Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

PHÂN TÍCH VÀ NÊU Ý KIẾN VỀ VẤN ĐỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI TRONG ĐÌNH CÔNG BẤT HỢP PHÁP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.48 KB, 16 trang )

A. PHÂN TÍCH VÀ NÊU Ý KIẾN VỀ VẤN ĐỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
TRONG ĐÌNH CÔNG BẤT HỢP PHÁP.
Đình công là một biện pháp được pháp luật qui định cho người lao động sử
dụng để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình theo trình tự, thủ tục nhất định. Tuy
nhiên, trong thực tế, nhiều cuộc đình lại diễn ra một cách bất hợp pháp, gây ra thiệt
hại đáng kể cho cả phía người sử dụng lao động lẫn cả người lao động. Xung quanh
vấn đề về bồi thường thiệt hại trong đình công bất hợp pháp vẫn còn nhiều vấn đề
cần được nghiên cứu và bàn luận.
1. Lí luận chung về đình công và đình công bất hợp pháp.
Theo quy định tại Điều 172 BLLĐ sửa đổi, bổ sung năm 2006 thì: Đình công
là sự ngừng việc tạm thời, tự nguyện và có tổ chức của tập thể lao động để giải quyết
tranh chấp lao động tập thể.
Đình công bất hợp pháp được quy định tại Điều 173 BLLĐ như sau:“ Cuộc
đình công thuộc một trong những trường hợp sau đây là bất hợp pháp: 1. Không phát
sinh từ tranh chấp lao động tập thể; 2. Không do những người lao động cùng làm
việc trong một doanh nghiệp tiến hành; 3. Khi vụ tranh chấp lao động tập thể chưa
được hoặc đang được cơ quan, tổ chức giải quyết theo quy định của Bộ luật này; 4.
Không lấy ý kiến người lao động về đình công theo quy định tại Điều 174a hoặc vi
phạm các thủ tục quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 174b của Bộ luật này; 5. Việc
tổ chức và lãnh đạo đình công không tuân theo quy định tại Điều 172a của Bộ luật
này; 6. Tiến hành tại doanh nghiệp không được đình công thuộc danh mục do Chính
phủ quy định; 7. Khi đã có quyết định hoãn hoặc ngừng đình công.”
2. Bồi thường thiệt hại trong đình công bất hợp pháp theo quy định của
pháp luật.
Bồi thường thiệt hại trong lao động là một loại trách nhiệm pháp lý phát sinh
khi một bên trong quan hệ lao động có hành vi vi phạm nghĩa vụ, gây thiệt hại cho
bên kia, nhằm khôi phục lại tình trạng tài sản bù đắp tổn thất về tinh thần, sức khỏe
cho người bị thiệt hại.
1
Bồi thường thiệt hại trong trường hợp cuộc đình công bất hợp pháp là bồi
thường những tổn thất về vật chất do đình công (do hành vi ngừng làm việc) của tập


thể người lao động đây ra.
Vấn đề bồi thường thiệt hại trong đình công bất hợp pháp được quy định tại
Điều 179 BLLĐ: “Trong trường hợp cuộc đình công là bất hợp pháp, gây thiệt hại
cho người sử dụng lao động thì tổ chức, cá nhân tham gia đình công có lỗi phải bồi
thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.” Và được quy định chi tiết trong Nghị
định 11/2008/NĐ-CP quy định về bồi thường thiệt hại trong trường hợp đình công
bất hợp pháp gây thiệt hại cho người lao động và thông tư liên tịch 07/2008/TTLT-
BLĐTBXH-BTC hướng dẫn thực hiện Nghị định số 11/2008/NĐ-CP ngày
30/01/2008 của Chính phủ quy định về việc bồi thường thiệt hại trong trường hợp
cuộc đình công bất hợp pháp gây thiệt hại cho người sử dụng lao động.
2.1. Về chủ thể
* Chủ thể có trách nhiệm bồi thường.
Chủ thể có trách nhiệm bồi thường trong đình công bất hợp pháp theo quy định
tại Điều 2 Nghị định số 11/2008/NĐ-CP bao gồm:
Tổ chức, cá nhân đã lãnh đạo hoặc tham gia cuộc đình công bất hợp pháp:
- Ban chấp hành công đoàn cơ sở hoặc Ban chấp hành công đoàn lâm thời;
- Đại diện được tập thể lao động cử và việc cử này đã được thông báo với liên
đoàn lao động cấp huyện hoặc tương đương;
- Người lao động.
* Chủ thể được bồi thường
Chủ thể được bồi thường là người sử dụng lao động bao gồm:
- Doanh nghiệp được thành lập, hoạt động theo Luật Doanh nghiệp.
- Công ty nhà nước trong thời gian chuyển đổi theo khoản 2 Điều 166 của
Luật Doanh nghiệp.
- Hợp tác xã, Liên hiệp hợp tác xã thành lập, hoạt động theo Luật Hợp tác xã.
2
- Tổ chức, đơn vị, cá nhân người nước ngoài hoặc người Việt Nam có sử dụng
lao động theo chế độ hợp đồng lao động.
2.2. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại.
Theo quy định tại Điều 3 Nghị định 11/2008/NĐ-CP bồi thường thiệt hại tuân

thủ theo 5 nguyên tắc sau:
- Thiệt hại phải được bồi thường đầy đủ, kịp thời theo yêu cầu.
- Mức bồi thường thiệt hại được xác định trên cơ sở thiệt hại vật chất thực tế.
- Tôn trọng, khuyến khích quyền tự định đoạt của các bên.
- Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động, người lao
động để duy trì và phát triển quan hệ lao động tại doanh nghiệp.
- Việc bồi thường được thực hiện bằng tiền, hiện vật hoặc bằng việc thực
hiện một công việc.
2.3. Xác định những thiệt hại để bồi thường.
Theo quy định Điều 6 Nghị định số 11/2008/NĐ-CP thiệt hại do cuộc đình công
bất hợp pháp được xác định để bồi thường bao gồm:
- Giá trị máy móc, thiết bị bị hỏng phải thay thế; nguyên, vật liệu phục vụ sản
xuất kinh doanh bị hư, hỏng không sử dụng được; bán thành phẩm, sản phẩm đã
hoàn thành nhưng chưa thực hiện quy trình bảo quản, đóng gói bị hư hỏng không
còn sử dụng được sau khi trừ đi giá trị thu hồi do thanh lý (nếu có).
- Chi phí vận hành máy móc, thiết bị trong thời gian đình công diễn ra để
tránh bị hỏng như: tiền điện, tiền nước, tiền xăng dầu, tiền thuê nhân công vận
hành…; chi phí sửa chữa đối với các loại máy móc, thiết bị đã bị hỏng; chi phí bảo
quản nguyên vật liệu, sản phẩm trong thời gian diễn ra đình công; chi phí tái chế
nguyên vật liệu, bán thành phẩm hoặc thành phẩm bị hư hỏng; chi phí thuê dọn dẹp,
vứt đổ nguyên vật liệu, sản phẩm hư hỏng.
Nguyên tắc xác định giá bồi thường thiệt hại là giá thị trường tại thời điểm
xảy ra đình công bất hợp pháp; riêng đối với tài sản cố định bị hỏng do ngừng vận
hành, phải thay thế, sửa chữa thì giá bồi thường thiệt hại được xác định căn cứ vào
3
nguyên giá tài sản cố định, mức trích khấu hao tài sản cố định theo quy định hiện
hành và giá trị thu hồi do thanh lý (nếu có).
Tuy nhiên, nếu trong trường hợp hai bên không nhất trí về giá trị thiệt hại thì
có quyền yêu cầu tổ chức trung gian xác định giá trị thiệt hại. Chi phí xác định giá trị
thiệt hại do bên yêu cầu thanh toán. Tổ chức trung gian xác định giá trị thiệt hại là tổ

chức thẩm định giá được thành lập theo quy định của pháp luật.
Người sử dụng lao động có trách nhiệm xác định thiệt hại do cuộc đình công
bất hợp pháp gây ra và yêu cầu bồi thường trong thời hạn 1 năm kể từ ngày quyết
định tòa án tuyên bố cuộc đình công là bất hợp pháp có hiệu lực. Giá trị thiệt hại
được tính bằng tiền Việt Nam, theo mức độ thiệt hại do cuộc đình công bất hợp pháp
gây ra.
2.4. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại
Trường hợp cuộc đình công do tổ chức công đoàn cơ sở đã lãnh đạo bị Toà án
nhân dân tuyên bố là bất hợp pháp, gây thiệt hại cho người sử dụng lao động thì Ban
chấp hành công đoàn cơ sở có trách nhiệm thực hiện bồi thường thiệt hại.
Trường hợp cuộc đình công do đại diện tập thể lao động lãnh đạo bị Toà án
nhân dân tuyên bố là bất hợp pháp, gây thiệt hại cho người sử dụng lao động thì
những người được cử làm đại diện tập thể lao động và những người lao động tham
gia đình công phải chịu trách nhiệm cá nhân theo phần trong việc thực hiện nghĩa vụ
bồi thường thiệt hại cho người sử dụng lao động.
2.5. Mức bồi thường thiệt hại và việc thực hiện bồi thường.
* Mức bồi thường thiệt hại
Theo quy định tại Điều 7 Nghị định số 11/2008/NĐ-CP, mức bồi thường thiệt
hại được xác định như sau: Mức bồi thường thiệt hại do hai bên thoả thuận trên cơ
sở giá trị thiệt hại được xác định theo thiệt hại đã gây ra, nhưng tối đa không vượt
quá ba tháng tiền lương, tiền công liền kề trước ngày đình công diễn ra theo hợp
đồng lao động của những người lao động tham gia cuộc đình công.
* Thực hiện bồi thường.
4
Trường hợp đại diện tập thể lao động lãnh đạo đình công bị Toà án nhân dân
tuyên bố là bất hợp pháp thì đại diện tập thể lao động và những người lao động tham
gia đình công thực hiện bồi thường thiệt hại theo mức bồi thường thuộc trách nhiệm
cá nhân theo phần.
Mức bồi thường thuộc trách nhiệm cá nhân theo phần được xác định bằng
tổng mức bồi thường thiệt hại chia cho tổng số người tham gia đình công (kể cả

người lãnh đạo đình công).
Việc bồi thường của mỗi cá nhân được khấu trừ dần vào tiền lương, tiền công
hàng tháng của người đó. Mức khấu trừ mỗi tháng không quá 30% mức lương, tiền
công ghi theo hợp đồng lao động làm cơ sở đóng, hưởng bảo hiểm xã hội.
Trường hợp người lao động chấm dứt hợp đồng lao động trước khi hoàn thành
nghĩa vụ bồi thường, phần bồi thường còn lại được tính là khoản nợ của người lao
động đối với người sử dụng lao động. Việc thanh toán khoản nợ này do hai bên thoả
thuận hoặc theo quy định của pháp luật.
Việc thực hiện bồi thường bằng hiện vật hoặc bằng việc thực hiện một công
việc do hai bên thoả thuận trên cơ sở quy đổi hiện vật và công lao động thực hiện
một công việc ra tiền.
2.6. Trình tự thủ tục bồi thường thiệt hại.
Kể từ ngày nhận được văn bản yêu cầu bồi thường thiệt hại của người sử dụng
lao động, trong 10 ngày, Ban chấp hành công đoàn cơ sở hoặc đại diện tập thể lao
động phải có ý kiến trả lời bằng văn bản cho người sử dụng lao động. Nếu đồng ý thì
có văn bản cam kết bồi thường thiệt hại làm cơ sở pháp lý xác định nghĩa vụ bồi
thường thiệt hại của đại diện tổ chức công đoàn cơ sở hoặc đại diện tập thể lao động.
Nếu không đồng ý thì có văn bản yêu cầu thương lượng gửi cho người sử dụng lao
động, Sở LĐTB&XH, Liên đoàn lao động cấp tỉnh.
Nếu nhận được văn bản yêu cầu thương lượng, người sử dụng lao động có
trách nhiệm tổ chức phiên họp thương lượng trong vòng 3 ngày làm việc hoặc phải
có văn bản nêu rõ lý không tổ chức được phiên họp và ấn định cụ thể thời gian sẽ
5
tiến hành tổ chức phiên họp thương lượng tiếp theo. Hết thời hạn 10 ngày, kể từ
ngày nhận được yêu cầu bồi thường thiệt hại của người sử dụng lao động mà Ban
chấp hành công đoàn cơ sở hoặc đại diện tập thể lao động không có văn bản trả lời
thì được coi là phía đại diện người lao động từ chối thương lượng và người sử dụng
lao động có quyền khởi kiện ra Tòa đòi bồi thường thiệt hại.
3. Nhận xét và kiến nghị về bồi thường thiệt hại trong đình công bất hợp pháp.
Theo tổng kết thì nguyên nhân chủ yếu của các cuộc đình công thường do chủ

sử dụng lao động vi phạm pháp luật lao động, trả lương quá thấp, nợ lương, kỷ luật
bằng hình thức trừ lương. Không thực hiện đầy đủ chế độ BHYT, BHXH, phụ cấp
độc hại, làm thêm giờ cho người lao động và tăng ca liên tục trong thời gian dài hoặc
do người lao động bị xúc phạm nhân phẩm. Ngoài ra còn có các nguyên nhân khác
do công tác quản lý còn yếu kém, nhất là chậm hướng dẫn xây dựng thang, bảng
lương tại các doanh nghiệp; Công tác thanh, kiểm tra bị buông lỏng và kém hiệu lực;
Tổ chức công đoàn cơ sở trong các doanh nghiệp xảy ra đình công chưa thể hiện rõ
vai trò đại diện bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người lao động và nhận thức về pháp
luật của người lao động còn có nhiều hạn chế. Từ những nguyên nhân trên, NLĐ quá
bức xúc nên thực hiện đình công mà không theo đúng các quy định của pháp luật.
Theo quy định của pháp luật thì người lao động tham gia cuộc đình công bất
hợp pháp phải bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, điều này khó có thể thực hiện trên
thực tế khi trình tự, thủ tục cho một cuộc đình công hợp pháp còn quá rắc rối. Luật
quy định, nếu doanh nghiệp có dưới 300 lao động thì phải lấy ý kiến trực tiếp, có từ
300 lao động trở lên thì lấy ý kiến của thành viên Ban chấp hành Công đoàn cơ sở,
tổ trưởng tổ công đoàn và tổ trưởng tổ sản xuất... Điều này khó thực hiện bởi khó có
thể lấy được ý kiến trực tiếp của gần 300 con người trong khi mâu thuẫn giữa chủ sử
dụng và người lao động đang ở đỉnh điểm.
Hơn nữa, thực tế người lao động sẽ khó có thể bồi thường khi họ chỉ là những
lao động đi làm thuê với mức lương còn rất thấp. Chưa kể lao động sau khi đình
công số lượng lao động thường không ổn định đặc biệt trong một số nhóm ngành
6

×