Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Kinh nghiệm hướng dẫn học sinh lớp 3 đọc thông- viết thạo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (94.32 KB, 10 trang )

A - Đặt Vấn đề
I/ Lời mở đầu
Để đáp ứng với xu hớng phát triển của xã hội trong giai đoạn hiện nay thì nền
giác dục cũng đang từng bớc đợc cải tiến phù hợp với nhận thức của nhân loại. Ch-
ơng trình sách giáo khoa từ lớp 1- lớp 5 đã đợc điều chỉnh và nâng cao hơn so với
sách cũ. Bởi vậy những yêu cầu cần đạt của học sinh về kiến thức và kĩ năng sau khi
học xong lớp 2 theo mục tiêu giáo dục và đào tạo quy định dành riêng cho từng môn
học cũng cao hơn so với trớc kia. ở môn Tiếng Việt so với lớp 1 thì lớp2, lớp 3 các
em bắt đầu làm quen với kiến thức mới về luyện từ và câu, tập làm văn, kể
chuyện.Để học sinh học tốt và làm tốt các bài tập thì bớc đầu tiên các em phải biết
đọc thông, viết thạo đó cũng chính là mục tiêu hàng đầu của bậc tiểu học. Bởi lẽ
nét chữ là nết ngời. Rèn chữ cho học sinh tức là giáo viên đã hình thành tốt các tố
chất cho học sinh, đó là tính kiên trì, chịu khó, bền bỉ vơn lên, tỉ mỉ trong công việc.
Đối với học sinh tiểu học đọc thông, viết thạo đó là nền móng vững chãi để
học sinh nắm bắt, lĩnh hội đợc các kiến thức cơ bản do thầy cô truyền thụ cho. Nếu
nh một học sinh không biết đọc thông, viết thạo thì sẽ ảnh hởng rất lớn đến chất l-
ợng học các môn khoa học khác, mà cũng không hiểu đợc nghĩa của từ. Từ đó các
không hiểu đợc lời nói của ngời khác.
Muốn để hoà nhập đợc với sự phát triển mạnh mẽ của đất nớc, của thế giới
hiện tại, học sinh không chỉ phải học mình Tiếng Việt mà còn phải biết thêm nhiều
thứ tiếng trên thế giới để hoà nhập, giao tiếp. Nếu nh các em không biết đọc, biết
viết Tiếng Việt thì sẽ không học lên các lớp trên đợc, sẽ không có cơ hội để học
tiếng nớc ngoài, không thể nắm bắt đợc sự phát triển nhận thức, giáo dục đợc. Vì
vậy các em sẽ trở thành những ngời tụt hậu, cản trở sự phát triển mạnh mẽ của đất
nớc. Mà tơng lai của đất nớc phụ thuộc rất nhiều vào thế hệ Mầm non của đất nớc,
giống nh Bác Hồ đã từng nói: Non sông Việt Nam có trở nên tơi đẹp đợc hay
không, dân tộc Việt Nam có bớc tới đài vinh quang để sánh vai với các cờng quốc
năm châu đợc hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em .
1
Bản thân tôi đã nhận thúc đợc tầm quan trọng của việc rèn luyện cho học sinh
đọc thông viết thạo, nên tôi cũng có nhiều băn khoăn trăn trở. Tôi luôn luôn tự nhủ


phải học hỏi kinh nghiệm ở đồng nghiệp thật nhiều, học hỏi qua sách báo, tài liệu,
tôi đã cố gắng rèn luyện học sinh của mình, mong muốn đợc góp phần nhỏ của
mình vào việc đào tạo nên nhũng thế hệ học sinh trở thành những con ngời có ích
cho xã hội.
II/ Thực trạng của vấn đề nghiên cứu
1 Thực trạng:
Năm học vừa qua tôi đã đợc nhà trờng phân công trực tiếp day lớp 3. Thực tế
cho thấy các em còn đọc chậm, hay ê a, ngắc ngứ, phát âm sai, viết sai chính tả về
âm đầu, vần, vị trí dấu thanh và cha phân biệt đợc thanh hỏi, thanh ngã. Thậm chí có
em vẫn cha đọc đợc và cha viết đợc các tiếng, chữ.
Nguyên nhân: Do qua kỳ nghỉ hè học sinh đợc vui chơi thoả thích, các em
không đợc ôn luyện nhiều nên quyên hết. Hơn nữa do tỉ lệ lên lớp của lớp 1 là 100%
nên vẵn còn tình trạng học sinh ngồi nhầm chỗ, học lực còn yếu mà gia đình lại
không thực sự quan tâm đến. Học sinh đọc sai các âm, vần, dấu thanh là do các em
phát âm theo tiếng địa phơng.
- Do bộ máy phát âm của các em cha hoàn chỉnh, một số em con nói ngọng,
thiếu sự cố gắng rèn luyện.
- Các em viết sai âm, vần, dấu thanh, tiếng, nhất là các âm vẫn lộn nh : tr, ch,
s, x, r, d, gi, các nguyên âm đôi, cuối vần âm đệm.
- Do các em cha thạo mặt chữ, do đọc cha đúng, chua nắm vững luật chính tả.
2 Kết quả, hiệu quả thực trạng trên.
+ Tìm hiểu đối tợng học sinh.
Ngay từ khi nhận lớp, tôi đã thực sự quan tâm tìm hiểu các đối tợng học sinh
trong lớp mình phụ trách.
-Tổng số học sinh 27 em.
Đa số các em là con gia đình nông thôn, nhiều hộ kinh tế còn khó khăn, bố
mẹ đi miền Nam làm ăn gửi con cho ông bà.Lại có những em theo bố mẹ đi miền
2
Nam học lớp một ở vùng sâu vùng xa chuyển về, gây không ít khó khăn cho giáo
viên đứng lớp.

- Các em ở độ tuổi 8 tuổi.
- Gia đình cha thực sự quan tâm đến việc học tập của các em trên lớp cũngnh
ở nhà của các em. Nên một số em vẫn còn thiếu sách vở và đồ dùng học tập.
+ Khảo sát chất lợng đầu năm của học sinh:
* Về đọc:
+ Đọc đúng, rõ ràng, diễn cảm (giỏi): 3 em
+ Đọc đúng, rõ ràng (khá) 5 em
+ Đọc đúng, hơi chậm (TB) 13 em
+ Đọc qúa chậm (còn sai vần ngắc ngứ) 6 em (2 em cá biệt)
* Về viết:
+ Viết đúng, sạch sẽ, rõ ràng : 3 em
+ Viết đúng, rõ ràng : 5 em
+ Viết đúng : 8 em
+ Viết con sai ít: 7 em
+ Viết sai nhiều: 2 em
+ Viết phải nhìn sách hoàn toàn 2 em.
Từ những thực trạng trên, để công việc đạt kết quả tốt tôi đã mạnh dạn cải
tiến một số phơng pháp và các biện pháp thục hiện sau:
3
B Cách giải quyết
I/ Các giải pháp thực hiện:
- Tìm hiểu, nắm bắt đợc đối tợng, số lợng học sinh cha đọc thông viết thạo.
- Nắm bắt các lỗi sai phổ biến của học sinh trong khi đọc và khi viết để kết
hợp với gia đình học sinh với nhà trờng.
- Đề ra những việc làm cụ thể của giáo viên và học sinh ở từng tiết học trên
lớp.
II/ Các biện pháp để tỏ chức thực hiện.
1- Qua khảo sát đầu năm học là ngời giáo viên tôi cần phải nắm bắt ngay số
lợng học sinh cha đọc thông, viết thạo để đa ra biện pháp rèn luyện, uốn
nắn trong suôt quá trình dạy học ở lớp.

2- Học sinh thờng đọc, viết sai một số âm đầu, âm cuối, âm đệm.
+ Trăn trở - Chăn chở
+ Xung quanh - Xung quoanh Xung qoanh
+ Đêm khuya - Đêm khia
+ Ra trận - Da chận
+ Reo vui - Gieo vui
+ Giã gạo - Dã gạo
+ Cấy lúa - Cấi lúa
+ Dòng sông - Ròng xông
- Đọc, viết sai vần.
+ Quả chuối - Quả chúi
+ Bao nhiêu - Bao nhiu
+ Con chuột - Con chuật
+ Muôn vàn - Mun vàn
+Khiêng hòn đá - Khinh hòn đá
- Đọc sai dấu thanh.
+ Thung lũng - Thung lủng
4
+ Củng cố - Cũng cố
+ Nhỏ bé - Nhõ bé
+ Bãi biển - Bải biển
- Để khắc phục những lỗi sai cơ bản trên ta cần:
Tổ chức họp phụ huynh qua từng kỳ.
+ Lần họp thứ nhất ( cuối tháng thứ nhất của năm học).
Giáo viên cần thông báo đợc tình hình của lớp mình phụ trách, thông báo kết
quả chất lợng đầu năm học của từng em đến từng phụ huynh
- Phổ biến các quy định về thời gian biểu, thời khoá biểu của nhà trờng đến
phụ huynh.
- Nắm chắc số lợng học sinh cha đầy đủ sách giáo khoa và đồ dùng học tập
để yêu cầu phụ huynh học sinh mua kịp thời cho các em để các em học tập có chất

lợng tốt hơn.
- Nhắc nhở phụ huynh cần quan tâm đến việc học của con em mình ở nhà.
- Hớng dẫn cách rèn đọc, viết đúng cho phụ huynh kèm cặp thêm ở nhà.
Ví dụ: Khi đọc các tiếng có âm đầu: tr, r, s, thì đầu lỡi phải cong, còn các tiếng
âm đầu ch , d , x thì đọc bình thờng.
- Khi viết cần phải cho học sinh hiểu nghĩa của từ để các em viết đúng.
Ví dụ: Sông, Xông, sông ( dòng sông), Xông ( Xông thuốc, xông lên).
- Chú , trú, chú ( chú ý ) trú ( trú quán, trú ma).
- Khi đọc các tiếng có nguyên âm đôi nh: ơ, uô, iê, phải đọc liền mạch, đọc lớt từ
âm này sang âm kia, không nhấn mạnh ở một âm nào.
Ví dụ: Chiến: Ta phải đọc lớt cả âm i và âm ê tạo thành: iên chiến, chú
không nhấn ở âm i hoặc ê, nếu nhấn mạnh ở âm i thì tạo nên: in chín, nếu
nhấn mạnh âm ê sẽ tạo nên ên chến.
- Khi đọc cho các em viết phải đọc rõ ràng từng tiếng một, phải phát âm thật
chuẩn.
+ Lần họp thứ 2: ( Vào đầu học kỳ II)
. ở lần họp này giáo viên phải thông báo đợc kết quả học tập của từng em một
5
đánh giá thật chính xác về sự tiến bộ của từng em, nhất là học sinh yếu ,kém, cá biệt
và học sinh trung bình.
Gặp riêng phụ huynh để trò chuyện, tâm sự, tìm hiểu thêm về điều kiện hoàn
cảnh hoặc những khó khăn riêng mà gia đình có học sinh yếu kém vớng mắc để
động viên khuyến khích, tạo điều kiện giúp đỡ về tinh thần, vật chất để các em học
tập tốt hơn, hàng tháng hàng tuần ghi kết quả học tập có sự tiến bộ về gia đình, kết
hợp với phụ huynh để uốn nắn học sinh kịp thời.
3- Những việc làm cụ thể của giáo viên và học sinh trên lớp:
a) Giáo viên phải thờng xuyên kiểm tra đồ dùng học tập, sách vở của học
sinh, nhắc nhở các em mang đầy đủ đồ dùng đi học.
b) Rèn đọc, viết cho học sinh.
Muốn học sinh đọc, viết đúng, đẹp thì trớc hết giáo viên phải là ngời đọc chuẩn,

viết chuẩn, đẹp.
* Rèn đọc:
Khi đọc giáo viên phải đọc đúng, đọc chuẩn, đọc diễn cảm bài văn, bài thơ, đọc
mẫu cho học sinh nghe cách đọc ở từng bài trong quá trình gọi học sinh đọc câu,
đọc đoạn giáo viên phải thực hiện sự lắng nghe học sinh đọc bài và yêu cầu cả lớp
theo dõi bạn đó đọc bài và yêu cầu cả lớp theo dõi bạn đó đọc, khi học sinh đó đọc
sai một từ nào giáo viên phải uốn nắn, cho em đó đọc lại nhiều lần cho tới khi đọc
đúng mới thôi. nếu học sinh đọc còn chậm thì giáo viên nên cho học sinh đó đọc
nhiều lần một bài hoặc một đoạn để nâng dần tốc độ đọc của em đó lên.
Ví dụ: Trong khi dạy bài Ngời mẹ học sinh thờng đọc sai âm đầu nh:
Suốt mấy đêm ròng học sinh đọc Xuốt mấy đêm dòng , Trông con đọc là
Chông con , sai các vần nh Tuôn rơi học sinh đọc là Tun rơi ,
Đuổi theo , đọc là Đủi theo , Ngạc nhiên , , đọc là Ngạc nhin , hay
Băng tuyết đọc thành Băng tuýt . Sai dấu thanh, Ngã ba học sinh đọc là
Ngả ba , Nớc mắt tuôn rơi lã chã học sinh đọc thành Nớc mắt tuôn rơi lả chả
. Trong các trờng hợpđó bản thân tôi cần phải phát âm mẫu lại, cho học sinh theo
dõi, yêu cầu một số học sinh đọc đúng rồi cho học sinh đọc sai phát âm lại.
6
- Để khuyến khích các em đọc hay, đọc diễn cảm thì ở giờ tập đọc , học thuộc lòng
tôi thờng tổ chức trò chơi cho các em dới dạng Thi đọc nhanh, đọc đúng, đọc
diễn cảm, tôi chia lớp thành ba nhóm học sinh có trình độ khác nhau, giỏi khá
trung bình, yếu , yêu cầu mỗi nhóm một mức độ đọc khác nhau, ở góc bên trái bục
giảng tôi làm 3 tấm bảng vàng ( làm bằng bìa và giấy màu vàng ) nếu nh ở mỗi
nhóm có học sinh nào đọc đúng âm, vần, đọc hay, diễn cảm thì ghi tên em đó lên
bảng vàng, còn số học sinh trung bình, yếu em nào hay hơn , đúng hơn có nhiều tiến
bộ hơn thì giáo viên ghi tên vào bảng vàng ứng với mỗi trình độ của nhóm đó, cuối
tuần giáo viên tổng kết, khen ngợi trớc lớp.
c) Rèn viết
- Khi rèn viết cho học sinh đòi hỏi giáo viên phải đọc đúng, rõ ràng từng chữ, từng
từ, từng cụm từ, từng câu. Nhắc nhở học sinh tạo ra thói quen nghe xong câu, nhẩm

lại rồi mới viết vào vở. Giáo viên chú ý cách ngồi đúng t thế, cách cầm bút để viết
đúng, đẹp.
- Trong các giờ chính tả giáo viên phải hớng dẫn cho học sinh tìm đợc các tiếng
khó viết, phân tích tiếng khó và cho học sinh hiểu nghĩa của từ, tiếng khó, sau đó
cho học sinh luyện viết vào bảng con. Chú trọng ôn luật chính tả cho học sinh. Chú
ý nhắc nhở các em viết đúng độ cao, rộng, khoảng cách và vị trí dấu thanh để các
em viết đúng, viết đẹp và sạch sẽ hơn. Nếu có học sinh viết xấu, bẩn thì giáo viên
yêu cầu viết lại ở nhà, hôm sau chấm điểm, kiểm tra lại. Rèn viết cho học sinh ở tất
cả các môn học khác để rèn thói quen viết đúng cho học sinh.
- ở những tiết luyện viết buổi hai, tôi thờng tổ chức cho các em thi: Viết đẹp,
viết đúng, viết nhanh, viết nhiều kiểu chữ khác nhau. Nhằm khuyến khích ý thức tự
rèn mình.
d) Rèn đọc và viết đối học sinh cá biệt.
Trong lớp 3B tôi phụ trách có 2 học sinh cá biệt. Đây là đối tợng học sinh tiếp thu
bài rất chậm, do đặc điểm trí tuệ chậm phát triển, hơn nữa gia đình cũng không
quan tâm đến việc học của con em mình ( vì các em ở với ông bà già), một học sinh
còn thiếu sách giáo khoa và đồ dùng học tập nhiều.
7
+ Rèn đọc:
Số học sinh lớp tôi đọc còn yếu là do ở lớp một các em cha thạo mặt chữ, dẫn
đến các em đọc chậm, đọc sai nhiều, đọc còn phải đánh vần, sai cả tiếng, nguyên
âm. Vì vậy trong các giờ tập đọc, tôi thờng xuyên dành thời gian kèm cặp số học
sinh này bằng cách cho đọc ghép vần, đọc thành từng tiếng. Nếu đọc sai do phát âm
thì tôi hớng dẫn cách phát âm cho em đó. Song songvới sự giáo dục của giáo viên
cũng cần phẳi gặp gỡ gia đình học sinh trao đổi mong muốn sự kết hợp giữa giáo
viên và gia đình để uốn nắn giáo dục học sinh.
- Bên cạnh đó tôi phát động phong trào Giúp nhau tiến bộ bằng cách lập thành
các nhóm, trong đó có học sinh khá, giỏi kèm cặp em yếu. Các nhóm này thực hiện
giúp bạn đọc vào đầu giờ buổi sáng và khi học nhóm ở nhà. Cuối tuần tổng kết khen
ngợi, nếu nhóm nào có bạn đọc kémkhông tiến bộ hơn thì tôi động viên khuyến

khích và quan tâm nhiều hơn nữa hoặc có thể thay bạn kèm cho em đó.
+ Rèn viết:
Trong các tiết tập viết, chính tả tôi thờng xuyên quan tâm, nhắc nhở các em yếu
viết để các em viết cho đúng. Học sinh viết cha đúng nét, khoảng cách chữ và thế
chữ, tôi cho học sinh đó rèn luyện viết chữ thật nhiều hoặc viết đi viết lại nhiều lần
chữ bị sai, hớng dẫn cách sửa từng nét, từng chữ một.
Để học sinh yếu viết đợc, viết đúng, viết đẹp hơn thì tôi đã cho các em viết xấu
ngồi bên cạnh các em viết đúng đẹp để các em học tập, có hớng vơn lên, các em viết
đúng, đẹp có thể kèm cặp bạn đợc tiện lợi hơn.
Muốn cho các em Đọc thông, viết thạo thì giáo viên phải thực sự làm tấm gơng
sáng, thực sự là ngời mẹ hiền dẫn dắt các em từng bớc vơn lên. Rèn sửa chữ viết
cho các em thật tỉ mỉ, kịp thời, dùng mọi biện pháp kịp thời, khen , chê đúng mức
thì mới có kết quả tốt.
8
C - kết luận
1/ Kết quả nghiên cứu:
Qua một quá trình dày công rèn luyện, trờng kỳ vất vả, bằng những kinh nghiệm
thực tế thiết thực, cùng với sự cố gắng học hỏi, nỗ lực vơn lên của học sinh, kết quả
giữa kỳ II của năm học 2008 2009 lớp tôi đã thu đợc kết quả đáng phấn khởi
+ Học sinh đọc đúng tốc độ, rõ ràng, diễn cảm: 6 em
+ Học sinh đọc đúng tốc độ, bớc đầu biết đọc diễn cảm: 8 em
+ Học sinh đọc đúng tốc độ: 12 em
+ Học sinh đọc còn chậm: 1 em
+ Tỉ lệ học sinh đọc đúng, tốc độ vừa phải đạt : 96,3%
- Kết quả rèn viết:
+ Học sinh đạt vở sạch chữ đẹp loại A: 24 em
+ Học sinh đạt vở sach chữ đẹp loại B: 3 em
+ Học sinh đạt vở sạch chữ đẹp loại C: 0 em
* Việc rèn đọc và viết cho học sinh lớp 3, không phải là việc làm đơn giản, đây là
cả một quá trình dày công nghiên cứu, đòi hỏi ngời thực hiện phải thực sự tâm huyết

với nghề, yêu thơng trẻ, phải kiên trì, tỉ mỉ, vì đối tợng học sinh lớp 3 đang còn nhỏ,
các em còn thích chơi hơn học. Hơn nữa các em mới đợc làm quen với chữ cỡ nhỏ
một năm, nên các em viết chữ còn chậm, tay cầm bút cha chắc, cách trình bày vở
còn cha thạo nên đòi hỏi giáo viên phải thật chịu khó, bền bỉ, tránh thái độ nôn
nóng, sốt ruột.
Đó là một số kinh nghiệm của tôi, mặc dù các biện pháp thực hiện cha nhiều, cha
phải là tối u. Song tôi đã áp dụng, thực hiện ở lớp tôi thì kết quả thu đợc cũng tạm
mĩ mãn, tạo cho tôi niềm tin tởng, phấn khởi hơn nhiều trong quá trình dạy học của
mình.
2/ Kiến nghị, đề xuất:
Do khả năng còn hạn chế, kinh nghiệm cha nhiều, các biện pháp cha phải là hữu
hiệu. Rất mong ban giàm hiệu, bạn bè đồng nghiệp đóng góp ý kiến để tôi tìm ra
phơng pháp tối u hơn, áp dụng tốt hơn vào thực tế giảng dạy. Từng bớc xoá bỏ việc
9
ngồi nhầm lớp của học sinh mà bộ giáo dục đã đề ra và đa sợ nghiệp giáo dục phát
triển hơn nữa.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Ngày 12 tháng 3 năm 2009
Ngời thực hiện:
Lê Thị Dung
10

×