A. ĐẶT VẤN ĐỀ.
1. Khái niệm tiền lương ? Các yếu tố ảnh hưởng tới việc thỏa thuận điều
thuận điều khoản tiền lương trong hợp đồng lao động ?
2. Năm 2005, anh A và công ty X có ký với nhau một HĐLĐ thời hạn 2
năm. Hết thời hạn của HĐ hai bên tiếp tục ký hợp đồng thứ hai cũng với thời
hạn hai năm. Hợp đồng sẽ kết thúc vào ngày 15.8.2009. Hết ngày 15.8.2009,
do không thấy NSDLĐ thông báo gì nên những ngày sau NLĐ vẫn đến làm
việc bình thường và người phụ trách vẫn giao việc cho A. Ngày 30.8.2009
NSDLĐ thong báo chấm dứt HĐ với A với lý do HĐLĐ hết hạn. NLĐ không
đồng ý vì cho rằng sau khi HĐ thứ hai hết hạn, NLĐ vẫn vẫn làm việc nên
HĐ đã ký trở thành HĐ không xác định thời hạn. NSDLĐ cho rằng trong thời
30 ngày công ty có quyền ký tiếp HĐ hay chấm dứt theo Điều 27 BLLĐ.
HỎI
a. Việc chấm dứt HĐLĐ của công ty đối với A lad đúng hay sai ? Tại sao ?
b. A có thể gửi đơn đến cơ quan tổ chức nào để yêu cầu giải quyết bảo vệ quyền
lợi cho mình ?
c. Hãy giải quyết quyền lợi cho A theo quy định của pháp luật hiện hành.
d. Giả sử khi công ty đưa quyết định chấm dứt HĐ với A, A không có ý kiến gì
và ký nhận vào bản thanh lý HĐ đồng thời nhận các khoản tiền lương, trợ
cấp… thì việc chấm dứt đó có được coi là trường hợp đương nhiên chấm dứt
HĐ do hai bên thỏa thuận không ? Tại sao ?
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
1. Khái niệm tiền lương ? Các yếu tố ảnh hưởng tới việc thỏa thuận
điều thuận điều khoản tiền lương trong hợp đồng lao động ?
a. Khái niệm tiền lương.
Có rất nhiều định nghĩa về “tiền lương” và để hiểu biết thế nào là tiền
lương chúng ta cùng nhau điểm qua các khái niệm chung nhất, bao quát nhất,
từ đó đi đến khái niệm “tiền lương” nhé!
1
Trước hết, xuất phát từ sự thuần túy nhất, theo từ điển Tiếng Việt thì “ tiền
lương” là “ tiền công trả định kỳ thường là hàng tháng, cho công nhân, viên
chức”.
Đi xa hơn, theo Điều 1 Công ước số 95 (1949 ) vè bảo vệ tiền lương của
ILO quy định : “ từ “ tiền lương” là sự trả công hoặc thu nhập, bất luận tên
gọi hay cách tính mà có thể biểu hiện bằng tiền và được ấn định bằng sự thỏa
thuận giữa NSDLĐ và NLĐ, hoặc bằng pháp luật quốc gia, do NSDLĐ phải
trả cho người lao động theo một hợp đồng thuê mướn lao động, bằng viết
hoặc bằng miệng, cho một công việc đã thực hiện hay sẽ phải thực hiện, hoặc
cho những dịch vụ đã làm hoặc sẽ phải làm”.
Theo pháp luật hiện hành nói chung, BLLĐ nói riêng đã thừa nhận quyền
tự do thỏa thuận về tiền lương của NSDLĐ và NLĐ. Cụ thể, tại Điều 55
BLLĐ quy định: “ Tiền lương của NLĐ do hai bên thỏa thuận trong HĐLĐ
và được trả theo năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả công việc. Mức
lương của NLĐ không được thấp hơn mức lương tối thiểu do nhà nước quy
định”. Ta có thể hiểu, dưới góc độ của luật lao động, tiền lương được hiểu là
số tiền mà NSDLĐ phải trả cho NLĐ căn cứ vào năng suất, chất lượng, hiệu
quả công việc và điều kiện lao động, được xác định theo sự thỏa thuận hợp
pháp giữa hai bên trong HĐLĐ hoặc theo quy định của pháp luật.
b.Các yếu tố ảnh hưởng tới việc thỏa thuận điều thuận điều khoản tiền
lương trong hợp đồng lao động ?
Tính chất của quan hệ lao động do luật lao động điều chỉnh là tự do thỏa
thuận. Nhìn chung những vấn đề về quyền và trách nhiệm của các bên đều do
họ tự quyết định bằng cách thỏa thuân không trái luật, trong đó có tiền lương.
Tại Điều 29 BLLĐ quy định: “1. Hợp đồng phải có những nội cung chủ
yếu sau đây: công việc phải làm, thời gian làm việc, thời gian nghỉ ngơi, tiền
lương, địa điểm làm việc, thời hạn hợp đồng, điều kiện an toàn vệ sinh”. Mặt
khác, ở Điều 55 BLLĐ quy định: “Tiền lương của người lao động do hai bên
thỏa thuận trong hợp đồng và được trả lương theo năng suất lao động, chất
2
lượng và hiệu quả công việc. Mức lương của người lao động không thể thấp
hơn mức lương tối thiểu mà nhà nước quy định”.
Như vậy, có thể thấy khi giao kết hợp đồng lao động các yếu tố ảnh hưởng
đến tiền lương là những yếu tố liên quan chủ yếu đến nguyên tắc điều chỉnh
tiền lương, bao gồm các yếu tố sau:
Thứ nhất, chất lượng và số lượng lao động. Số lượng, chất lượng lao động
có thể khẳng định là căn cứ quan trọng nhất để trả lương cho NLĐ. Số lượng
và chất lượng được xác định khác nhau tùy vào từng hình thức trả lương. Ở
hình thức trả lương theo thời gian, số lượng lao động được tính căn cứ vào
thời gian làm việc của NLĐ, chất lượng lao động phản ánh qua mức độ phức
tạp của công việc thực hiện ứng với trình độ chuyên môn, mức độ lành nghề,
khả năng tác nghiệp mà người lao động có thể đáp ứng để hoàn thành công
việc. Ở hình thức trả lương theo sản phầm và lương khoán, số lượng lao động
lai được tính ứng với số lượng sản phẩm hoặc khối lượng công việc NLĐ
hoàn thành, chất lượng lao động chính là lượng sản phẩm, công việc đó. Trên
thực tế, số lượng và chất lượng lao động mà NLĐ đống góp thể hiện cao năng
suất, chất lượng lao động và đây chính là yếu tố, cơ sở thực tế để các bên thỏa
thuận về điều khoản tiền lương trong hợp đồng. Theo nguyên tắc này, lao
động có trình độ chuyên môn, nghiệp cụ cao, thành thạo, chất lượng cao, làm
việc nhiều được hưởng nhiều và ngược lại; những người lao động ngang nhau
thì được trả lương như nhau.
Thứ hai, điều kiện lao động. Đó là tính chất công việc, ngành nghề, điều
kiện tự nhiên và điều kiện xã hội nơi mà NLĐ làm việc có tác động không
nhỏ tới mức tiêu hao lao động hoặc sức mua của tiền lương trên thị trường
hàng hóa, dịch vụ. Vì vậy, ngoài việc tính đúng, tính đủ số lượng và chất
lượng lao động của NLĐ, trong cơ cấu tiền lương còn phải đáp ứng yêu cầu
tính đúng và đủ những yếu tố thuộc về điều kiện lao động thực tế tác động
đến người lao động trong quá trình làm việc. NLĐ làm nghề hoặc công việc
có tính chất không bình thường, NLĐ làm việc ở địa bàn không thuận lợi về
3
điều kiện tự nhiên hoặc có khó khăn về điều kiện xã hội cần được đảm bảo
mức lương cao hơn NLĐ khác. Chính vì vậy, tùy vào điều kiện lao động cụ
thể mà người sử dụng lao động và người lao động phải thỏa thuận vấn đè này
khi đi đến các điều khoản tiền lương trong hợp đồng lao động.
Thứ ba, năng suất lao động. Năng suất lao động là một trong những yếu tố
quyết định trực tiếp đến tiền lương của NLĐ, bởi để đạt hoặc vượt chỉ tiêu
năng suất lao động có phần đóng góp của NLĐ từ việc cung ứng sức lao động
của họ. Vì vậy, khi năng suất lao động tăng có khả năng NLĐ được tăng
lương. Tiền lương tăng, là nhân tố kích thích NLĐ tăng năng suất lao động,
góp phần tăng trưởng kinh tế cho đơn vị và cho xã hội. Yêu cầu này đặt tiền
lương và năng suất lao động trong mối quan hệ tác động qua lại. Vì lí do trên
khi thỏa thuận kí kết HĐLĐ, NSDLĐ và NLĐ phải có những thỏa thuận cụ
thể về việc tiền lương tăng hay giảm do NSLĐ giảm hay tăng. Tránh trường
hợp NLĐ nhận thấy năng suất lao động tăng rõ rệt mà không được tăng lương
hoặc đột nhiên bị trừ lương mà không biết lí do. Thường khi thỏa thuận trả
tiền lương cho NLĐ theo NSLĐ được thể hiện trong chế độ tiền thưởng.
Thứ tư, hình thức trả lương. Trong thỏa thuân tiền lương trowng HĐLĐ,
vấn đề hình thức trả lương cũng là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến
giao kết HLĐLĐ. Ngoài thực tế hiện nay có rất nhiều hình thức trả lương cho
người lao động : trả bằng tiền mặt, trả qua thẻ ATM, trả bằng hiện vật. Vì
vậy, cần có sự thỏa thuận trước tránh trường hợp tranh luân sau này.
Thứ năm, sự điều chỉnh của nàh nước thông qua pháp luật. Tuy HĐLĐ
được kí kết dựa trên sự thỏa thuận của các bên nhưng để tránh tình trạng bất
cập pháp luật cần có sự điều chỉnh nhất định và là một trong những yếu tố ảnh
hưởng đến thỏa thuận tiền lương trong HĐLĐ. Các bên thỏa thuận phải dựa
trên những nguyên tắc cơ bản của pháp luật như : Tiền lương tối thiếu, các trợ
cấp, trả lương làm theo giờ, nghỉ làm vẫn có lương theo quy định tại Điều
155: “ Mức lương của người lao động không thể thấp hơn mức lương do nhà
nước quy định”. Về phương diện pháp luật, việc trả lương theo số lượng và
4
chất lượng lao động phải tuân theo và áp dụng các thang lương, bảng lương
của nàh nước và các đơn vị sử dụng lao động. Trong cùng thang, bảng lương,
nhóm lương của những người lao động có trình độ chuyên môn cao được thiết
kế với những hệ số mức lương cao hơn ở từng bậc lương tương ứng với nhóm
lương, ngạch lương, mức độ phức tạp của công việc hoặc yêu cầu trình độ
lành nghề của NLĐ được phản ánh do hệ số lương của từng mức lương.
Ngoài ra, pháp luật còn quy định về tiền lương như: làm công việc gì
hưởng lương theo công việc đó; lương của lãnh đạo phải cao hơn lương của
người bị lãnh đạo.
Trong việc trả lương theo điều kiện công việc, pháp luật quy định chế độ
phụ cấp để đền bù cho những NLĐ làm việc ở vùng xa xôi, hẻo lánh, khi hậu
khắc nghiệt được hưởng phụ cấp khu vực; NLĐ làm việc nghề hoặc công việc
nghề nặng nhọc, độc hại được hưởng trợ cấp nặng nhọc, độc hại. Tùy vào
điều kiện và mục đích cụ thể, các đơn vị sử dụng lao động có thể tách hoặ gộp
lương cấp bậc, chức vụ với phụ cấp lương khi thỏa thuận và trả lương cho
người lao động.
Tóm lại, Nhà nước không bắt buộc NSDLĐ và NLĐ khi thỏa thuận điều
kiện tiền lương trong HĐLĐ phải tuân theo một cách gò bó mà hai bên có thể
linh động nhưng không đi quá giới hạn mà pháp luật cho phép.
Bên cạnh các yếu tố trên, tương quan cung cầu lao động trên thị trường,
mức sống chung của nhân dân, phong tục tập quán, sức mạnh của tổ chức
công đoàn, tình trạng tài chính của đơn vị sử dụng lao động cũng là những
yếu tố ảnh hưởng tới việc thỏa thuận tiền lương trong HĐLĐ.
2. Giải quyết tình huống.
a. Việc chấm dứt HĐLĐ của công ty đối với A là đúng hay sai ? Tại sao?
Trong trường hợp của tình huống hai bên anh A và công ty X đã ký với
nhau hai hợp đồng lao động liên tiếp với thời hạn 2 năm. Sauk hi kết thúc hợp
đồng thứ hai, do không thấy NSDLĐ thong báo gì nên những ngày sau NLĐ
vẫn đến làm việc bình thường và người phụ trách vẫn giao việc cho A. Ngày
5