Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

Hoàn thiện hệ thống tiền lương tối thiểu trong các doanh nghiệp ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (990.08 KB, 72 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Vũ Xuân Đốc
LỜI MỞ ĐẦU
Chính sách tiền lương có vị trí quan trọng trong hệ thống chính sách kinh tế
xã hội của đất nước, là động lực để sử dụng có hiệu quả nguồn lao động. Tiền lương
tối thiểu là một nội dung cơ bản và quan trọng nhất của chính sách tiền lương trong
kinh tế thị trường. Tiền lương tối thiểu tham gia vào quá trình phân phối, điều tiết vĩ
mô về tiền lương và thu nhập trên phạm vi toàn xã hội; đồng thời là yếu tố tham gia
vào hình thành chi phí đầu vào của doanh nghiệp và phân phối theo kết quả đầu ra
của sản xuất kinh doanh.
Trong kinh tế thị trường, tiền lương tối thiểu là một công cụ quản lý tiền
lương quan trọng của Nhà nước nhằm điều tiết quan hệ cung - cầu lao động và bảo
vệ quyền lợi của người lao động, góp phần ngăn chặn sự nghèo đói, tạo sân chơi
cạnh tranh bình đẳng cho các doanh nghiệp, đây cũng được coi là một trong những
chỉ báo quan trọng để xem xét nền kinh tế là nền kinh tế thị trường hay không.
Đối với nước ta, trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, nhận thức về tiền lương tối thiểu trong kinh tế thị trường
ngày càng rõ nét. Chính sách tiền lương ở Việt Nam nói chung và tiền lương tối thiểu
nói riêng qua 5 lần cải cách và cải tiến đã không ngừng hoàn thiện, phù hợp với mỗi
giai đoạn phát triển của đất nước, đã từng bước đổi mới theo định hướng thị trường,
góp phần thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển dựa trên nguyên tắc coi tiền lương là
yếu tố của sản xuất, là giá cả sức lao động được hình thành thông qua sự thoả thuận
giữa người lao động và người sử dụng lao động, phù hợp với quan hệ cung- cầu trên
thị trường lao động.
Tuy nhiên, trong giai đoạn quá độ chuyển đổi từ cơ chế quản lý tập trung, bao
cấp sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế nước ta ngày
càng hội nhập sâu, rộng với kinh tế quốc tế thì tiền lương tối thiểu đối với các doanh
nghiệp ở Việt Nam hiện nay cần được tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện để đáp ứng yêu
cầu thực tế, đó là:
Thứ nhất, tiền lương tối thiểu còn thấp, mới đáp ứng khoảng 70% mức sống
tối thiểu của người lao động và phân biệt theo loại hình doanh nghiệp (doanh nghiệp
dân doanh, doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) tạo ra


SV: Phạm Thị Thanh Thủy Lớp: Quản trị Nhân lực 49B
1
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Vũ Xuân Đốc
sự cạnh tranh không bình đẳng trong việc hình thành chi phí nhân công là không phù
hợp với nguyên tắc của kinh tế thị trường, nhất là khi Việt Nam đã là thành viên của
Tổ chức Thương mại thế giới, tiền lương được coi là một trong các yếu tố để xác
định nền kinh tế thị trường.
Thứ hai, tiền lương tối thiểu, bao gồm từ cơ chế và nguyên tắc hình thành, xác
định mức lương tối thiểu chưa được luật hóa rõ ràng, đầy đủ và thống nhất, đồng bộ,
các căn cứ, tiêu chí điều chỉnh mức lương tối thiểu chưa được lượng hóa cụ thể dẫn
đến việc điều chỉnh tiền lương tối thiểu trên thực tế chưa thực sự dựa trên các nguyên
tắc của kinh tế thị trường. Trong điều kiện thị trường lao động ở nước ta mới được
hình thành, việc thoả thuận tiền lương chưa trở thành thông lệ, người lao động luôn
trong tình trạng bị ép tiền công thì tiền lương tối thiểu hiện nay chưa thực sự là công
cụ tối ưu để bảo vệ người làm công ăn lương, góp phần xây dựng mối quan hệ lao
động trong các doanh nghiệp ổn định, lành mạnh cùng phát triển.
Thứ ba, tiền lương tối thiểu đối với các doanh nghiệp hiện nay vẫn còn rằng
buộc vào tiền lương tối thiểu đối với khu vực hưởng lương từ ngân sách (phụ thuộc
vào khả năng cân đối của ngân sách nhà nước) dẫn đến bị sơ cứng, chưa thực sự điều
chỉnh dựa trên quan hệ cung cầu lao động, không linh hoạt theo nguyên tắc của kinh
tế thị trường, việc bảo vệ quyền lợi của người lao động bị hạn chế.
Các vấn đề bất cấp nêu trên tuy đã được đề cập ở một số đề tài nghiên cứu
trước đây, nhưng mới chỉ dưới dạng phụ đề cho các vấn đề khác hoặc nghiên cứu
riêng lẻ, độc lập, chưa tập trung nghiên cứu tổng thể, đồng bộ. Vì vậy, việc nghiên
cứu đề tài “Hoàn thiện hệ thống tiền lương tối thiểu trong các doanh nghiệp ở Việt
Nam” là rất cần thiết.
Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích, đánh giá mặt được và mặt hạn chế của tiền
lương tối thiểu do Nhà nước quy định, thực trạng tình hình thực hiện các quy định
của nhà nước ở một số doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam và doanh nghiệp hoạt động theo Luật Doanh nghiệp và các yêu

cầu đối với tiền lương tối thiểu trong nền kinh tế thị trường, của Tổ chức lao động
quốc tế, khi Việt Nam tham gia Tổ chức Thương mại thế giới, đề tài khuyến nghị các
nội dung cơ bản hoàn thiện tiền lương tối thiểu đối với các doanh nghiệp ở Việt Nam
SV: Phạm Thị Thanh Thủy Lớp: Quản trị Nhân lực 49B
2
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Vũ Xuân Đốc
phù hợp hơn theo kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế, góp phần xây dựng
mối quan hệ lao động trong các doanh nghiệp ổn định, lành mạnh cùng phát triển,
gồm:
Với phạm vi, đối tượng, mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu nêu trên, ngoài
phần mở đầu và kết luận, đề tài gồm 3 chương chính như sau
Chương 1: Cơ sở lý luận về tiền lương tối thiểu đối với các doanh nghiệp
Chương 2: Thực trạng tiền lương tối thiểu trong các doanh nghiệp hiện nay ở
Việt Nam
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện tiền lương tối thiểu trong
các doanh nghiệp ở Việt Nam
Trong quá trình xây dựng và hoàn thành luận văn tốt nghiệp của mình, em đã
nhận được sự giúp đỡ và tạo điều kiện của Ban lãnh đạo Vụ Lao động – Tiền lương,
đặc biệt là sự hướng dẫn nhiệt tình của các anh chị phòng Tiền lương. Chính sự giúp
đỡ đó đã giúp em có những số liệu cần thiết để hoàn thành chuyên đề, đồng thời nắm
bắt được những kiến thức thực tế về tiền lương tối thiểu trong các doanh nghiệp hiện
nay ở Việt Nam. Những kiến thức này sẽ là hành trang ban đầu cho quá trình công
tác, làm việc của em sau này. Vì vậy, em xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới Ban lãnh
đạo, tới toàn thể cán bộ, nhân viên của Vụ Lao động – Tiền lương, Bộ Lao động –
Thương binh và Xã hội.
Em xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến giáo viên hướng dẫn, Vũ Xuân Đốc. Nhờ
sự quan tâm và hướng dẫn tận tình của thầy mà em có thêm những kiến thức và bài
học quý báu để có thể hoàn thành luận văn của mình.
Sinh viên
Phạm Thị Thanh Thủy

SV: Phạm Thị Thanh Thủy Lớp: Quản trị Nhân lực 49B
3
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Vũ Xuân Đốc
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TIỀN LƯƠNG TỐI THIỂU ĐỐI VỚI
CÁC DOANH NGHIỆP
I. KHÁI NIỆM, ĐẶC TRƯNG, VAI TRÒ VÀ CHỨC NĂNG CƠ BẢN CỦA
TIỀN LƯƠNG TỐI THIỂU.
1. Khái niệm tiền lương tối thiểu.
1.1. Quan niệm tiền lương tối thiểu của C.Mac
Trong lý luận về giá trị thặng dư C. Mác đó chỉ ra “Tiền lương là giá cả hàng
hóa sức lao động, phụ thuộc vào quan hệ cung cầu lao động, lên xuống xoay quanh
giá trị của nó – giá trị sức lao động”. Cũng như các loại hàng hóa khác, giá trị hàng
hóa sức lao động là thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra nó, tức là giá trị
những tư liệu sinh hoạt nhằm bù đắp lại sức lao động đã hao phí của người lao động,
gồm 3 loại chi phí sau: (1) chi phí để nuôi sống và duy trì khả năng lao động của bản
thân người lao động với tư cách là người công dân tự do tự nguyện bán sức lao động
(ký kết hợp đồng lao động); (2) chi phí để học tập và đào tạo để trở thành người lao
động; và (3) chi phí để nuôi sống gia đình người lao động.
Do sự phát triển của khoa học công nghệ và sự đòi hỏi chất lượng lao động
ngày càng cao của nền sản xuất xã hội, nên chi phí học tập và đào tạo ngày càng tăng
và tăng nhanh hơn so với sự tăng lên của 2 loại chi phí còn lại. Trong điều kiện lao
động giản đơn không cần học nghề thì những chi phí cần thiết này chỉ là những hàng
hóa cần thiết để duy trì đời sống người lao động, là “giới hạn tột cùng” của giá trị sức
lao động và tương đối giống nhau giữa những người lao động khác nhau. Từ đó C.
Mác kết luận: “Chi phí sản xuất ra sức lao động đơn giản gồm chi phí sinh hoạt của
người công nhân và chi phí tái sản xuất ra người công nhân. Giá những chi phí sinh
hoạt và chi phí tái sản xuất đó là tiền công. Tiền công được quy định như vậy là tiền
công tối thiểu”
1

.
Nhưng sức lao động chỉ tồn tại khi người lao động sống và tham gia các quan
hệ xã hội, do đó ngoài yếu tố thuần túy sinh lý, giá trị sức lao động còn có tính lịch
1
C. Mac: Lao động làm thuê và tư bản in lần thứ hai, Nxb Sự thật Hà Nội – 1976, trang 38 – 39
SV: Phạm Thị Thanh Thủy Lớp: Quản trị Nhân lực 49B
4
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Vũ Xuân Đốc
sử xã hội. Giới hạn tột cùng của giá trị sức lao động do yếu tố sinh lý quyết định – đó
là giá trị các tư liệu sinh hoạt cần thiết để người công nhân tự duy trì và tái sinh. Yếu
tố lịch sử xã hội phụ thuộc vào hoàn cảnh sống và tập quán sinh hoạt của mỗi cộng
đồng người, vào công bằng và tiến bộ xã hội đạt được trong mỗi thời kỳ ở mỗi vùng,
mỗi quốc gia; yếu tố lịch sử xã hội thường xuyên thay đổi, nhưng có thể không được
tính đến khi xác định giá trị sức lao động.
1.2. Quan niệm tiền lương tối thiểu của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO):
Năm 1919, trong hiến chương thành lập, ILO đã khuyến cáo “Bảo đảm mức
tiền lương đủ sống cho người lao động” là một trong những nội dung nhằm hoàn
thiện các điều kiện lao động, an sinh xã hội và thúc đẩy hoà bình.
Trong Công ước số 26 ngày 30/5/1928 của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO)
cho rằng: “Tiền lương tối thiểu là mức trả công lao động thấp nhất trả cho người lao
động làm các công việc đơn giản nhất đủ đảm bảo cho họ một mức sống tối thiểu với
tư cách là người chủ gia đình, phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội"
Năm 1970, tại Công ước 131 về tiền lương tối thiểu, ILO đã xác định “Bảo
đảm cho những người làm công ăn lương một sự bảo đảm xã hội cần thiết dưới dạng
mức tiền lương tối thiểu đủ sống”. Hay nói cách khác, tiền lương tối thiểu là mức
tiền lương duy trì cuộc sống ở mức tối thiểu cho người làm công ăn lương.
Năm 1976, trong tuyên bố Chương trình hành động tại hội nghị thế giới 3 bên
về việc làm, phân phối thu nhập và tiến bộ xã hội, ILO đã khuyến nghị “Bảo đảm
mức sống tối thiểu là một trong những nội dung cơ bản của chiến lược phát triển
kinh tế xã hội và chính sách tiền lương của mỗi nước”.

1.3. Quan niệm tiền lương tối thiểu trong nền kinh tế thị trường:
Trong nền kinh tế thị trường, tiền lương tối thiểu được xem xét trong mối
quan hệ với việc làm, liên quan trực tiếp đến quan hệ cung cầu trên thị trường lao
động, đó là mức tiền lương thấp nhất trả cho người làm công ăn lương làm công việc
giản đơn trong điều kiện lao động bình thường mà không một người sử dụng lao
động nào có quyền trả thấp hơn. Vì vậy, tiền lương tối thiểu là một trong những
nguyên nhân làm gia tăng tỷ lệ thất nghiệp khi nó được quy định cao hơn tiền lương
cân bằng của quan hệ cung cầu lao động trên thị trường lao động.
SV: Phạm Thị Thanh Thủy Lớp: Quản trị Nhân lực 49B
5
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Vũ Xuân Đốc
Thông thường tiền lương tối thiểu được luật hóa trên cơ sở có sự tham gia của
đại diện người sử dụng lao động và người lao động và trở thành mức sàn thấp nhất
theo quy định của pháp luật để trả cho người làm công ăn lương trên thị trường. Mức
tiền lương tối thiểu không bao gồm các khoản tiền thưởng hoặc phúc lợi xã hội,
không phải là mức trợ cấp xã hội, được tính theo thời gian, thường áp dụng cho lao
động thành niên không có kỹ năng, lần đầu tiên tham gia làm việc và có thể được
tính theo giờ, ngày, tuần hoặc tháng. Các mức tiền lương thấp nhất xác định thông
qua thỏa ước lao động tập thể của các doanh nghiệp không phải là tiền lương tối
thiểu, mà đây là mức lương thỏa thuận giữa ngưởi sử dụng lao động và đại diện
người lao động.
Với những vai trò và đặc điểm nêu trên, tiền lương tối thiểu phải thỏa mãn các
yêu cầu như sau:
- Bảo đảm đời sống tối thiểu cho người lao động ở trình độ lao động phổ
thông, phù hợp với khả năng của nền kinh tế trong từng thời kỳ nhất định, phải bảo
đảm mức sống tối thiểu thực tế cho người hưởng mức lương tối thiểu.
- Được tính đúng, tính đủ để trở thành lưới an toàn chung cho những người
làm công ăn lương trong toàn xã hội, không phân biệt thành phần kinh tế và khu vực
kinh tế.
- Bảo đảm mối quan hệ thực sự giữa mức lương tối thiểu, trung bình và tối đa

để chống lại xu hướng gia tăng chênh lệch bất hợp lý tiền lương giữa các loại lao
động, vi phạm nguyên tắc phân phối theo lao động.
- Là yếu tố tác động đến mức tiền công trên thị trường lao động, tạo điều kiện
cho các doanh nghiệp tính đủ chi phí đầu vào và đầu tư hợp lý giữa các vùng, ngành,
mở rộng môi trường đầu tư và hội nhập.
- Là công cụ điều tiết của Nhà nước nhằm bảo đảm xã hội đối với người lao
động làm việc trong ngành nghề, khu vực có quan hệ lao động, thiết lập những ràng
buộc kinh tế trong lĩnh vực sử dụng lao động, tăng cường trách nhiệm của các bên
trong quan hệ lao động.
1.4. Quan niệm tiền lương tối thiểu ở Việt Nam:
Ở Việt Nam, năm 1993 khi thực hiện cải cách chính sách tiền lương, mức
lương tối thiểu được quan niệm là căn cứ xây dựng hệ thống trả công lao động cho
SV: Phạm Thị Thanh Thủy Lớp: Quản trị Nhân lực 49B
6
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Vũ Xuân Đốc
các khu vực, ngành nghề; tính mức lương cho các loại lao động khác nhau; Tạo ra
lưới an toàn xã hội cho lao động trong cơ chế thị trường; Thiết lập mối quan hệ ràng
buộc kinh tế giữa người sử dụng lao động và người lao động trong thoả thuận ký kết
hợp đồng lao động (về tiền lương, tiền công).
Điều 56 Bộ Luật lao động của Việt Nam chỉ rõ: "Mức lương tối thiểu được
ấn định theo giá sinh hoạt, bảo đảm cho người lao động làm công việc giản đơn
nhất trong điều kiện lao động bình thường bù đắp sức lao động giản đơn và một
phần tích luỹ tái sản xuất mở rộng và được dùng làm căn cứ để tính các mức lương
cho các loại lao động khác. Chính phủ quyết định và công bố mức lương tối thiểu
chung, mức lương tối thiểu vùng, mức lương tối thiểu ngành cho từng thời kỳ sau khi
lấy ý kiến Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và đại diện của người sử dụng lao
động. Khi chỉ số giá sinh hoạt tăng lên làm cho tiền lương thực tế của người lao động
bị giảm sút, thì Chính phủ điều chỉnh mức lương tối thiểu để bảo đảm tiền lương
thực tế.”
Như vậy, tiền lương tối thiểu (hay mức lương tối thiểu) là số lượng tiền thấp

nhất do Nhà nước quy định để trả công cho lao động giản đơn nhất trong xã hội trong
điều kiện lao động bình thường, người sử dụng lao động không được trả lương cho
người lao động thấp hơn mức do Chính phủ quy định. Tiền lương tối thiểu được trả
theo tháng, bao gồm tiền lương tối thiểu chung, tiền lương tối thiểu vùng, tiền lương
tối thiểu ngành.
Tiền lương tối thiểu chung là tiền lương tối thiểu áp dụng cho toàn xã hội, là
"lưới an toàn" cho toàn bộ những người làm việc hưởng lương trong toàn xã hội. Nó
là "nền" của toàn bộ hệ thống tiền lương.
Tiền lương tối thiểu theo vùng là tiền lương tối thiểu dùng cho một vùng nào
đó của đất nước, phụ thuộc vào nhu cầu tối thiểu của bản thân và gia đình người lao
động trong vùng; mức sống chung đạt được và sự chênh lệch mức sống giữa các tầng
lớp dân cư; mức tiền lương, tiền công chung đạt được và yếu tố giá cả trong vùng.
Ngoài các yếu tố trên, tiền lương tối thiểu theo vùng còn phụ thuộc vào các yếu tố
chính trị, kinh tế, xã hội.
Tiền lương tối thiểu theo ngành là tiền lương tối thiểu áp dụng cho một ngành
nào đó, dựa trên cơ sở mức lương tối thiểu chung, mức lương tối thiểu vùng và năng
SV: Phạm Thị Thanh Thủy Lớp: Quản trị Nhân lực 49B
7
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Vũ Xuân Đốc
suất lao động, khả năng chi trả của doanh nghiệp và quan hệ cung cầu lao động của
từng ngành và do đại diện người lao động và người sử dụng lao động thoả thuận, quy
định trong thoả ước lao động ngành.
Nhìn chung, tiền lương tối thiểu phải phản ánh mức sống tối thiểu của người
lao động làm công ăn lương trong từng thời kỳ nhất định. Do kinh tế xã hội ngày
càng phát triển, mức sống của người lao động ngày càng cao đòi hỏi tiền lương tối
thiểu ngày càng phải tăng để đảm bảo đời sống cho những người trong diện hưởng
lương tối thiểu.
2. Đặc trưng, vai trò của tiền lương tối thiểu
2.1. Đặc trưng của tiền lương tối thiểu:
Đặc trưng của tiền lương tối thiểu là những giá trị phản ánh bản chất của nó,

đây là vấn đề có tính nhận thức đã từ lâu là mối quan tâm của chính phủ và các tổ
chức quốc tế.
Trong nền kinh tế thị trường, mục tiêu xã hội của chính sách tiền lương tối
thiểu là nhằm ngăn chặn bóc lột sức lao động và chống đói nghèo. Có nghĩa là lương
tối thiểu đưa ra một sức mua vừa đủ để giúp người lao động có được mức sống cơ
bản. Lương tối thiểu còn có mục tiêu kinh tế - đó là khuyến khích người lao động và
chia sẻ các lợi ích mà tăng trưởng kinh tế mang lại. Như vậy, có thể rút ra bản chất
hay đặc trưng của tiền lương tối thiểu là:
- Tiền lương tối thiểu được xác định dựa trên sự thỏa mãn nhu cầu tối thiểu
(đủ sống) của người lao động làm công ăn lương, bao gồm nhu cầu của bản thân
người lao động và gia đình họ.
- Đó là sự đảm bảo xã hội cần thiết mà các bên (các chủ thể) trong quan hệ lao
động (nhà nước, người sử dụng lao động, người lao động và các chủ thể xã hội khác)
phải dựa vào nó để thương lượng, thỏa thuận và xử lý hài hòa mối quan hệ lợi ích
giữa các bên.
- Tiền lương tối thiểu vừa có mục tiêu về kinh tế vừa có mục tiêu xã hội. Từ
đó, việc xác định mức tiền lương tối thiểu phải tính đến các yếu tố kinh tế và yếu tố
xã hội, để đảm bảo vai trò, chức năng của tiền lương tối thiểu trong kinh tế thị
trường phát huy một cách hiệu quả nhất.
SV: Phạm Thị Thanh Thủy Lớp: Quản trị Nhân lực 49B
8
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Vũ Xuân Đốc
Xuất phát từ thực tiễn, Bộ luật Lao động Việt Nam năm 1995 đã nâng tầm
quan trọng của tiền lương tối thiểu lên đúng vị trí của nó, để chính thức luật hóa thể
hiện ở một số đặc trưng của tiền lương tối thiểu:
- Một là, tương ứng với trình độ lao động giản đơn nhất, người lao động
không cần qua đào tạo nghề cũng có thể làm được và làm việc trong điều kiện lao
động bình thường không có hại cho sức khỏe của người lao động;
- Hai là, mức lương tối thiểu phải đủ để mua những tư liệu sinh hoạt và dịch
vụ cần thiết bù đắp sức lao động giản đơn và một phần để tích lũy tái sản xuất sức

lao động mở rộng phù hợp với mức sống chung của xã hội;
- Ba là, được dùng làm cơ sở để tính các mức lương cho các loại lao động
khác nhau;
- Bốn là, mức lương tối thiểu (chung, vùng, ngành) do Chính phủ quyết định
và công bố sau khi tham khảo ý kiến của đại diện người lao động và người sử dụng
lao động;
- Năm là, được điều chỉnh theo giá sinh hoạt, mức độ tăng trưởng của nền
kinh tế và cung cầu lao động trên thị trường từng thời kỳ.
2.2. Vai trò của tiền lương tối thiểu:
Vai trò của tiền lương tối thiểu sớm được khẳng định trong Công ước số 26
ngày 30/5/1928 của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO). Đây có giá trị như một văn bản
pháp quy đầu tiên về việc luật pháp hoá các quy chế xây dựng mức lương tối thiểu
của các nước thành viên. Tổ chức lao động quốc tế cho rằng: “Tiền lương tối thiểu là
mức trả công lao động thấp nhất trả cho người lao động làm các công việc đơn giản
nhất đủ đảm bảo cho họ một mức sống tối thiểu với tư cách là người chủ gia đình,
phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội". Hội nghị Quốc tế của ILO họp ở Thái Lan
(12/1990) đã khẳng định vai trò cần thiết của việc thiết lập chế độ tiền lương tối thiểu
trong các nước, nhất là đối với các nước đang phát triển.
Tiền lương tối thiểu do Nhà nước quy định là mức “sàn” thấp nhất của xã hội
để trả công cho người lao động tham gia quan hệ lao động, làm công việc giản đơn
nhất trong điều kiện lao động bình thường trên thị trường lao động, cho khu vực có
quan hệ lao động, không phân biệt thành phần kinh tế, ngành, nghề, vùng lãnh thổ.
Tiền lương tối thiểu là một trong những công cụ quan trọng quản lý vĩ mô của Nhà
SV: Phạm Thị Thanh Thủy Lớp: Quản trị Nhân lực 49B
9
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Vũ Xuân Đốc
nước về lĩnh vực tiền lương, tiền công và lao động, việc làm nhằm đảm bảo vai trò
điều tiết của Nhà nước và phát huy quyền tự chủ của doanh nghiệp. Chính sách tiền
lương tối thiểu được coi là một trong những biện pháp của Nhà nước nhằm chống
nghèo đói, ngăn cản bần cùng hóa dưới mức cho phép và thúc đẩy kinh tế phát triển.

Tuy nhiên, tuỳ từng nơi, từng lúc, vai trò của tiền lương tối thiểu được thể
hiện khác nhau, nhưng có vai trò chủ yếu như sau:
- Tiền lương tối thiểu là lưới an toàn đối với người lao động. Người sử dụng
lao động không được trả công thấp hơn mức lương tối thiểu, nên loại trừ sự bóc lột
thậm tệ có thể xảy ra đối với những người làm công, ăn lương trước sức ép mức cung
quá lớn của thị trường sức lao động.
- Bảo đảm sức mua cho các mức tiền lương khác trước sự gia tăng của lạm
phát và các yếu tố kinh tế xã hội khác thông qua việc điều chỉnh tiền lương tối thiểu.
- Giảm bớt sự đói nghèo. Vì vậy việc xác định tiền lương tối thiểu được coi là
một trong những biện pháp quan trọng để tiến công trực tiếp vào đói nghèo của một
quốc gia.
- Loại bỏ sự cạnh tranh không công bằng, chống lại xu hướng giảm chi phí
các yếu tố sản xuất tới mức không thoả đáng trong đó có tiền lương. Luật tiền lương
tối thiểu buộc các chủ doanh nghiệp phải tìm mọi cách khác để giảm chi phí và tăng
hiệu quả của sản xuất kinh doanh.
- Bảo đảm sự trả công tương đương cho những công việc tương đương. Luật
tiền lương tối thiểu ở mức độ nào đó là sự điều chỉnh quan hệ về tiền lương trong các
nhóm người lao động mà ở đó tiền lương không được tính đúng mức (phụ nữ- nam
giới, tiền lương ở các vùng khác nhau, giữa các đẳng cấp, nhóm lao động khác nhau).
- Phòng ngừa sự xung đột giữa giới chủ và giới thợ làm ảnh hưởng đến sự
phát triển kinh tế, vì tiền lương tối thiểu là công cụ của nhà nước trong việc điều tiết
thu nhập giữa giới chủ và người lao động.
Tóm lại, mục tiêu có tính khái quát đặt ra của tiền lương tối thiểu là nhằm đáp
ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường trong đó phải tạo điều kiện để tự do dịch
chuyển lao động và khả năng thoả thuận của các bên có liên quan; đồng thời là lưới
an toàn chung cho lao động xã hội. Tiền lương tối thiểu là căn cứ để xác định mức
SV: Phạm Thị Thanh Thủy Lớp: Quản trị Nhân lực 49B
10
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Vũ Xuân Đốc
tiền công của các loại lao động góp phần điều tiết cung cầu lao động, phát triển thị

trường lao động lành mạnh.
Tuy nhiên, trong điều kiện kinh tế của nước ta trong giai đoạn hiện nay, mặc
dù đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế, ổn định chính trị, xã
hội nhưng điểm xuất phát chưa cao, GDP bình quân đầu người, khả năng cạnh tranh
của nền kinh tế còn thấp, khả năng ngân sách còn hạn hẹp, cung cầu lao động vẫn
còn mất cân đối, năng suất lao động so với khu vực và thế giới còn rất thấp, chất
lượng nguồn lao động chưa cao, thì mặc dù mục tiêu đề ra của tiền lương tối thiểu là
đúng đắn nhưng lại khá cao so với khả năng của nền kinh tế và trình độ phát triển xã
hội. Vì vậy, ngoài các mục tiêu có tính chiến lược, cần phải có các mục tiêu cụ thể
phù hợp với phát triển kinh tế và nhận thức của từng giai đoạn để có tính khả thi.
3. Chức năng của tiền lương tối thiểu
3.1. Chức năng kinh tế của tiền lương tối thiểu:
- Đảm bảo tái sản xuất giản đơn và một phần tái sản xuất mở rộng sức lao
động. Đây là chức năng rất cơ bản để duy trì và tái tạo sức lao động, một trong
những yếu tố quan trọng nhất của tái sản xuất, góp phần tăng trưởng và phát triển
kinh tế. Đảm bảo tiền lương tối thiểu đủ sống là một trong những điều kiện và tiền đề
cơ bản, tối thiểu để phát triển nguồn nhân lực.
- Tiền lương tối thiểu liên quan rất chặt với thị trường lao động, phụ thuộc vào
quan hệ cung - cầu lao động. Do đó, nó có chức năng kinh tế quan trọng là phân bố
nguồn lực hợp lý, nhất là phân bố nguồn nhân lực, thúc đẩy thị trường lao động phát
triển và phân công lao động xã hội trên phạm vi cả nước, vùng lãnh thổ, theo ngành.
- Tiền lương tối thiểu không chỉ có chức năng bảo vệ lợi ích của người lao
động, mà còn đảm bảo lợi ích của người sử dụng lao động, có chức năng khuyến
khích đầu tư trong nước và thu hút đầu tư nước ngoài, thúc đẩy phân công lao động
quốc tế trong xu thế toàn cầu hóa.
3.2. Chức năng xã hội (chức năng cơ bản) của tiền lương tối thiểu:
- Tiền lương tối thiểu được quy định với mức hợp lý, đủ sống là lưới an
toàn cho tất cả những người làm công ăn lương trong cơ chế thị trường, để người
lao động sống với tư cách của một con người, chống bần cùng và bóc lột quá mức
người lao động.

SV: Phạm Thị Thanh Thủy Lớp: Quản trị Nhân lực 49B
11
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Vũ Xuân Đốc
- Tiền lương tối thiểu thuộc phạm trù phân phối. Mức tiền lương tối thiểu
được quy định hợp lý có chức năng điều tiết thu nhập nhằm thực hiện quan hệ phân
phối công bằng giữa những người lao động, giữa các vùng, các ngành, nhất là đảm
bảo quan hệ cánh kéo giữa nông thôn và thành thị. Tiền lương tối thiểu được coi là
một loại chuẩn trong mối quan hệ với các chuẩn khác thuộc chính sách xã hội như
chuẩn nghèo, chuẩn trợ cấp ưu đãi người có công, trợ cấp xã hội khác
- Mức tiền lương tối thiểu quy định là căn cứ để các bên trong quan hệ lao
động thỏa thuận về tiền lương ghi trong hợp đồng lao động cá nhân và thỏa ước lao
động tập thể nên nó có chức năng xây dựng và phát triển quan hệ lao động hài hòa,
đồng thuận, tham gia phát triển cộng đồng.
II. SƠ LƯỢC VỀ TIỀN LƯƠNG TỐI THIỂU QUA CÁC THỜI KÌ.
1. Tiền lương tối thiểu trong thời chiến (1946 - 1954).
Sau ngày thành lập nước năm 1946, Chính phủ và Hồ Chủ Tịch đã quyết định
bảo lưu lương và phụ cấp của bản thân và gia đình công nhân, viên chức của chính
quyền cũ được giữ lại làm việc dưới chính quyền mới, trong đó mức lương tối thiểu là
180 đồng tương đương với giá của 72 kg gạo. Đến năm 1947 do giá gạo tăng, mức
lương đó chỉ còn ngang giá với 60 kg gạo, nên Chính phủ đã định ra chế độ phụ cấp
đắt đỏ căn cứ vào giá gạo thị trường, đồng thời định thêm chế độ phụ cấp cho vợ, con.
Năm 1948, tiếp thu những yếu tố hợp lý của chế độ tiền lương công chức của
chính quyền cũ và trước tình hình giá cả tiếp tục tăng, Chính phủ đã ban hành Sắc
lệnh số 188/SL ngày 29/5/1948 quy định chế độ tiền lương công chức theo bảng
lương 25 bậc với 5 ngạch (tá sự, cán sự, tham sự, kiểm sự, giám sự), trong đó ấn định
mức lương tối thiểu 220 đồng. Mức lương tối thiểu 220 đồng, chỉ tương đương giá
với 55 kg gạo, nên Chính phủ định thêm chế độ phụ cấp gia đình: vợ 50 đồng/tháng,
con tuỳ theo số lượng phải nuôi được hưởng thêm như sau: con thứ nhất 30
đồng/tháng; con thứ hai 40 đồng/tháng; con thứ ba 50 đồng/tháng; con thứ tư 60
đồng/tháng, đồng thời định ra chế độ phụ cấp đắt đỏ căn cứ vào giá gạo thị trường:

người lao động 100%, vợ 100%, con bằng 50%.
Các năm 1949 và 1950 là những năm cực kỳ khó khăn của cuộc kháng chiến
chống Pháp, Chính phủ đã tìm nhiều biện pháp để bảo đảm mức sống tối thiểu của
công nhân viên chức. Nhưng do giá cả tăng nhanh, mỗi biện pháp chỉ được áp dụng
SV: Phạm Thị Thanh Thủy Lớp: Quản trị Nhân lực 49B
12
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Vũ Xuân Đốc
một thời gian ngắn, đời sống của công nhân viên chức gặp nhiều khó khăn. Đến
tháng 5/1950, Chính phủ lấy gạo làm gốc và quyết định trả lương bằng gạo. Mức
lương tối thiểu lúc này quy định như sau: bản thân người lao động 35 kg/tháng; vợ
hưởng 11 kg/tháng; mỗi con 5,5 kg/tháng, không phân biệt là con thứ mấy (nếu một
người lao động có 2 con, mỗi tháng sẽ nhận được 57 kg gạo).
Năm 1953, Chính phủ quy định thêm chế độ phụ cấp với gạo, muối, vải, mức
lương được nâng lên 43 kg gạo của bản thân người lao động, ngoài ra còn có lương
hiện vật bằng 1 chăn, 1 màn và 1 áo trấn thủ. Lúc này đã bỏ phụ cấp nuôi vợ nhưng
nâng phụ cấp nuôi con lên 12 kg/tháng. Nếu hai vợ chồng cùng công tác, mỗi con
được 20 kg/tháng, có 2 con sẽ được nhận tối thiểu 123 kg/tháng, bình quân 1 lao
động 63 kg và hai suất chăn, màn, áo trấn thủ.
Sau cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, Chính phủ trả lương
thống nhất tính bằng tiền, bỏ phụ cấp con, mức lương tối thiểu bằng 36.000
đồng/tháng, tương đương với 75 kg gạo. Ở các xí nghiệp trong vùng mới giải phóng,
mức lương tối thiểu là 26.000 đồng/tháng (ăn 18.000 đồng, mặc 4.000 đồng, tiêu vặt
4.000 đồng), tương đương giá của 65 kg gạo/tháng. Riêng lao động công trường là
27.000 đồng/tháng.
2. Tiền lương tối thiểu trong thời kì kế hoạch hóa ( 1955 – 1985).
Sau hòa bình lập lại (1954), nước ta bước vào thời kỳ khôi phục và phát triển
kinh tế (1955 - 1958) và bước vào kế hoạch hóa phát triển kinh tế xã hội 3 năm
(1958 - 1960), từ năm 1960, tiếp thu được lý luận về tiền lương của các nước xã hội
chủ nghĩa, đặc biệt là của Liên Xô, chế độ tiền lương đã được thiết kế khoa học hơn,
trong đó mức lương tối thiểu đã được thiết kế trên cơ sở nhu cầu tối thiểu, mức sống

tối thiểu (của bản thân người lao động có tính một phần nuôi con) và quan hệ với thu
nhập của nông dân (khoảng 10,2 đồng/người/tháng), trong đó chi về ăn bằng 73%
(Thực đơn cho nhu cầu ăn phần cơ thể hấp thụ được là 2140 Kcal/24h, chất lượng
chủ yếu là gluxit); mặc bằng 27%. Trên cơ sở đó, mức lương tối thiểu năm 1955
được ấn định là 26.000 đồng/tháng, tương đương 65 kg gạo; đến cuối năm 1955 điều
chỉnh lên 27,3 đồng (giữ như cũ 26.000 đồng/tháng và cộng thêm 5%), ngang giá với
68 kg gạo; nhà ở lúc này được Nhà nước bao cấp ở mức tối thiểu; công nhân viên
chức được hưởng chế độ chữa bệnh không mất tiền và con của cán bộ công nhân
SV: Phạm Thị Thanh Thủy Lớp: Quản trị Nhân lực 49B
13
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Vũ Xuân Đốc
viên đi học cũng không mất tiền. Ngoài ra từ con thứ ba trở đi, mỗi con được phụ cấp
5 đồng/tháng tương đương với giá 12,5 kg gạo.
Mức lương tối thiểu ấn định năm 1958 bảo đảm cho người lao động và gia
đình người lao động một mức sống tối thiểu từ khi thiết kế. Nhưng mấy năm sau, giá
cả ngày một tăng, Nhà nước phải bổ sung vào tiền lương chế độ cung cấp bằng hiện
vật. Chế độ tem, phiếu bắt đầu và ngày càng mở rộng nhằm bảo đảm cho người lao
động một mức sống tối thiểu. Những cố gắng đó ngày càng tỏ ra không thành công,
lương cung cấp bằng hiện vật của nhà nước giảm dần, trong khi đó giá cả thị trường
ngày càng tăng nhanh. Đời sống người lao động gặp nhiều khó khăn, sức mua của
tiền lương giảm xuống một cách rõ rệt, chỉ bằng 10% sức mua ban đầu. Nhà nước đã
điều chỉnh nhiều lần thông qua các loại phụ cấp.
Đến đầu năm 1960 và trong những năm 1960, Nhà nước thực hiện cải tiến
chính sách tiền lương, theo hướng tổ chức lại hệ thống thang, bậc lương, quan hệ tiền
lương (lương tối đa được nâng lên gấp 9 lần so với lương tối thiểu), nhưng vẫn giữ
nguyên mức lương tối thiểu 27,30 đồng/tháng (bao gồm: chi về ăn 64,5%; mặc, nhà
ở 21,8%; chi tiêu dùng thường xuyên 13,7%). Đến năm 1981, Nhà nước tiến hành
điều chỉnh Giá - Lương - Tiền nhằm tạo điều kiện giữ vững tiền lương thực tế cho
người hưởng lương. Tính đến tháng 8/1985, Nhà nước nhiều lần tăng tiền lương
danh nghĩa thông qua các hình thức trợ cấp tạm thời, tiền thưởng, khuyến khích

lương sản phẩm, lương khoán nhưng do giá cả tăng nhanh nên tiền lương thực tế
tiếp tục giảm (tháng 8/1985 so với tháng 12/1980, chỉ số tiền lương danh nghĩa tăng
6 lần, chỉ số giá sinh hoạt tăng 13 lần, chỉ số tiền lương thực tế chỉ còn 46%).
Năm 1985, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 khoá 5, đã ra Nghị quyết sửa
đổi chế độ tiền lương. Lúc này, mức lương tối thiểu được xác định gồm 3 phần: Phần
chi về ăn (chiếm khoảng 66%); Phần chi về mặc, đồ dùng, đi lại, văn hoá- dịch vụ
(chiếm 34%), ngoài ra còn tính một phần chi tiêu để nuôi con (hoặc người ăn theo)
bằng 38% chi tiêu của bản thân. Trên cơ sở đó, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết
định 235/HĐBT ngày 18-9-1985 quy định chế độ tiền lương mới, trong đó ấn định
mức lương tối thiểu là 220 đồng/tháng (tiền mới) tương đương với 45 kg gạo theo
thời giá. Lần này đã tiền tệ hoá hầu hết các mặt hàng tiêu dùng theo nhu cầu tối thiểu
hàng ngày (gồm 44 mặt hàng về lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng), chế độ
SV: Phạm Thị Thanh Thủy Lớp: Quản trị Nhân lực 49B
14
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Vũ Xuân Đốc
tem phiếu được bãi bỏ (trừ gạo). Tuy nhiên còn một số chế độ cung cấp hiện vật
không mất tiền hoặc đã được tính với giá bao cấp (nhà ở, điện, nước, chữa bệnh, học
hành, đi lại), bằng khoảng 0,56 lần mức tiền lương tối thiểu.
3. Tiền lương tối thiểu trong thời kì đổi mới ( 1986 đến nay).
Khi đất nước thực hiện công cuộc đổi mới theo cơ chế thị trường (năm 1986),
chế độ tiền lương năm 1985 (theo cơ chế kế hoạch hóa) không còn phù hợp, vì vậy
trong tiếp tục thực hiện chế độ tiền lương năm 1986 thì việc nghiên cứu cải cách
chính sách tiền lương cũng đã được đặt ra, trước hết là việc quy định tiền lương tối
thiểu cho loại hình doanh nghiệp.
Năm 1987, thực hiện Luật Đầu tư nước ngoài, được sự ủy quyền của Thủ tướng
Chính phủ, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội quy định mức lương tối thiểu đối với
lao động Việt nam làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (doanh
nghiệp FDI) là 50 USD/tháng. Mức lương này được tính toán, xác định trên nguyên
tắc tính đúng, tính đủ tiền lương Nhà nước không bao cấp, bảo đảm mức sống tối thiểu
cho người lao động, phù hợp với năng suất lao động và cường độ lao động của người

lao động trong doanh nghiệp FDI. Các doanh nghiệp trong nước vẫn thực hiện theo
mức lương tối thiểu 220 đồng/tháng.
Đến năm 1993, thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành Trung
ương Đảng (khoá VII) và Nghị quyết kỳ họp thứ 2 Quốc hội khoá IX về cải cách tiền
lương trong năm 1993 đối với công nhân, viên chức và những người hưởng lương,
chế độ tiền lương mới trong nền kinh tế thị trường lần đầu tiên được ban hành theo
Quyết định số 69/QĐ-TƯ ngày 17/5/1993 của Ban bí thư, Nghị quyết số 35/NQ-
UBTVQHK9 ngày 17/5/1993 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội và các Nghị định số
25/CP, 26/CP ngày 23/5/1993 của Chính phủ. Theo đó mức lương tối thiểu đối với
cán bộ, công nhân, viên chức khu vực nhà nước và người lao động làm việc ở doanh
nghiệp trong nước được ấn định là 120.000 đồng/tháng (tháng 4/1993 thực hiện mức
110.000 đồng, tháng 12/1993 thực hiện mức 120.000 đồng). Doanh nghiệp FDI vẫn
thực hiện theo tiền lương tối thiểu 50 USD/tháng.
Xuất phát từ thực tiễn khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, Bộ luật Lao
động ra đời năm 1995 đã nâng tầm quan trọng của tiền lương tối thiểu lên đúng vị trí
SV: Phạm Thị Thanh Thủy Lớp: Quản trị Nhân lực 49B
15
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Vũ Xuân Đốc
và đã chính thức được luật hóa như sau
2
: “Mức lương tối thiểu được ấn định theo giá
sinh hoạt, bảo đảm cho người lao động làm công việc giản đơn nhất trong điều kiện
lao động bình thường bù đắp sức lao động giản đơn và một phần tích lũy tái sản
xuất sức lao động mở rộng và được dùng làm căn cứ để tính các mức lương cho các
loại lao động khác. Chính phủ quyết định và công bố mức lương tối thiểu chung,
mức lương tối thiểu vùng, mức lương tối thiểu ngành cho từng thời kỳ sau khi lấy ý
kiến Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và đại diên của người sử dụng lao động.
Khi chỉ số giá sinh hoạt tăng lên làm cho tiền lương thực tế của người lao động bị
giảm sút, thì Chính phủ điều chỉnh mức lương tối thiểu để bảo đảm tiền lương thực
tế.”

Căn cứ quy định của Bộ luật Lao động, năm 1996 Chính phủ đã quy định mức
lương tối thiểu theo 4 vùng áp dụng đối với doanh nghiệp FDI, tương ứng 45 - 40 - 35
- 30 USD/tháng, tuỳ theo địa bàn kinh tế và mức độ phát triển của thị trường lao động
phát triển. Cơ quan hành chính, sự nghiệp và doanh nghiệp trong nước (doanh nghiệp
nhà nước và doanh nghiệp ngoài quốc doanh) vẫn thực hiện theo mức lương tối thiểu
chung 120.000 đồng/tháng.
Năm 1997, Chính phủ điều chỉnh mức lương tối thiểu chung từ 120.000 đồng
lên 144.000 đồng/tháng, đồng thời quy định doanh nghiệp nhà nước tuỳ theo hiệu quả
sản xuất, kinh doanh và năng suất lao động được áp dụng hệ số điều chỉnh tăng thêm
(theo vùng và theo ngành) không quá 2 lần so với tiền lương tối thiểu chung để tính
đơn giá tiền lương và trả lương cho người lao động.
Năm 1999, thực hiện quy định tại Quyết định số 53/1999/QĐ-TTg ngày
26/3/1999 của Thủ tướng Chính phủ về một số biện pháp khuyến khích đầu tư trực
tiếp nước ngoài, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã quy định các mức lương tối
thiểu vùng đối với doanh nghiệp FDI chuyển đổi từ Đôla Mỹ sang Đồng Việt Nam
tương ứng theo 4 vùng là 626.000 - 556.000 - 487.000 - 417.000 đồng/tháng.
Từ năm 1999 đến năm 2008, Chính phủ tiếp tục điều chỉnh tiền lương tối thiểu
chung, tiền lương tối thiểu vùng đối với doanh nghiệp FDI để bảo đảm tiền lương thực
tế cho người lao động, trong đó tiền lương tối thiểu chung điều chỉnh từ 144.000 đồng
lên 180.000 đồng (năm 2000), lên 210.000 đồng (năm 2001), lên 290.000 đồng (năm
2
Điều 56 Bộ luật Lao động Việt Nam
SV: Phạm Thị Thanh Thủy Lớp: Quản trị Nhân lực 49B
16
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Vũ Xuân Đốc
2003), lên 350.000 đồng (năm 2005), lên 450.000 đồng (năm 2006); tiền lương tối
thiểu vùng đối với doanh nghiệp FDI theo 3 vùng là 710.000 đồng - 790.000 đồng -
870.000 đồng. Năm 2006, Chính phủ điều chỉnh quy định về áp dụng tăng thêm tiền
lương tối thiểu đối với doanh nghiệp nhà nước, trong đó công ty nhà nước áp dụng
tăng thêm không quá 1,34 hoặc 2 lần (không phân theo vùng, theo ngành) so với tiền

lương tối thiểu chung để tính đơn giá tiền lương và không hạn chế đối với công ty
trách nhiệm hữu hạn một thành viên 100% vốn nhà nước.
Đến tháng 01/2008, Chính phủ điều chỉnh mức lương tối thiểu chung từ
450.000 đồng lên 540.000 đồng/tháng, đồng thời quy định mức lương tối thiểu theo 3
vùng đối với doanh nghiệp trong nước là: 540.000 - 580.000 - 620.000 đồng/tháng;
điều chỉnh mức lương tối thiểu 3 vùng đối với doanh nghiệp FDI 800.000 - 900.000 -
1.000.000 đồng/tháng.
Đến tháng 01/2009, Chính phủ quy định tiền lương tối thiểu theo 4 vùng
(thống nhất về địa bàn vùng), nhưng mức tiền khác nhau: doanh nghiệp trong nước
650.000 đồng – 690.000 đồng - 740.000 đồng – 800.000 đồng/tháng; doanh nghiệp
FDI 920.000 đồng - 950.000 đồng – 1.080.000 đồng – 1.200.000 đồng/tháng, đồng
thời từ ngày 01/5/2009 điều chỉnh mức lương tối thiểu chung lên 650.000 đồng/tháng
(Tổng hợp các năm tại Phụ lục số 1 kèm theo).
Đến tháng 01/2010, Chính phủ quy định tiền lương tối thiểu theo 4 vùng:
doanh nghiệp trong nước 730.000 đồng – 810.000 đồng - 880.000 đồng – 980.000
đồng/tháng; doanh nghiệp FDI 1.000.000 đồng – 1.040.000 đồng – 1.190.000 đồng –
1.340.000 đồng/tháng, đồng thời từ ngày 01/5/2010 điều chỉnh mức lương tối thiểu
chung lên 730.000 đồng/tháng.
III. SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN ĐỂ HOÀN THIỆN TIỀN LƯƠNG TỐI
THIỂU ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP.
1. Yêu cầu chung của cải cách chính sách tiền lương.
Năm 1986 là một mốc đánh dấu Việt Nam thực hiện chuyển đổi nền kinh tế từ
kế hoạch hoá tập trung, bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN.
Đây là bước đi quan trọng, làm thay đổi sâu sắc từ nhận thức đến hành động trên mọi
lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực lao động - tiền lương. Sau 20 năm đổi mới, chính sách
SV: Phạm Thị Thanh Thủy Lớp: Quản trị Nhân lực 49B
17
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Vũ Xuân Đốc
tiền lương, tiền công liên tục được điều chỉnh, bổ sung phù hợp với sự phát triển của

nền kinh tế, tạo cơ sở xây dựng và phát triển thị trường lao động.
Chuyển sang kinh tế thị trường, một trong những nguyên tắc cơ bản là tiền
lương được hình thành, xác định thông qua cơ chế thoả thuận giữa người lao động và
người sử dụng lao động (các bên trong quan hệ lao động), phụ thuộc vào kết quả lao
động và quan hệ cung cầu lao động trên thị trường lao động. Vì vậy, yêu cầu cơ bản
của chính sách tiền lương trong nền kinh tế thị trường vừa phải bảo đảm sự linh hoạt
để thích nghi với sự biến động của thị trường và của nền kinh tế, đồng thời vừa là
công cụ để điều chỉnh quan hệ cung cầu về lao động, bảo vệ người lao động, bảo
đảm phân phối công bằng về lợi ích kinh tế. Xu hướng của chính sách tiền lương
phải phù hợp với sự phát triển chung của nền kinh tế, tuân thủ theo các quy luật của
kinh tế thị trường, bảo đảm công khai, minh bạch và dựa trên cơ sở thỏa thuận giữa
người sử dụng lao động và người lao động.
So với yêu cầu của kinh tế thị trường thì chính sách tiền lương nói chung và
tiền lương tối thiểu nói riêng cần được tiếp tục hoàn chỉnh, trong đó Nhà nước cần
giao quyền tự chủ hơn nữa cho các doanh nghiệp trong việc xác định tiền lương và
trả lương cho người lao động nhằm phát huy vai trò thương lượng, đàm phán, thoả
thuận của các bên trong quan hệ lao động; tăng cường và có cơ chế phát huy vai trò
của các tổ chức đại diện cho người lao động và người sử dụng lao động cùng tham
gia vào quá trình xác định tiền lương tối thiểu; tiền lương phải được trả theo giá trị
sức lao động, tiền lương tối thiểu phải bảo đảm đủ bù đắp hao phí lao động và có tích
lũy; việc điều chỉnh tiền lương tối thiểu phải linh hoạt, phù hợp với quan hệ cung cầu
lao động trên thị trường, từng bước cải thiện mức sống của người lao động làm công
ăn lương.
2. Yêu cầu hội nhập quốc tế và các tiêu chuẩn Công ước ILO.
Hội nhập quốc tế nghĩa là chúng ta chấp nhận chơi trên cùng một “sân chung”
và tuân theo một “luật chơi” chung với hai nguyên tắc cơ bản là: kinh tế thị trường
và không phân biệt đối xử. Các chính sách do Nhà nước quy định được áp dụng
trong khu vực sản xuất, kinh doanh, không phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp
Việt Nam và doanh nghiệp nước ngoài. Để tuân theo nguyên tắc này, Quốc hội đã
thông qua Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp chung cho các doanh nghiệp Việt Nam

SV: Phạm Thị Thanh Thủy Lớp: Quản trị Nhân lực 49B
18
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Vũ Xuân Đốc
và nước ngoài, với mục đích là tạo ra một sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp.
Chính sách tiền lương nói chung và tiền lương tối thiểu nói riêng hiện nay đang quy
định phân biệt giữa doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp nước ngoài, vì vậy cần
phải điều chỉnh để bảo đảm sự cạnh tranh bình đẳng.
Ngoài những yêu cầu phải tuân theo những luật chơi chung của hội nhập, tiền
lương tối thiểu của Việt Nam phải tuân thủ các công ước của ILO. Theo nội dung
công ước 131 thì mọi nước thành viên của ILO phải luật pháp hoá hệ thống lương tối
thiểu để áp dụng cho mọi nhóm người làm công ăn lương. Hiện nay, Bộ Luật lao
động và các văn bản dưới Luật của Việt Nam về cơ bản đã thể hiện đầy đủ các nội
dung trong Công ước của ILO về vấn đề tiền lương tối thiểu. Tuy nhiên, để phù hợp
với tình hình thực tế và nâng cao vai trò, chức năng của tiền lương tối thiểu trong
việc tạo lưới an toàn xã hội, bảo đảm đủ sống, đáp ứng nhu cầu mức sống tối thiểu
của người lao động và gia đình theo mục tiêu Công ước và các khuyến nghị của ILO
thì chính sách tiền lương tối thiểu cần được tiếp tục Luật hoá ở mức cao hơn theo
hướng quy định một mức lương tối thiểu chung đối với toàn bộ khu vực có quan hệ
lao động, không phân biệt thành phần kinh tế; Mức lương tối thiểu được xác định
trên cơ sở có sự tham gia quyết định của các bên liên quan gồm Chính phủ, đại diện
người lao động và đại diện người sử dụng lao động, phải vừa bảo đảm mục tiêu kinh
tế (tăng khả năng cạnh tranh và tạo sự linh hoạt) vừa bảo đảm mục tiêu xã hội (phân
phối công bằng lợi ích kinh tế, chống bóc lột sức lao động và chống nghèo đói).
3. Quan hệ cung cầu trên thị trường lao động.
Trong những năm qua, nền kinh tế nước ta đã đạt những thành tựu rất quan
trọng, kinh tế tăng trưởng nhanh, giai đoạn 2000 – 2006 GDP bình quân tăng
7,8%/năm, năm 2007 tăng 8,47% (cao nhất trong vòng 20 năm qua), năm 2008 tuy bị
ảnh hưởng bởi suy giảm kinh tế nhưng vẫn tăng trưởng 6,2%; cơ cấu kinh tế chuyển
dịch theo hướng tích cực, vốn đầu tư phát triển liên tục duy trì ở mức cao (35 – 40%
GDP), thực hiện có hiệu quả chính sách thu hút đầu tư nước ngoài (năm 2006: 10 tỷ

đô la Mỹ, năm 2007: 20,3 tỷ đô la Mỹ, năm 2008: 64 tỷ đô la Mỹ), các doanh nghiệp
nhỏ và vừa phát triển mạnh (trung bình mỗi năm có khoảng 50.000 doanh nghiệp
thành lập mới) đã tạo thuận lợi cho việc tạo việc làm và giải quyết việc làm cho
người người lao động.
SV: Phạm Thị Thanh Thủy Lớp: Quản trị Nhân lực 49B
19
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Vũ Xuân Đốc
Tuy vậy, trong điều kiện quy mô dân số ngày càng đông, kéo theo lao động mới
tăng nhanh, cung lao động vẫn lớn hơn cầu lao động khá nhiều, lao động không có
trình độ chuyên môn, lao động có tay nghề thấp vẫn là phổ biến, thiếu lao động có tay
nghề và lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, cơ cấu lao động trong nông
nghiệp vẫn chiếm tỷ lệ lớn chuyển dịch sang các khu vực khác (chưa được đào tạo tác
phong kinh nghiệm, năng lực thoả thuận tiền lương, tiền công yếu), trong khi đó khả
năng giải quyết việc làm của nền kinh tế thì hạn chế (trong 5 năm 2006 - 2010 khoảng
8 triệu lao động), cơ cấu đào tạo bất hợp lý, càng làm cho tình trạng cung về lao động
luôn lớn hơn cầu về lao động, việc làm trở thành vấn đề bức xúc hơn.
Tính đến năm 2009, dân số nước ta đạt khoảng 85,79 triệu người, lực lượng
lao động là 49,3 triệu người, chiếm 57,3% trong tổng dân số (bình quân mỗi năm
tăng 1 triệu người, giai đoạn 2000 – 2009 tăng bình quân 2,65%/năm). Trình độ học
vấn của lực lượng lao động chưa biết chưa và chưa tốt nghiệp tiểu học chiếm 18,3%,
số lao động tốt nghiệp phổ thông chiếm 1/4 lực lượng lao động, tỷ trọng lao động có
chuyên môn kỹ thuật chiếm 24,7%, lao động đã qua đào tạo 35% (65% không qua
đào tạo), trong đó đào tạo nghề là 25%, số lao động làm công ăn lương chiếm
khoảng 25% lực lượng lao động.
Ngoài yếu tố quy mô lao động tăng, trình độ lao động thấp tạo áp lực đối với
giải quyết việc làm thì tình trạng phát triển không đồng đều của thị trường lao động
giữa các vùng (chủ yếu phát triển ở các vùng kinh tế trọng điểm), xu hướng dịch
chuyển lao động từ nông thôn đến thành thị và từ các tỉnh phía Bắc, Bắc Trung bộ
vào Tây nguyên và Đông Nam bộ, dịch chuyển lao động từ khu vực nông nghiệp
sang khu vực công nghiệp - xây dựng và thương mại - dịch vụ cũng tạo thêm áp lực

đối với cung cầu về lao động. Về cầu lao động, trong những năm qua mặc dù số
lượng doanh nghiệp tăng nhanh nhưng chủ yếu vẫn là doanh nghiệp vừa, nhỏ (chiếm
trên 90%) và siêu nhỏ (dưới 10 lao động và dưới 1 tỷ đồng vốn) nên thu hút, sử dụng
lao động còn hạn chế. Các yếu tố này đang làm cho quan hệ lao động trở nên căng
thẳng, phức tạp hơn.
Để bảo vệ người lao động trong điều kiện cung lao động luôn luôn lớn hơn
cầu lao động, lao động có trình độ thấp, lao động phổ thông vẫn chiếm tỷ trọng lớn,
vai trò của các tổ chức công đoàn chưa đủ mạnh, việc thương lượng, thoả thuận tiền
SV: Phạm Thị Thanh Thủy Lớp: Quản trị Nhân lực 49B
20
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Vũ Xuân Đốc
lương chưa trở thành thông lệ dẫn đến người lao động luôn trong tình trạng yếu thế,
bị ép về tiền lương, về các quyền lợi khác đòi hỏi chính sách tiền lương nói chung và
chính sách tiền lương tối thiểu nói riêng cần được điều chỉnh cho phù hợp, đáp ứng
các yêu cầu của thực tế, xây dựng mối quan hệ lao động ổn định, lành mạnh cùng
phát triển.
4. Chính sách của Đảng và Nhà nước về tiền lương tối thiểu.
Chính sách tiền lương tối thiểu là một nội dung cơ bản của chính sách tiền
lương, vì vậy quan điểm của Đảng về chính sách tiền lương tối thiểu không tách rời
chính sách tiền lương nói chung, cụ thể:
- Đề án cải cách chính sách tiền lương năm 1993 được Trung ương đảng,
Quốc hội thông qua đã khẳng định: Tiền lương là giá cả sức lao động được hình
thành trên cơ sở thoả thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động phù hợp
với quan hệ trong nền kinh tế thị trường. Tiền lương phải bảo đảm tái sản xuất sức
lao động cho người lao động.
- Hội nghị lần thứ 7, Ban chấp hành Trung ương khoá VIII “Tiền lương phải
quán triệt quan điểm tiền lương gắn liền với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước,
trả lương đúng cho người lao động chính là thực hiện đầu tư cho phát triển; góp
phần quan trọng làm lành mạnh, trong sạch đội ngũ cán bộ, nâng cao tinh thần trách
nhiệm và hiệu suất công tác. Bảo đảm giá trị thực của tiền lương và từng bước cải

thiện theo sự phát triển của kinh tế xã hội”.
- Hội nghị lần thứ 8, Ban chấp hành Trung ương khoá IX “Coi việc trả lương
đúng cho người lao động là thực hiện đầu tư cho phát triển, tạo động lực để kinh tế
phát triển; Chính sách tiền lương phải phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa góp phần hình thành thị trường lao động lành mạnh, thu hút
được lao động có chất lượng cao vào những khu vực quan trọng của nhà nước và xã
hội; Tiếp tục thực hiện cơ chế mức lương tối thiểu chung là mức sàn thấp nhất để làm
căn cứ điều chỉnh các quan hệ lao động trong xã hội theo Bộ luật Lao động và làm
căn cứ quy định mức đóng hưởng bảo hiểm. Việc điều chỉnh mức lương sàn phải phù
hợp với mặt bằng tiền lương, tiền công trên thị trường lao động và mức tăng thu nhập
trong xã hội”.
SV: Phạm Thị Thanh Thủy Lớp: Quản trị Nhân lực 49B
21
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Vũ Xuân Đốc
- Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 9/02/2007 của Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khoá X “Đẩy nhanh tiến trình cải cách tiền lương. Xây dựng
mới mức lương tối thiểu, tách riêng khu vực hành chính, sự nghiệp và khu vực sản
xuất kinh doanh (không phân biệt thành phần kinh tế).
- Kết luận số 20 KL/TW ngày 28/01/2008 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khoá X “ Tiếp tục quán triệt và thực hiện quan điểm coi việc
trả lương đúng cho người lao động là thực hiện đầu tư cho phát triển, tạo động lực để
kinh tế phát triển và nâng cao chất lượng dịch vụ công, góp phần làm trong sạch và
nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước”.
- Nghị quyết số 56/2006/QH11 ngày 29/6/2006 của Quốc hội khoá XI về kế
hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2006 - 2010 “Tiếp tục thực hiện cải cách tiền
lương. Nghiên cứu và áp dụng thống nhất mức tiền lương tối thiểu giữa doanh
nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ”.
Trong những năm qua, Chính phủ đã tập trung nhiều nguồn lực để cải cách
tiền lương và tiền lương tối thiểu, tuy nhiên trên thực tế so với yêu cầu chung thì có
những quan điểm của Đảng nêu trên cần được tiếp tục thể chế hóa trong chính sách

tiền lương, tiền lương tối thiểu, nhất là việc thiết lập cơ chế xác định tiền lương tối
thiểu theo nguyên tắc thị trường, xác định tiền lương tối thiểu bảo đảm đủ sống và
quy định tiền lương tối thiểu thống nhất (không phân biệt đối xử) giữa các loại hình
doanh nghiệp.
IV. PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH VÀ ĐIỀU CHỈNH TLTT.
1. Tiêu chí xác định tiền lương tối thiểu.
Việc đưa ra tiêu chí xác định tiền lương tối thiểu đến nay vẫn còn nhiều ý kiến
khác nhau, nhưng nhìn chung đều dựa vào 2 nhóm tiêu chí chủ yếu là tiêu chí mang
tính xã hội - nhu cầu cơ bản của con người và tiêu chí kinh tế.
Khuyến nghị số 135 của ILO về xác định mức lương tối thiểu đưa ra các tiêu
chí và giải thích Điều 3 của Công ước 131 về Xác định lương tối thiểu với một số
chú ý đặc biệt về các nước đang phát triển. Các tiêu chí đó là:
(1) Hệ thống nhu cầu của người lao động và gia đình họ
(2) Mức tiền lương chung đạt được
(3) Chi phí sinh hoạt và sự biến động của giá cả sinh hoạt
SV: Phạm Thị Thanh Thủy Lớp: Quản trị Nhân lực 49B
22
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Vũ Xuân Đốc
(4) Các khoản phúc lợi xã hội
(5) Tương quan mức sống giữa các nhóm dân cư
(6) Các yếu tố kinh tế (bao gồm: mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, năng suất
lao động, tổng mức việc làm và khả năng chi trả của các doanh nghiệp).
Theo thống kê của ILO, tiêu chí thường đựơc sử dụng nhất ở các nước trên thế
giới là tỉ lệ lạm phát/chi phí sinh hoạt, sau đó là điều kiện kinh tế và mức lương; tiếp
đến là nhu cầu của người lao động, năng suất và tỉ lệ có việc làm; cuối cùng là khả
năng chi trả của doanh nghiệp và trợ cấp xã hội. Tiêu chí nhu cầu của người lao động
và gia đình chỉ đứng hàng thứ 4 và năng lực chi trả của doanh nghiệp đứng cuối
cùng. Tuy nhiên hai tiêu chí này rất quan trọng khi xác định tiền lương tối thiểu
nhằm bảo vệ mức sống của người lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh, năng
lực chi trả của doanh nghiệp.

Trong điều kiện Việt Nam, tiền lương tối thiểu được xác định dựa trên cơ sở
bảo đảm hài hòa các yếu tố cơ bản sau:
- Nhu cầu các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu của người lao động liên quan đến
mức sống “tối thiểu”. Đó là hệ thống nhu cầu các mặt tiêu dùng, dịch vụ tối thiểu của
người lao động và gia đình họ với mức giá của các mặt hàng đó trên thị trường;
- Mức tiền lương chung trên thị trường được xác lập thông qua cung cầu lao
động và khả năng chi trả của doanh nghiệp. Mức tiền lương chung trên thị trường
phản ánh khả năng cung về số lượng và chất lượng của nguồn nhân lực, đồng thời
cũng phản ánh khả năng tài chính và xu thế phát triển của cầu lao động. Ngoài ra nó
còn cho biết mức tiền công mà người lao động nhận được đã xứng đáng chưa, có bị
bóc lột sức lao động hay không.
- Mức độ phát triển mức sống dân cư, khả năng của nền kinh tế cũng như mục
tiêu phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kỳ. Đây là yếu tố quan trọng để bảo đảm
tiền lương tối thiểu là công cụ chống nghèo đói, giảm bớt phân hóa trong xã hội,
nâng cao mức sống của người lao động phù hợp với tốc độ phát triển của nền kinh tế.
- Tham khảo tiền lương tối thiểu của các nước lân cận và tương đương để vừa
bảo đảm yếu tố cạnh tranh, vừa bảo đảm yếu tố phát triển.
SV: Phạm Thị Thanh Thủy Lớp: Quản trị Nhân lực 49B
23
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Vũ Xuân Đốc
2. Phương pháp xác định TLTT.
2.1. Phương pháp xác định tiền lương tối thiểu chung.
Từ khuyến nghị 135 của ILO về các tiêu chí xác định tiền lương tối thiểu
trong kinh tế thị trường và tùy thuộc vào sự lựa chọn của mỗi quốc gia về tiêu chí
xác định tiền lương tối thiểu phù hợp với điều kiện của mình mà có các phương pháp
xác định tiền lương tối thiểu khác nhau. Ở nước ta, từ khi cải cách chính sách tiền
lương năm 1993 đến nay đã thực hiện 4 phương pháp tiếp cận để xác định tiền lương
tối thiểu, đó là:
Phương pháp 1: Xác định tiền lương tối thiểu chung dựa trên nhu cầu mức
sống tối thiểu của người lao động

Đây là phương pháp rất cơ bản và đang được áp dụng khá phổ biến ở nhiều
nước trên thế giới. Bản chất của phương pháp này là xác định nhu cầu cơ bản, tối
thiểu, đủ sống của người lao động và gia đình thông qua định lượng và giá trị “rổ
hàng hóa” lương thực thực phẩm và phi lương thực thực phẩm theo giá hiện hành.
Nhu cầu này ở các nước khác nhau là khác nhau, phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã
hội, văn hóa, phong tục tập quán của mỗi nước. Đồng thời trong một nước nhu cầu
này cũng khác nhau tùy thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội của nước đó
qua các thời kỳ. Nhưng xu hướng chung nhu cầu cơ bản, tối thiểu, đủ sống của người
lao động ngày một tăng và đa dạng, phong phú, có chất lượng hơn. Nội dung và trình
tự của phương pháp như sau:
- Xác định nhu cầu lương thực, thực phẩm cho một lao động:
Nhu cầu lương thực, thực phẩm cho một lao động làm công việc giản đơn,
trong điều kiện lao động bình thường được tính trên cơ sở lượng Calory cần thiết
cung cấp cho họ trong một ngày. Nhu cầu này đối với người lao động ở các nước là
rất khác nhau (ví dụ, ở Indonesia là 3000Kcal/ngày/người, các nước phương tây và
Châu Âu trên 3500Kcal/ngày/người ). Theo kiến nghị của Viện dinh dưỡng Việt
Nam, hiện nay mức nhu cầu dinh dưỡng tối thiểu cho một lao động làm công việc
nhẹ nhàng khoảng từ 2200 - 2300 Kcal/ngày/người. Nhu cầu dinh dưỡng
2300Kcal/ngày/người dùng để tính ra số lượng và cơ cấu “rổ hàng hóa” lương thực,
thực phẩm cần thiết trong cơ cấu tiền lương tối thiểu chung.
SV: Phạm Thị Thanh Thủy Lớp: Quản trị Nhân lực 49B
24
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Vũ Xuân Đốc
- Xác định chi phí cho rổ hàng hóa lương thực, thực phẩm thỏa mãn nhu cầu
cung cấp năng lượng được chọn để đưa vào cơ cấu lương tối thiểu cho người lao động.
Nhu cầu về lương thực, thực phẩm trong “rổ hàng hóa” được xác định trên cơ
sở định lượng các mặt hàng lương thực thực phẩm theo một cơ cấu hợp lý trong khẩu
phần ăn của người lao động trong một ngày, bao gồm lipit, protit và gluxit. Quan hệ
giữa 3 nhóm này có sự khác nhau giữa các nước, thông thường tỷ lệ đó là 50% gluxit
- 30% protit - 20% lipit. Khi xác định được định lượng rổ hàng hóa lương thực thực

phẩm có thể tính được chi phí cần thiết để mua rổ hàng hóa đó bằng cách nhân định
lượng từng mặt hàng trong rổ với giá của mặt hàng tương ứng theo công thức: Chi
phí rổ hàng hóa =  X
i
* P
i
Trong đó, X
i
là hàng hóa thứ i trong rổ hàng hóa lương thực thực phẩm; P
i

giá mua hàng hóa thứ i; Giá mua hàng hóa thứ i là giá trị trung vị của giá các mặt
hàng trong rổ (theo kết quả mẫu điều tra).
- Xác định chi phí cho các mặt hàng phi lương thực thực phẩm:
Chi phí phi lương thực thực phẩm tính vào cơ cấu tiền lương tối thiểu là
những chi phí đáp ứng những nhu cầu tối thiểu về nhà ở, đi lại, giao tiếp, văn hóa
Chi phí này có thể tính theo cơ cấu định lượng, cũng có thể tính trên cơ sở quan hệ tỷ
lệ so với chi phí lương thực, thục phẩm trong rổ hàng hóa. Giả sử người lao động
làm công việc giản đơn, trong điều kiện lao động bình thường cần cung cấp 1 lượng
năng lượng 2300Kcal/ngày với chi phí là X đồng, thì nhu cầu về lương thực, thực
phẩm có thể thấp hơn, bằng hoặc cao hơn chi phí lương thực thực phẩm; giả sử nhu
cầu tối thiểu là 100%, trong đó nhu cầu về lương thực thực phẩm là 45%, thì tỷ lệ chi
phí cho phi lương thực thực phẩm là 55%. Do đó có thể tính được chi phí cho nhu
cầu phi lương thực thực phẩm.
- Xác định nhu cầu nuôi con của người lao động
Tùy từng nước có thể đưa chi phí nuôi con vào mức lương tối thiểu ở các mức
độ khác nhau. Giả sử đối với Việt Nam, trong một hộ gia đình chuẩn có 4 khẩu và 2
lao động, chi phí nuôi con có thể đưa vào tiền lương trên cơ sở xác định nhu cầu dinh
dưỡng của người con. Nếu nhu cầu dinh dưỡng khoảng 1600Kcal/ngày (theo khuyến
nghị của Viện dinh dưỡng), thì có thể tính chi phí nuôi con bằng 0,7 chi phí cho nhu

cầu tối thiểu của một lao động.
SV: Phạm Thị Thanh Thủy Lớp: Quản trị Nhân lực 49B
25

×