại nhiều hay ít tuỳ theo từng học sinh, thì các em mới chép
đúng mẫu.
3/ Cấu tạo chữ viết:
a) Xác đ ịnh tọ a đ ộ và chiề u hư ớng chữ:
Tọa độ chữ được xác định trên đường kẻ ngang của vở tập viết. Mỗi
đơn vị dòng kẻ trong vở gồm có 4 dòng kẻ ngang (1 dòng đầu đậm và 3 dòng
còn lại được in nhạt hơn). Ta ký hiệu đường kẻ trên là số 1 các đường khác là 1,
2, 3 kể từ dưới lên trên.
Ví dụ:

Đường kẻ dọc
Cách xác định tọa độ trên khung chữ phải dựa vào đường kẻ dọc,
đường kẻ ngang và các ô vuông làm định hướng. Đây là một trong những điều
kiện để dạy chữ viết thành một quy trình. Quy trình được thực hiện lần lượt bởi
các thao tác mà hành trình ngòi bút đi qua tọa độ các chữ.
Xác định tọa độ cấu tạo các chữ viết hoa đều phải căn cứ vào các ô
vuông của khung chữ mẫu để phân tích cách viết.
Ngoài việc thống nhất các khái niệm về đường kẻ, ô vuông như trên, để
việc tổ chức dạy tập viết có hiệu quả hơn, cần chú ý thêm một số thuật ngữ có
liên quan:
a.1- Đi ể m đ ặt bút: Là điểm bắt đầu khi viết một nét trong chữ cái.
Điểm đặt bút có thể nằm trên đường kẻ ngang, hoặc không nằm trên đường kẻ

ngang.
8
Ví dụ: Điểm đặt bút nằm trên đường kẻ ngang 1

Điểm đặt bút nằm trên đường kẻ dọc
a.2- Đi ểm dừng bút: Là vị trí kết thúc của nét chữ trong một chữ cái.
Điểm dừng có thể trùng với điểm đặt bút hoặc không nằm trên đường kẻ
ngang.
Ví dụ: Điểm dừng bút nằm trên đường kẻ ngang 2
ơ
a.3- Tọ a đ ộ đi ể m đ ặt hoặc dừng bút: Về cơ bản, tọa độ này thống nhất
ở vị trí 1/3 đơn vị chiều cao chữ cái, có thể ở vị trí trên hoặc dưới đường kẻ
ngang.
a.4- Viết liền mạch: Là thao tác đưa ngòi bút liên tục từ điểm kết thúc
của nét đứng trước tới điểm bắt đầu của nét đứng sau.
am
Ví dụ: - a nối với m -> am


xinh
- x nối với inh -> xinh
9
=> Các nét bút viết liền mạch khi viết không nhấc bút
10
a.5- Kỹ thuật lia bút:
Để đảm bảo tốc độ trong quá trình viết một chữ cái hay viết nối các chữ
cái với nhau, nét bút được thể hiện liên tục nhưng dụng cụ viết (đầu ngòi bút,
phấn) không chạm vào mặt phẳng viết (giấy, bảng). Thao tác đưa bút trên không
gọi là lia bút.
Ví dụ: b nối với a -> ba

b a
=> Từ b -> a không viết liền được ta viết chữ b sau đó lia bút sang
điểm bắt đầu của chữ a.
ba
a.6- Kỹ thuật rê bút: Đó là trường hợp viết đè lên theo hướng ngược lại
với nét chữ vừa viết. Ở đây xảy ra trường hợp dụng cụ viết (đầu ngòi bút,
phấn) chạy nhẹ từ điểm kết thúc của nét đứng trước đến điểm bắt đầu của
nét liền sau.
Ví dụ: Khi viết chữ p phải viết nét thẳng của chữ p sau đó không
nhấc bút để viết mà rê ngược bút lên giữa đường kẻ ngang thứ 2 để viết nét
móc 2 đầu .
p
on
11
a.7- Kĩ thuật nối: Khi nối từ các con chữ có nét cong kín ra các con chữ
khác, ta thực hiện lia bút viết nét nối nhỏ vừa phải phía dưới đường kẻ ngang 1 ,
bên phải chữ o. Ví dụ : on

b) Cấu tạo của chữ cái Tiếng Việt:
Kí hiệu ngôn ngữ do các chất liệu âm thanh hoặc nét đồ họa thể hiện.
Chữ viết được xây dựng trên cơ sở của hệ thống kí tự đã được chuẩn hóa.
Những đặc điểm cấu tạo chữ viết là những yếu tố cần và đủ để phân biệt các
chữ cái khi thể hiện ngôn ngữ viết. Những yếu tố cấu tạo chữ viết này chính là
hệ thống các nét chữ.
Yêu cầu về hệ thống nét: Việc xác định hệ thống các nét chữ được phân
tích trên cơ sở số lượng nét càng ít càng tốt để dễ dạy, dễ học. Đồng thời hệ
thống nét đó lại phản ánh toàn bộ hệ thống chữ cái và chữ số Tiếng Việt. Do
đó, cần quan niệm hệ thống nét cơ bản cấu tạo chữ cái Tiếng Việt gồm hai loại:
* Nét thẳng: thẳng đứng , nét ngang , nét xiên , \
* Nét cong: cong hở (cong phải , cong trái ), cong khép kín .

Tuy nhiên, hệ thống chữ La tinh ghi âm vị Tiếng Việt ngoài các nét cơ bản
trong cấu tạo chữ viết còn có các nét dư. Những nét dư thừa này có chức năng
tạo sự liên kết giữa các nét trong từng chữ cái và giữa các chữ cái với nhau.
Việc cải tiến chữ cái ( kiểu chữ CCGD ) bằng cách lược bỏ những nét dư
thừa đã làm mờ sự khu biệt cần thiết giữa các chữ cái và gây trở ngại trong giao
tiếp, mặt khác cách làm này cho chữ viết tay không liền mạch, không đẹp và
tốc độ viết chậm.Ví dụ: anh
* Nét phối hợp: Trên cơ sở lấy nét chữ cơ bản làm nền, tính từ điểm xuất
phát kéo dài nét đó cho đến khi không thể và không cần thiết kéo dài được nữa
(đến đây đã đủ nét và nếu cứ tiếp tục kéo dài sẽ trùng với nét khác hoặc dư
thừa nét) thì chấm dứt. Loại nét này gọi là nét phối hợp. Nhờ cách quan niệm như
vậy, các nét cấu tạo chữ cái không bị cắt vụn. Chẳng hạn, với chữ cái “a” thông
thường có thể phân thành 3 nét: nét cong trái, nét thẳng đứng và nét cong phải
nhưng khi viết, thông thường người viết kéo dài nét thẳng đứng cho đến khi
kết thúc nét, lúc đó ta được nét móc phải ( là sự kết hợp giữa nét thẳng đứng và
nét cong ). Vì vậy, ta chọn lối phân tích chữ “a” thành 2 nét: nét cong kín và nét
móc phải
Với cách xác định chữ như trên, việc phân tích các chữ trở nên gọn và
dễ hiểu.
Sau đây là danh sách các nét phối hợp cần được thống nhất để dạy viết
nét và viết chữ cái tiếng Việt:
1. Nét móc: Nét móc xuôi, nét móc ngược
12
2. Nét móc hai đầu:
3. Nét thắt giữa:
4. Nét khuyết: - nét khuyết trên
- nét khuyết dưới.
5. Nét thắt đầu
6. Nét sổ :- Nét sổ ngang
- nét sổ thẳng

Cách sắp xếp các chữ cái có hình dáng tương tự vào cùng bài dạy xuất
phát từ quan niệm muốn dùng thao tác tương đồng để dạy chữ cái và dạy viết
theo thứ tự từ đơn giản đến phức tạp xét về cấu tạo nét chữ.
Nhóm 1: Nhóm chữ cái có nét cơ bản là nét cong: c, o, ô, ơ, e, ê, x.
Nhóm 2: Nhóm chữ cái có nét cơ bản là nét cong phối hợp với nét móc
(hoặc nét thẳng): a, ă, â, d, đ, g.
Nhóm 3: Nhóm chữ cái có nét cơ bản là nét móc: i, t, u, ư, p, m, n.
Nhóm 4: Nhóm các chữ cái có nét cơ bản là nét khuyết (hoặc nét cong
phối hợp với nét móc): l, h, k, b, y, g.
Nhóm 5: Nhóm chữ cái có nét móc phối hợp với nét thắt: r,v,s
Về cơ bản, cách sắp xếp này cũng theo sát các nhóm bài luyện tập viết
trong vở.
Đối với chữ hoa, lớp 1 mới tập tô chữ hoa, nhưng cũng cần chia nhóm
chữ để HS dựa vào những điểm tương đồng, sẽ nhớ lâu hơn:
Nhóm 1: A, N, M
Nhóm 2 : B, R, P, D, Đ
Nhóm 3: C, G, S, L, E, Ê, T
Nhóm 4: I, K, H, V
Nhóm 5: X, U, Ư, Y
Nhóm 6: O, Ô, Ơ, Q
Các số cũng được chia nhóm như sau:
Nhóm 1: Số 1, 4, 7 (nhóm các số có chung nét sổ, nét xiên)
Nhóm 2: Số 2, 3, 5 (nhóm các số có chung nét cong)
Nhóm 3: Số 6, 9 (nhóm các số có điểm đạt bút giống nhau và có chung
nét cong )
Nhóm 4: Số 0, 8 ( nhóm các số có điểm dặt bút giống nhau)
4/ Phương pháp dạy tập viết, rèn viết chữ:
4.1) Phương pháp tr ực quan:
13
Giáo viên khắc sâu biểu tượng về chữ cho các em bằng nhiều con đường:

kết hợp mắt nhìn, tai nghe, tay luyện tập. Điều này giúp các em chủ động phân
tích hình dáng, kích thước và cấu tạo theo mẫu chữ, tìm sự giống nhau và khác
nhau của chữ cái đã học trước đó trong cùng một nhóm bằng thao tác so sánh
tương đồng.
Chữ viết mẫu là hình thức trực quan ở tất cả các bài tập viết. Đây là điều
kiện đầu tiên để các em viết đúng. Có các hình thức chữ mẫu: chữ mẫu in
sẵn, chữ phóng to trên bảng hoặc trên máy chiếu hắt, chữ mẫu trong vở tập viết,
hộp chữ mẫu… Tiêu chuẩn cơ bản của chữ mẫu là phải đúng mẫu quy định,
rõ ràng và đẹp.
Chữ mẫu có tác dụng:
- Chữ mẫu phóng to trên bảng hoặc trên máy chiếu sẽ giúp học sinh dễ
quan sát, từ đó tạo điều kiện để các em phân tích hình dáng và các nét chữ cơ
bản, cấu tạo chữ cái cần viết trong bài học.
- Chữ mẫu của giáo viên viết trên bảng sẽ giúp học sinh nắm được thứ tự
các nét chữ của từng chữ cái, cách nối các chữ cái trong 1 chữ nhằm đảm bảo
yêu cầu viết liền mạch, viết nhanh.
Chữ mẫu của giáo viên cũng góp phần gây hứng thú học tập cho học sinh
và quan trọng hơn học sinh sẽ nhìn vào đó để tạo thành cách viết chữ cho bản
thân. Nên chữ giáo viên đẹp, đúng sẽ có tác dụng rất tốt trong việc rèn chữ
cho học sinh.
- Chữ của giáo viên khi chữa bài, chấm bài cũng được quan sát như một
loại chữ mẫu, vì thế giáo viên cần ý thức viết chữ đẹp, đúng mẫu, rõ ràng.
Ngoài ra, để việc dạy chữ không đơn điệu, giáo viên cần coi trọng việc xử
lý quan hệ giữa âm và chữ, tức là giữa đọc và viết. Do đó trong tiến trình
dạy tập viết, nhất là những âm mà địa phương hay lẫn, giáo viên cần đọc mẫu.
Việc viết đúng củng cố việc đọc đúng và đọc đúng đóng góp vai trò
quan trọng để đảm bảo viết đúng.
4.2) Phương pháp đàm tho ại gợi mở:
Phương pháp này được sử dụng chủ yếu ở giai đoạn đầu của tiết học.
Giáo viên dẫn dắt học sinh tiếp xúc với các chữ cái sẽ học bằng một hệ thống

câu hỏi, từ việc hỏi về các nét cấu tạo chữ cái, độ cao, kích thước chữ cái đến
việc so sánh nét giống nhau và nét khác biệt giữa các chữ cái đã học với chữ
cái đã phân tích.
Ví dụ: Khi dạy chữ a, giáo viên có thể đặt câu hỏi: chữ a gồm có bao
nhiêu nét? là những nét nào? chữ a cao mấy ô? độ rộng của chữ là bao nhiêu?

Với những câu hỏi khó, giáo viên cần định hướng cách trả lời cho các
em. Vai trò của giáo viên ở đây là người tổ chức hướng dẫn học sinh phân tích
cấu tạo chữ cái chuẩn bị cho giai đoạn luyện tập viết ở phần sau.
14
4.3) Phương pháp luy ện tập:
Giáo viên cần chú ý đến các giai đoạn của quá trình tập viết chữ.
Việc hướng dẫn học sinh luyện tập phải tiến hành từ thấp đến cao để học sinh
dễ tiếp thu. Lúc đầu là việc viết đúng hình dáng, cấu tạo kích thước các cỡ
chữ, sau đó là viết đúng dòng và đúng tốc độ quy định. Việc rèn luyện kỹ
năng viết chữ phải được tiến hành đồng bộ ở lớp cũng như ở nhà, ở phân môn
tập viết cũng như ở các phân môn của bộ môn Tiếng Việt và các môn học khác.
Việc rèn chữ cũng là một kĩ năng thường xuyên, có khi cần luyện đi
luyện lại nhiều lần , HS mới viết đáp ứng được yêu cầu.
5. Biện pháp tiến hành
a). Thực hiệ n đúng quy đ ịnh khi viết chữ:
* Tư thế ngồi viết: Tư thế lưng thẳng, không tì ngực vào bàn, đầu hơi cúi,
mắt cách vở 25 – 30cm; nên cầm bút tay phải, tay trái tì nhẹ lên mép vở để
trang viết không bị xê dịch; hai chân để song song, thoải mái (tham khảo
hình vẽ minh hoạ ở trang 2, vở Tập viết 1 – tập 1)
* Cách cầm bút: Học sinh cầm bút bằng 3 ngón tay (ngón cái, ngón trỏ và
ngón giữa) với độ chắc vừa phải (không cầm bút chặt quá hay lỏng quá): khi
viết, dùng ba ngón tay di chuyển bút nhẹ nhàng, từ trái sang phải, cán bút
nghiêng về bên phải, cổ tay, khuỷu tay và cánh tay cử động theo, mềm mại,
thoải mái.

* Cách để vở, xê dịch vở khi viết: Khi viết chữ đứng, học sinh cần để
vở ngay ngắn trước mặt. Nếu tập viết chữ nghiêng, tự chọn cần để vở hơi
nghiêng sao cho mép vở phía dưới cùng với mép bàn tạo thành một góc khoảng
15 độ. Khi viết độ nghiêng của nét chữ cùng với mép bàn sẽ tạo thành một
góc vuông 90 độ. Như vậy, dù viết theo kiểu chữ đứng hay kiểu chữ
nghiêng, nét chữ luôn thẳng đứng trước mặt (chỉ khác nhau về cách để vở).
* Cách trình bày bài: Học sinh nhìn và viết đúng theo mẫu trong vở
tập viết; viết theo yêu cầu được giáo viên hướng dẫn tránh viết dở dang chữ ghi
tiếng hoặc viết chòi ra mép vở không có dòng kẻ li; khi viết sai chữ, không được
tẩy xoá mà cần để cách một khoảng ngắn rồi viết lại.
Đối với các loại vở ô li khác, nếu sai sót dùng thước và bút chì gạch chéo
từng chữ. Tuyệt đối không dùng tay gạch bằng bút mực họăc sửa bằng cách
tô đi tô lại chữ.
b) Rèn viết chữ
15
Tập viết chữ (Chữ cái, chữ số, từ ngữ, câu) trên bảng lớp.
Hình thức tập viết trên bảng có tác dụng kiểm tra sự tiếp thu cách viết và
bức đầu đánh giá kỹ năng viết chữ của học sinh. Hình thức này dùng để
kiểm tra bài cũ hoặc sau bước giải thích cách viết chữ, bước luyện tập viết chữ ở
lớp. Từ đó, giáo viên phát hiện những chỗ sai của học sinh để uốn nắn (sai về
kích cỡ, hình dáng, thứ tự các nét viết).
Tập viết chữ vào bảng con của học sinh:
Học sinh luyện tập viết bằng phần (hoặc bút bảng) vào bảng con trước khi
viết vào vở. Học sinh có thể viết chữ cái, vần, chữ khó vào bảng. Khi sử dụng
bảng, giáo viên phải hướng dẫn học sinh cả cách lau bảng, cách giơ bảng, cách
sử dụng và bảo quản phấn…
Luyện viết trong vở:
Muốn cho học sinh sử dụng có hiệu quả vở tập viết, giáo viên cần hướng
dẫn tỉ mỉ nội dung và yêu cầu về kĩ năng viết của từng bài (chữ mẫu, các dấu
chỉ khoảng cách giữa các chữ, dấu chỉ vị trí đặt bút, thứ tự viết nét…) giúp các

em viết đủ, viết đúng số dòng đầu tiên ở mỗi phần bài viết.
Giai đoạn viết bút chì:
Với việc thay sách mới đã chú trọng phần viết hơn nên ngày nào sau tiết
Tiếng Việt học sinh cũng được viết thực hành ngay âm, tiếng, từ vừa học, nhằm
khắc sâu kiến thức về đọc và viết luôn. Vở viết đã cải tiến giúp học sinh được
làm quen ngay với vở kẻ ô ly thuận tiện cho việc rèn chữ ở nhà. Cỡ chữ nhỡ cao
5 ly hoặc kéo xuống 5 ly, cỡ chữ nhỏ thì cao 2 ly rưỡi nên giáo viên phải hướng
dẫn cho học sinh biết đến đường kẻ ly chính xác, có thói quen và ước lượng 1/2
ly.
Ngoài vở tập viết ra tôi còn yêu cầu phụ huynh học sinh mua đồ dùng
học tập cho học sinh đầy đủ, lúc nào trong hộp bút cũng có 2 bút chì loại tốt
vót sẵn không vót nhọn hoặc quá tù. Nếu nhọn quá dẫn đến nét chữ mảnh, đôi
khi còn chọc thủng cả giấy. Ngược lại nếu đầu nét bút chì quá tù nét chữ sẽ to
quá, nét chữ sẽ rất xấu.
Ngoài các tiết tập viết quy định trong một tuần của chương trình, hàng
ngày, tôi vẫn dành thời gian viết mẫu những chữ đã học ở bài học vần cho các
em. Có như vậy chữ viết của những em còn yếu mới có điều kiện vươn lên
cùng với những em học khá hơn.
Tôi đã hướng dẫn học sinh sử dụng bút trong khi viết như sau :
- Cầm bút xuôi theo chiều ngồi, góc đặt bút đặt so với mặt giấy khoảng
45 độ tránh cầm dựng đứng hoặc úp tay quá.
- Đưa bút từ trái sang phải, từ trên xuống dưới. Các nét đưa lên hoặc đưa
sang ngang phải thật nhẹ không ấn mạnh đầu bút chì vào giấy thì chữ đẹp, nét
chữ mềm mại.
- Sau khi viết học sinh cần tự mình nhận xét nét nào được, nét nào hỏng
để rút kinh nghiệm, tránh vấp phải sai sót tương tự ở lần sau.
16
Giai đoạn viết bút mực :
Đặc biệt giai đoạn này học sinh được làm quen với chữ viết 1 ly nên việc
rèn chữ lại gặp nhiều khó khăn.

Tôi khuyến khích phụ huynh sắm hai bút mực cho học sinh. Chọn ngòi bút
nét đều. Nét đều đối với HS lớp 1 là rất hợp lí vì nó thể hiện đúng nét chữ
cơ bản. Chọn ngòi nét đều cũng là theo tinh thần của các cuộc thi viết chữ đẹp
cấp huyện và cấp thành phố. Thống nhất một loại mực cho cả lớp.
- Vở viết ở giai đoạn này lại hết sức quan trọng. Vở phải đều ly và tránh bị
nhoè. Gồm hai loại vở: vở viết chữ hai ly và vở viết chữ một ly.
- Để khắc phục nhược điểm khi học lên các lớp trên chữ các em thường
hẹp và xấu hơn. Khi dạy chữ một ly tôi yêu cầu các em viết thoáng nét viết
ngang hơn để chữ không bị ríu hoặc bị roãng quá.
- Khi viết bút mực, giáo viên lại cần phải hết sức tỉ mỉ, hướng dẫn lại cho
HS cách sử dụng bút để không bị dây mực ra tay, ra vở viết; hướng dẫn cách
cầm bút sao cho không bị nghiêng lệch ngòi bút, cách đưa bút để không bị gai,
không bị tắc mực…
Các giờ học buổi 2 cũng là thời gian lý tưởng để rèn thêm nét chữ cho học
sinh. Hàng tuần, tôi dành 1 tiết để hướng dẫn các em rèn chữ dựa vào những
lỗi sai các em hay mắc phải để học sinh nắm được và sửa các lỗi sai thường gặp
đó.
- Tôi luôn phải cho học sinh tập nhận biết các con chữ của mình, chữ nào
viết đẹp, chữ nào viết chưa đẹp, vì sao lại chưa đẹp. Cũng giống như khi ngắm
những bông hoa cùng loại với nhau, làm sao để phát hiện được bông hoa nào
đẹp hơn cả.
Khi học sinh nhận biết được, sẽ biết tự sửa sai, tiến tới chữ viết nhanh tiến
bộ hơn.
- Tôi thường xuyên cho học sinh chơi trò chơi thư giãn giữa giờ học viết
để các em đỡ mỏi và gây hứng thú, tạo không khí cho giờ học sôi nổi.
- Phân công những em viết đẹp ngồi cạnh em viết chưa đẹp để giúp đỡ
nhau xây dựng đôi bạn cùng tiến.
- Hàng tuần, hàng tháng tôi cho các em viết bài "Thi viết chữ đẹp" để các
em phấn đấu dành điểm tốt. Mỗi điểm 10 tôi lại phát một phiếu "Bông hoa
điểm 10". Cứ 5 điểm mười trở lên cô sẽ thưởng 1 quyển vở hoặc 10 cái nhãn

vở để động viên các em kịp thời.
- Chữ đẹp không chỉ viết ở vở tập viết mà còn phải biết tự rèn luyện viết
đẹp trong tất cả các môn học khác nữa. Sự nghiêm khắc của giáo viên về chất
lượng chữ viết ở tất cả các môn học là cần thiết. Có như thế, việc luyện tập viết
chữ mới được củng cố đồng bộ và thường xuyên
Mỗi bài viết sạch đẹp vở bất cứ môn nào, điểm cao tôi đều tuyên dương
trước lớp để khơi dậy các em ý thức phấn đấu.
- Cá nhân thi đua, từng tổ thi đua, cả lớp thi đua và đã nhiều em chữ
đẹp hơn, rõ ràng rồi thích viết hơn, chăm chỉ hơn.
17
Bên cạnh việc rèn chữ việc giữ vở sạch cũng rất cần thiết và tiến hành song
song vì khi nhìn vào quyển vở sạch các em cũng thấy mình cần phải viết đẹp.
Tôi đề ra: Vở bẩn, quăn mép cô sẽ không chấm điểm và cô sẽ gửi về
cho cha mẹ và xin chữ ký.
Từ đó các em tự tu sửa lại sách vở hoặc nhờ cha mẹ bọc dán lại vở.
Phong trào rèn vở sạch chữ đẹp của cả lớp luôn diễn ra sôi nổi và làm
thường xuyên liên tục.
Thực ra công việc "Rèn chữ" đâu chỉ một sớm, một chiều không chỉ có ở
môn tập viết mà phải làm trong cả một quá trình liên tục ngày này qua ngày
khác, ở tất cả các môn học.
Việc rèn chữ chỉ cần lơ đi một ngày, một tuần thì kể cả những em viết đẹp
rồi cũng lại viết xấu đi và ẩu nữa. Vì học sinh lớp 1 thường hiếu động, nhanh
quên, thiếu kiên trì, khó thực hiện các động tác đòi hỏi sự khéo léo cẩn thận.
Hơn nữa ở nhà nhiều cha mẹ không có điều kiện dạy con.
Để giúp các em khắc phục được những nhược điểm trên giáo viên phải có
đức tính kiên trì. Sự tận tâm, chu đáo của giáo viên là một trong những yếu
tố đảm bảo sự thành công của việc "Rèn luyện".
Việc rèn luyện chữ quả là khó khăn, nhiều em đã viết được đẹp, đều rồi
nhưng lại hay viết sai phụ âm đầu hoặc nhầm dấu thanh.
Nguyên nhân chủ yếu là do các em đọc ngọng theo địa phương, theo

vùng. Cái chính là cha mẹ các em cũng đọc ngọng nên việc rèn luyện cho các
em phân biệt trong chữ viết lại càng khó.
Ví dụ : Chữ viết đúng Chữ viết sai
làm, năm nàm, lăm
đỏ, vẫy đọ, vẫy
Các em đọc có đúng thì chữ viết mới đúng và ngược lại viết đúng sẽ
củng cố việc đọc đúng. Đọc và viết có quan hệ mật thiết với nhau
Thành công của việc rèn luyện chữ viết đòi hỏi người giáo viên ngoài
những hiểu biết về chuyên môn, cần phải có sự kiên trì, cẩn thận và lòng yêu
nghề, mến trẻ.
Tôi cho rằng "chữ đẹp không phải do hoa tay hay di truyền của bố mẹ mà
phần lớn là do quá trình rèn luyện của cô và trò không biết mệt mỏi". Đặc biệt
chữ cô phải đẹp, trình bày bảng khoa học đó chính là tấm gương sáng cho học
sinh noi theo.
6. Kết quả
Bằng kinh nghiệm của bản thân về việc rèn chữ , cũng với vai trò là
GVCN của lớp 1A. Kết quả xếp loại “ Vở sạch, chữ đẹp” của lớp 1A đã đạt:

Sĩ số lớp :27 em
18
Đợt 1: Xếp loại A: 15 em , đạt tỉ lệ 55,6%
Xếp loại B: 08 em , đạt tỉ lệ 29,6%
Xếp loại C : 04 em , đạt tỉ lệ 14,8%
Đợt 3: Xếp loại A: 18 em , đạt tỉ lệ 66,7%
Xếp loại B: 9 em , đạt tỉ lệ 33,3%
Xếp loại C :0 em , đạt tỉ lệ 0%
Trong đợt thi viết chữ đẹp cấp trường, lớp có 3 HS thi, kết quả cả 3 em
đều đạt giải, trong đó có 2 giải nhì, 1 giải 3
Sau đây là một số bài viết của HS lớp tôi:
1. Nguyễn Thị Thùy Anh

2. Nguyễn Quỳnh Chi
3. Đỗ Huyền Ngọc
19
Với kết quả trên cho thấy sự tiến bộ của các em trong việc rèn chữ, giữ
vở. Tuy nhiên , tôi tự cảm thấy chưa hài lòng với kết quả mình đạt được, bản
thân tôi cần cố gắng hơn nữa để đạt kết quả cao hơn, để các em học sinh có
chữ viết đẹp - một cái vốn mà thầy cô đã cấp cho các em từ lớp 1, các em sẽ
mang theo chữ viết đẹp suốt cả cuộc đời.
III. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
Qua một thời gian áp dụng, tôi thấy học sinh lớp có những chuyển biến rõ
rệt về chữ viết. Viết nắn nót, cẩn thận đã thành thói quen của học sinh. Các em
luôn tự giác trong học tập, sách vở luôn giữ sạch đẹp. Vở viết của học sinh
đảm bảo chất lượng, chữ viết đúng mẫu, tốc độ viết đúng quy định. Bản
thân giáo viên khi dạy cũng thấy hứng thú, say sưa nâng cao chất lượng giờ dạy
tốt hơn.
Tuy vậy trong quá trình dạy học sinh tôi nhận thấy còn một vài bất cập
sau đây:
-Nêú có thể, điều chỉnh lại nội dung vở tập viết (cả phần chữ hoa ) sao
cho phù hợp với các nhóm chữ cái đã nêu ở phần trên , giúp HS dễ tiếp thu và
nhanh viết được chữ đúng, đẹp.
-Nâng cao chất lượng vở tập viết ( giấy quá mỏng, học sinh viết bị nhòe
nên các em phải viết bút bi, bút chì…)
- Cần có quy định cụ thể về thời gian cho học sinh chuyển sang viết
cỡ chữ nhỏ để đảm bảo chất lượng chữ viết khi chuyển sang viết chính tả.Chỉ
nên cho học sinh viết cỡ chữ nhỡ hết học kì I, học kì II nên cho các em chuyển
viết chữ nhỏ và tô chữ hoa từ tuần 19. (Hiện nay học sinh viết cỡ chữ nhỡ đến
hết tuần 24, tuần 25 chuyển ngay sang viết chữ nhỏ. nên nhiều học sinh còn lúng
túng, chữ viết xấu do các em ít có thời gian viết chữ nhỏ trước khi chuyển sang
phần viết chính tả.)
20

- Hiện nay có vở ô li có mẫu chữ sẵn rất phù hợp với yêu cầu rèn chữ viết
cho học sinh nhưng cần cải tiến thêm: nên có 3-4 dòng chữ để học sinh tô sau
đó các em viết tiếp xuống dưới.( đối với chữ nhỏ việc làm này sẽ rất hiệu
quả vì các em sẽ xác định được rõ độ rộng, hẹp, độ cao của từng chữ.)
- Các bậc phụ huynh cần quan tâm đến đồ dùng học tập của các cháu
hơn nữa . Thường xuyên theo sát bài học của con em mình, tránh cho các cháu
mắc nhũng lỗi sai khi ở nhà không có sự kèm cặp của cô giáo. Lúc này bố mẹ
chính là người thầy cô giáo thứ hai. Kịp thời động viên nhắc nhở để các em có
động lực học tập cả ở lớp cũng như ở nhà.
Trên đây là một vài suy nghĩ của tôi về phương pháp “rèn chữ “ để nâng
cao chất lượng chữ viết, vở viết cho học sinh. Ngoài kinh nghiệm của bản thân,
tôi còn luôn luôn học hỏi kinh nghiệm của các bạn đồng nghiệp để góp phần
nâng cao chất lương sự nghiệp giáo dục. Tôi rất mong sự đóng góp ý kiến
nhiệt tình của các cấp lãnh đạo và các bạn đồng nghiệp./
Xin chân thành cảm ơn.
XÁC NHẬN CỦA THỦ
TRƯỞNG CƠ QUAN
Chương Dương, ngày 18 tháng 4 năm
2012
Tôi xin cam đoan đây là SKNN do tôi viết,
không sao chép lại của người khác .
NGƯỜI VIẾT
Nguyễn Thị Thu Huyền
21
Ý kiến của hộ i đ ồng khoa họ c cơ s ở:
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………… …………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………

22
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………
23

×