Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Nghiên cứu bồi thường thiệt hại trong đình công bất hợp pháp của công ty C với anh V

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.71 KB, 14 trang )

ĐỀ BÀI
1. Phân tích và nêu ý kiến về vấn đề bồi thường thiệt hại trong đình
công bất hợp pháp. (3 điểm)
2. Ngày 10 tháng 9 năm 2000, anh V thường trú tại quận 1, thành phố
H có kí hợp đồng lao động không xác định thời hạn với công ti C có trụ sở
chính đống tại quận T, thành phố H. Theo bản hợp đồng lao động này, công
việc mà anh V là nhân viên đội bảo vệ, tiền lương theo hợp đồng là 2 triệu
đồng/ tháng, tiền lương trước khi nghỉ việc là 2,5 triệu đồng/ tháng.
Cuối năm 2007, công ti C có chủ trương cắt giảm lao động để giảm
chi phí sản xuất. Ngày 12 tháng 12 năm 2007, Tổng Giám đốc công ti C ra
quyết định số 08/ QĐ- VL giải thể đội bảo vệ và cho 20 nhân viên bảo vệ
thôi việc theo Điều 17 Bộ luật Lao động, trong đó có anh V. Ngày 5 tháng 2
năm 2008 công ti C ra quyết định số 12 chấm dứt hợp đồng lao động đối với
anh V kể từ ngày 8 tháng 2 năm 2008. Khi chấm dứt hợp đồng, công ti trả
cho anh V trợ cấp thôi việc theo số năm anh đã làm việc cho công ti.
Ngày 3 tháng 2 năm 2008, anh V gửi đơn đến các cơ quan tổ chức có
thẩm quyền về việc bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp
luật. Anh V yêu cầu công ti C phải rút lại quyết định chấm dứt hợp đồng lao
động, nhận trở lại làm việc với vị trí và điều kiện như cũ, thanh toán tiền
lương trong những ngày không được làm việc.
a/ Các cơ quan tổ chức nào có thẩm quyền giải quyết đơn yêu cầu của
anh V?
b/ Trong vụ việc trên, anh V và công ti tranh chấp về vấn đề gì?
c/ Theo anh (chị), công ti có thể căn cứ vào cơ sở pháp lí nào để chấm
dứt hợp đồng với anh V và để chấm dứt hợp pháp công ti sẽ phải tiến hành
những thủ tục gì?
d/ Giả sử việc chấm dứt hợp đồng của công ti là hợp pháp thì quyền
lợi của anh V sẽ được giải quyết như thế nào?
BÀI LÀM
1. Vấn đề bồi thường thiệt hại trong đình công bất hợp pháp
a) Quy định về bồi thường thiệt hại trong đình công bất hợp pháp


Đình công là sự ngừng việc tạm thời, tự nguyện và có tổ chức của tập
thể lao động đề giải quyết tranh chấp lao động tập thể. Đây là hiện tượng xã
hội tồn tại khách quan trong nền kinh tế thị trường. Căn cứ vào quy định của
pháp luật về đình công, hiện nay đình công được phân chia làm hai loại:
đình công hợp pháp và đình công bất hợp pháp. Trong đó, đình công bất hợp
pháp là đình công không thực hiện đầy đủ, không thực hiện đúng các quy
định của pháp luật. Các trường hợp đình công bất hợp pháp được quy định
một cách cụ thể theo điều 173 BLLĐ 2006 như sau:
“1- Không phát sinh từ tranh chấp lao động tập thể;
2- Không do những người lao động cùng làm việc trong một doanh
nghiệp tiến hành;
3- Khi vụ tranh chấp lao động tập thể chưa được hoặc đang được cơ
quan, tổ chức giải quyết theo quy định của Bộ luật này;
4- Không lấy ý kiến người lao động về đình công theo quy định tại điều
174a hoặc vi phạm các thủ tục quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 174b
của Bộ luật này;
5- Việc tổ chức và lãnh đạo đình công không tuân theo quy định tại
Điều 172a của Bộ luật này;
6- Tiến hành tại doanh nghiệp không được đình công thuộc danh mục
do Chính phủ quy định;
7- Khi đã có quyết định hoãn hoặc ngừng đình công.”
Đình công tuy là một hiện tượng khách quan nhưng nó bị hạn chế, bị
giới hạn bởi quy định của pháp luật. Người tổ chức và tham gia đình công có
thể bị xử phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật nếu
đó là đình công bất hợp pháp. Điều 179 Bộ luật lao động năm 2006 quy
định: “ Khi đã có quyết định của toà án về việc đình công là bất hợp pháp mà
người lao động không ngừng đình công, không trở lại làm việc thì tuỳ theo
từng mức độ vi phạm có thể bị xử lí kỷ luật lao động theo quy định của pháp
luật lao động.
Trong trường hợp cuộc đình công là bất hợp pháp, gây thiệt hại cho người

sử dụng lao động thì tổ chức, cá nhân tham gia đình công có lỗi phải bồi
thường thiệt hịa theo quy định của pháp luật”. Như vậy, khi đã có quyết định
của Toà án là đình công bất hợp pháp thì người lao động phải bồi thường
thiệt hại cho người sử dụng lao động nếu thiệt hại có xảy ra.
Việc bồi thường thiệt hại do đình công bất hợp pháp gây ra được quy định
một cách khá chặt chẽ và rõ ràng theo quy định của Nghị định số
11/2008/NĐ-CP được chính phủ ban hành ngày 30/1/2008 và thông tư
số 07/2008/TTLT-BLĐTBXH-BTC hướng dẫn thực hiện nghị định số 11.
Hai văn bản này quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại, mức bồi thường
thiệt hại và hình thức bồi thường thiệt hại của tổ chức, cá nhân tham gia đình
công gây thiệt hại cho người sử dụng lao động trong trường hợp cuộc đình
công bị Toà án nhân dân tuyên bố là bất hợp pháp theo quy định của Bộ
Luật Lao động.
Theo đó, khi đình công bất hợp pháp xảy ra và gây thiệt hại thì thiệt hại
phải được bồi thường đầy đủ, kịp thời theo yêu cầu. Mức bồi thường thiệt
hại (điều 7 nghị định 11/2008) được xác định trên cơ sở thiệt hại vật chất
thực tế. Việc bồi thường được thực hiện bằng tiền, hiện vật hoặc bằng việc
thực hiện một công việc. Quyền tự định đoạt của các bên được tôn trọng và
khuyến khích cũng như quyền, lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động,
người lao động được bảo đảm để duy trì và phát triển quan hệ lao động tại
doanh nghiệp.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại (Điều 10 nghị định 11/2008) thuộc về tổ
chức công đoàn cơ sở đã lãnh đạo cuộc đình công bị Toà án nhân dân tuyên
bố là bất hợp pháp, gây thiệt hại cho người sử dụng lao động. Những người
được cử làm đại diện cho tập thể lao động và những người lao động tham gia
đình công bất hợp pháp phải chịu trách nhiệm cá nhân theo phần trong việc
thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho người sử dụng lao động. Thời
hạn yêu cầu bồi thường thiệt hại là một năm, kể từ ngày quyết định của Toà
án về tính bất hợp pháp của cuộc đình công có hiệu lực.
Thiệt hại phải bồi thường do cuộc đình công bất hợp pháp gây ra bao gồm

tài sản của doanh nghiệp bị thiệt hại trực tiếp do việc ngừng sản xuất, kinh
doanh vì lý do đình công. Mức bồi thường thiệt hại tối đa không vượt quá 3
tháng tiền lương, tiền công liền kề trước ngày đình công diễn ra theo hợp
đồng lao động của những người lao động tham gia đình công.
Nghị định số 11/2008/NĐ-CP và Thông tư số 07/2008/TTLT-BLĐTBXH-
BTC cũng quy định rõ trường hợp đình công bất hợp pháp nếu do tổ chức
công đoàn cơ sở lãnh đạo thì tổ chức này phải bồi thường bằng nguồn kinh
phí lấy từ tài sản của tổ chức công đoàn; đại diện tập thể lao động và những
người lao động tham gia đình công bất hợp pháp phải chịu trách nhiệm theo
phần đối với thiệt hại đã gây ra cho người sử dụng lao động.
Đối với người lao động tham gia đình công bất hợp pháp, việc bồi thường
thiệt hại được khấu trừ dần vào tiền lương, tiền công hàng tháng của người
đó. Mức khấu trừ tối đa của một lần là không quá 30% tiền lương, tiền công
tháng theo hợp đồng của người lao động.
b) Một số ý kiến về vấn đề bồi thường thiệt hại trong đình công bất
hợp pháp.
Vấn đề bồi thường thiệt hại trong đình công bất hợp pháp là một quy
định hoàn toàn mới, đã được BLLĐ sửa đổi năm 2006 quy định lần đầu tiên,
đây là một quy định cần thiết trong thực tiễn về giải quyết đình công. Quy
định này thể hiện sự công bằng trong việc xem xét giữa bảo vệ quyền lợi
NLĐ và quyền lợi hợp pháp của NSDLĐ. Đình công là quyền của NLĐ,
song NLĐ khi thực hiện quyền của mình thì phải tuân thủ quy định của pháp
luật và tôn trọng quyền lợi hợp pháp của NSDLĐ. Mặt khác, vấn đề bồi
thường thiệt hại trong đình công bất hợp pháp có tác dụng ngăn ngừa đình
công bất hợp pháp, bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy xây dựng
quan hệ lao động phát triển, mang lại sự yên tâm cho các nhà đầu tư. Tuy
nhiên, việc quy định bồi thường thiệt hại trong đình công bất hợp pháp hiện
nay vẫn còn một số điểm chưa hợp lí. Cụ thể, xin đưa ra một số vấn đề như
sau:
Thứ nhất, Theo Điều 1 của Nghị định 11 thì Nghị định này chỉ quy

định trách nhiệm bồi thường thiệt hại, mức bồi thường thiệt hại và hình thức
bồi thường thiệt hại của tổ chức, cá nhân tham gia đình công gây thiệt hại
cho người sử dụng lao động trong trường hợp cuộc đình công bị Tòa án nhân
dân tuyên bố là bất hợp pháp. Vậy những cuộc đình công bất hợp pháp
nhưng do không có yêu cầu của NLĐ hoặc NSDLĐ nên Tòa án không xét
tính hợp pháp của nó, thì vấn đề bồi thường thiệt hại sẽ được quy định như
thế nào. Trong khi đó, theo thống kê của Tổng liên đoàn lao động Việt Nam,
tính từ 1995 đến tháng 6 năm 2007 đã có trên 1500 cuộc đình công xảy ra
trên toàn quốc song vẫn chưa có trường hợp nào được đưa ra yêu cầu Tòa án
xét tính hợp pháp. Do thủ tục giải quyết đình công tại Tòa án phức tạp và

×