Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

vai trò của quỹ tiền tệ quốc tế IMF

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (615.22 KB, 40 trang )

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
HỌC VIỆN NGÂN HÀNG

BÀI TIỂU LUẬN
Phân tích vai trò của IMF trong giải quyết các cuộc
khủng hoảng
NHÓM 6
Hà Nội, 2014
- Danh mục viết tắt:
Chữ viết tắt Nguyên văn
IMF International Monetary Fund - Quỹ tiền tệ quốc tế
DNNN Doanh nghiệp nhà nước
NHNN Ngân hàng nhà nước
HTKT Hợp tác kinh tế
CSTT Chính sách tiền tệ
CSTK Chính sách tài khóa
- Danh mục bảng biểu:
STT Tên bảng, biểu, đồ thị Số trang
2.1 Tỷ giá hối đoái bình quân năm 1996 và 1997 4
2.2 Tốc độ tăng trưởng của các nền kinh tế trước và sau khủng
hoảng
4
2.3 Nợ nước ngoài và dự trữ ngoại hối (cuối năm 1997) 5
2.4 Tăng trưởng GDP ở Mỹ giai đoạn 2008 - 2012 12
2.5 Tỷ lệ thất nghiệp của Mỹ giai đoạn 2008 - 2012 13
2.6 Tình hình xuất nhập khẩu của Mỹ giai đoạn 2005 - 2011 14
2.7 Thương mại hàng hóa Việt Nam - Hoa Kì 15
2.8 Kiều hối trong giai đoạn 1996 – 2011 16
2.9 Luống vốn vào giai đoạn 2000 – 2011 17
2.10 Luồng vốn vào và chỉ số CPI 1999 - 2011 18
2.11 Nợ chính phủ EU 26


Mục lục
STT Tên mục Số trang
Lời nói đầu 1
1 Quỹ tiền tệ quốc tế - International Moneyrary Fund 2
1.1 Lịch sử ra đời và hình thành 2
1.2 Mục đích và chức năng 2
2 Các cuôc khủng hoảng và chính sách của IMF 3
2.1 Khủng hoảng tài chính – tiền tệ Đông Nam Á 3
2.1.1 Diễn biến 3
2.1.2 Tác động của cuộc khủng hoảng 4
2.1.3 Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng 5
2.1.4 Tác động của khủng hoảng tiền tệ tới Việt Nam 7
2.1.5 Vai trò của IMF trong giải quyết khủng hoảng 8
2.2 Khủng hoảng tài chính toàn cầu 11
2.2.1 Diễn biến 11
2.2.2 Nguyên nhân 12
2.2.3 Hậu quả 12
2.2.4 Chính sách hỗ trợ của IMF trong cuộc khủng hoảng tài
chính toàn cầu 2008
18
2.2.5 Đánh giá vai trò của IMF trong cuộc khủng hoảng kinh tế
thế giới 2008
22
2.3 Khủng hoảng nợ công châu Âu 22
2.3.1 Diễn biến cuộc khủng hoảng 22
2.3.2 Chính sách của IMF 22
2.3.3 IMF thừa nhận sai lầm 24
3 Kết quả của các chính sách từ IMF 28
3.1 Đóng góp chung 28
3.1.1 Kiểm soát chính sách tiền tệ của các nước hội viên 28

3.1.2 Giúp đỡ tài chính 28
3.1.3 Hỗ trợ kĩ thuật 30
3.1.4 Dự báo khủng hoảng 31
3.2 Tác động của IMF đến các nước nhỏ 32
3.2.1 Các nước nghèo 32
3.2.2 Việt Nam 34
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo
36
37
1
LỜI NÓI ĐẦU
Quỹ tiền tệ quốc tế - International Monetary Fund (IMF) ra đời vào
ngày 27-12-1945 là một tổ chức quốc tế giám sát hệ thống tài chính toàn
cầu bằng theo dõi tỷ giá hối đoái và cán cân thanh toán, cũng như hỗ trợ kỹ
thuật và giúp đỡ tài chính khi có yêu cầu.
Trong suốt quãng thời gian từ khi IMF ra đời đến nay, trên thế giới đã
trải qua rất nhiều cuộc khủng hoảng điển hình là: khủng hoảng đồng peso
Mexico 1994, khủng hoảng tài chính Đông Nam Á 1997 - 1998, khủng hoảng
tài chính toàn cầu 2007 - 2009 và gần nhất là cuộc khủng hoảng nợ công châu
Âu bắt nguồn từ Hi Lạp năm 2010. Các cuộc khủng hoảng gây ra những biến
động về tài chính, tiền tệ với quy mô và tốc độ chưa từng có, ảnh hưởng sâu
rộng và ngày càng nghiêm trọng, đe dọa đến sự tồn vong của nền kinh tế
không chỉ một vài quốc gia mà còn là cả khu vực rộng lớn Euro và toàn cầu.
Mục đích thành lập IMF là tạo một Quỹ tương trợ về Tiền bạc khi có khủng
hoảng hay một nước có đồng tiền yếu đi do kinh tế đi xuống. Các nền kinh tế
gặp khó khăn sẽ được IMF cho vay quỹ tương trợ để nâng đỡ bên cạnh đó
IMF đề ra những chính sách mà các quốc gia phải thực hiện. IMF cho vay Tài
chính từ Quỹ tương trợ hay làm trung gian vay dùm từ những quốc gia có dư
thừa về vốn,…

Hiện nay các cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ đã đi qua nhưng vẫn
còn những hậu quả chưa thể giải quyết triệt để, vì vậy, việc nhìn lại diễn biến
và vai trò của IMF trong các cuộc khủng là một việc rất cần thiết và quan
trọng để rút ra bài học kinh nghiệm và cải cách IMF sao cho có thể dự báo và
khắc phụ khủng hoảng tốt hơn. Bài tiểu luận này sẽ giới thiệu và phân tích rõ
hơn về vai trò của IMF trong giải quyết các cuộc khủng hoảng, nêu ra nội
dung, ưu nhược điểm cũng như hiệu quả đạt được của các chính sách đó,
không chỉ với đối tượng trực tiếp được giải cứu mà còn với toàn thế giới nói
chung và Việt Nam nói riêng.
2
CHƯƠNG 1: QUỸ TIỀN TỆ QUỐC TẾ - INTERNATIONAL
MONETARY FUND (IMF)
1.1. LỊCH SỬ RA ĐỜI VÀ HÌNH THÀNH
IMF là tổ chức tiền tệ - tín dụng liên chính phủ. IMF được chính thức
thành lập ngày 27-12-1945 dựa trên cơ sở Nghị quyết của hội nghị quốc tế về
tiền tệ - tài chính của Liên hợp quốc họp tháng 7-1944 tại Bretton Woods
(Mỹ) với đại diện 44 nước tham gia. Từ ngày 1-3-1947 IMF bắt đầu đi vào
hoạt động chính thức. Tổng số hội viên của IMF cho tới nay là 187 nước.
Nguồn vốn hoạt động chủ yếu của quỹ là do các nước thành viên đóng
góp. IMF đã xây dựng một hạn mức cho vay và hạn mức đóng góp với các
nước thành viên. Tiêu chuẩn để xác định mức đóng góp là tiềm năng kinh tế
và vị trí của mỗi nước trong nền kinh tế thế giới. Số phiếu biểu quyết của mỗi
nước tùy thuộc vào mức độ đóng góp của nước đó cho IMF. Các nước thành
viên có cổ phần lớn nhất trong IMF hiện nay là Mỹ, Nhật Bản, Đức, Anh và
Pháp.
1.2. MỤC ĐÍCH VÀ CHỨC NĂNG
Mục đích của IMF: IMF hỗ trợ tín dụng cho các nước thành viên để
triển khai các dự án phát triển kinh tế - xã hội, khắc phục thâm hụt trong cán
cân thanh toán quốc tế, giải quyết các khó khăn tài chính bất thường xảy ra do
ảnh hưởng của thiên nhiên hoặc để ổn định giá những mặt hàng nguyên nhiên

liệu chiến lược và điều chỉnh quan hệ giữa các nước hội viên.
Ba chức năng chính của IMF gồm:
- Giám sát tình hình kinh tế tài chính toàn cầu cũng như của các nước hội viên
và tư vấn cho nước hội viên về chính sách kinh tế.
- Cung cấp hỗ trợ tài chính ngắn và trung hạn cho các nước hội viên gặp phải
những khó khăn tạm thời về cán cân thanh toán.
- Trợ giúp kỹ thuật.
3
CHƯƠNG 2: CÁC CUỘC KHỦNG HOẢNG VÀ CHÍNH
SÁCH CỦA IMF
2.1. KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ ĐÔNG NAM Á (EAST
ASIAN FINANCIAL CRISIS) - 1997
Khủng hoảng tài chính Châu Á là cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu
từ tháng 7-1997 tại Thái Lan rồi đến các thị trường chứng khoán, trung
tâm tiền tệ lớn, và giá cả của những tài sản khác ở vài nước châu Á, nhiều
quốc gia trong đó được coi như là "những con Hổ Đông Á" như Indonesia,
Philippines, Malaysia, Hàn Quốc.
2.1.1 . Diễn biến:
Ngày 2-7-1997, Ngân hàng trung ương Thái Lan tuyên bố thả nổi đồng
Baht và đồng Baht ngay lập tức mất giá gần 50%. Vào tháng 1 năm 1998, nó
đã xuống đến mức 56 baht mới đổi được 1 dollar Mỹ. Chỉ số thị trường chứng
khoán Thái Lan đã tụt từ mức 1.280 cuối năm 1995 xuống còn 372 cuối năm
1997. Đồng thời, mức vốn hóa thị trường vốn giảm từ 141,5 tỷ USD xuống
còn 23,5 tỷ USD. Finance One, công ty tài chính lớn nhất của Thái Lan bị phá
sản.
Ngày 3-7-1997, NHTW Philippines bị buộc phải can thiệp sâu vào thị
trường nhằm bảo vệ đồng peso, tăng mức lãi suất vay qua đêm từ 15% lên
24%. Năm 2000 giá trị đồng peso giảm mạnh, ban đầu 1 USD đổi được 26
peso lên thành 38 và cuối cùng là 40 peso khi kết thúc cuộc khủng hoảng.
Ngày 2-7-1997, đồng Ringgit của Malaysia và thị trường chứng khoán

Kuala Lumpur lập tức bị sức ép giảm giá mạnh. Chỉ trong 12 ngày đầu, Ngân
hàng Nhà nước phải bán 700 triệu USD để giữ tỉ giá. Ngày 11-8-1997,
Malaysia tuyên bố không can thiệp vào thị trường ngoại hối (thực chất là thả
nổi tỉ giá) đã khiến giá trị đồng Ringgit giảm từ mức 3,75 Ringgit/USD xuống
còn 4,20 Ringgit/USD.
Tháng 7-1997, cơ quan tiền tệ của Indonesia mở rộng biên độ giao dịch
tiền tệ rupiah từ 8% lên 12%. Ngày 14-8-1997, Indonesia tuyên bố thả nổi
hoàn toàn đồng Rupiah. Đồng rupiah và thị trường chứng khoán Jakarta chạm
mức thấp trong lịch sử vào tháng 9.
4
Năm 1996, tỷ giá bình quân đồng Won của Hàn Quốc là 884,2
Won/USD thì ngày 30-9-1997 là 914,8 Won/USD, ngày 14-12-1997 đồng
Won được thả nổi.
Có thể nói sự mất giá nhanh với quy mô chưa từng có của những đồng
tiền Thái Lan, Phillippines, Malaysia, Indonesia và Hàn Quốc là biểu hiện dễ
nhận thấy của sự bùng nổ khủng hoảng kinh tế - tài chính ở các nước này.
Năm
Nước
1996 1997
Thái Lan 25.61 47.25
Philippines 26.29 39.50
Malaysia 2.52 3.88
Indonesia 2.308 5.400
Hàn Quốc 844.20 1695.8
Bảng 2.1: Tỷ giá hối đoái bình quân năm 1996 và 1997
(Nguồn: ASEAN University Network(2000), Economic Crisis in Southeast
Asia and Korea, Tradition and Modernity Publisher, Seoul, Korea).
2.1.2. Tác động của cuộc khủng hoảng:
Khủng hoảng đã gây ra sự mất giá nội tệ làm gia tăng nợ nước ngoài
tính bằng ngoại tệ, sụp đổ thị trường chứng khoán, giảm giá tài sản ở một số

nước châu Á. Nhiều doanh nghiệp bị phá sản, đặc biệt là sự phá sản của các
công ty tài chính và hàng loạt các ngân hàng dẫn đến tỉ lệ thất nghiệp gia tăng,
tốc độ tăng trưởng giảm mạnh, lạm phát tăng cao trong thời gian 1997-1998.
Những nước bị ảnh hưởng nặng nề nhất là Indonesia, Hàn Quốc và Thái Lan.
Bảng 2.2: Tốc độ tăng trưởng của các nền kinh tế trước và sau khủng hoảng
(Đv: %)- (Nguồn: ASEAN University Network(2000), Economic Crisis in
Southeast Asia and Korea, Tradition and Modernity Publisher, Seoul, Korea)
5
Theo đánh giá của các chuyên gia, cuộc khủng hoảng đã gây thiệt hại ít
nhất 300 tỷ USD cho các nước châu Á, bằng khoản 20% GDP của các nước
bị khủng hoảng và thiệt hại chung cho nền kinh tế thế giới 500 tỷ USD do các
nhà đầu tư nước ngoài giảm sút niềm tin, vốn FDI đổ vào châu Á giảm dần,
dè dặt và thận trọng hơn trong khi đầu tư tại nơi khác.
2.1.3. Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng:
2.1.3.1. Nguyên nhân bên trong:
- Thực hiện chế độ tỷ giá hối đoái không linh hoạt.
Nhiều nước mới nổi ở châu Á đã gắn đồng tiền của mình với đồng đôla
Mỹ và đồng thời thực hiện chính sách nới lỏng việc kiểm soát trao đổi buôn
bán ngoại tệ bằng cách cho phép người dân trong nước thực hiện các khoản
vay bằng đồng USD Mỹ và người nước ngoài buôn bán đồng nội tệ khá tự do.
Việc này nhằm khuyến khích kinh tế phát triển cao từ khía cạnh tài chính
bằng cách khuyến khích dòng chảy tư bản bên ngoài vào và tạo ra các cơ hội
đầu tư nhiều hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên dòng chảy tư bản
lớn vào khu vực đã tạo ra sự chênh lệch tỷ giá hối đoái. Việc giá các đồng nội
tệ được định giá cao hơn giá trị thực làm cho sức cạnh tranh của các nền kinh
tế này bị suy giảm so với các quốc gia khác đồng thời bị chịu các đợt đầu cơ
vào dự đoán các đồng tiền này sẽ bị giảm giá vào tương lai gần.
- Dựa quá nhiều vào nợ - đặc biệt là nợ ngắn hạn.
Các nước Đông Nam Á là những nước xuất khẩu lớn bao gồm cả hàng
chế tạo và có thể dễ dàng bù đắp cho nợ nước ngoài lớn. Tuy nhiên là chỉ có

thu nhập từ xuất khẩu thì chưa đủ để trả nợ đặc biệt là vào những năm đầu
thập kỷ 90 xuất khẩu của các nước này gặp khó khăn do thị trường đã bão hoà
sức cạnh tranh giảm. Khi dự trữ ngoại tệ không đủ lớn để trả nợ gốc và lãi đến
hạn thì các nước này đã tuyên bố tình trạng khủng hoảng cần sự giúp đỡ quốc
tế.
Nước Tổng số nợ Nợ ngắn hạn (trong
tổng số nợ)
Dự trữ ngoại
hối
Thái Lan 91.7 65 27
Indonesia 137.4 60 16.6
Malaysia 154.4 70 20.4
Hàn Quốc 44.1 55 21.7
Bảng 2.3: Nợ nước ngoài và dự trữ ngoại hối (cuối năm 1997) (Đv: Tỷ USD)
(Nguồn: IMF)
6
- Sự hình thành bong bóng kinh tế.
Trong nền kinh tế nội địa khu vực phi hàng hoá bao gồm các ngành
bất động sản và xây dựng đã dần trở nên có khả năng kiếm đợc nhiều lợi
nhuận so với khu vực kinh doanh hàng hoá cũng chính vì vậy mà các nguồn
lực đã đợc phân bổ nhiều hơn vào khu vực phi hàng hoá này. Trong thời kỳ
này các khoản đầu tư mới và trợ giúp về vốn thường tập trung vào lĩnh vực
bất động sản và các ngành phi kinh doanh hàng hoá khác. Trong khi đó sự
yếu kém về quản lý của các tổ chức tài chính và sự nơi lỏng trong kiểm tra và
giám sát của các tổ chức này đã góp phần vào sự phát triển quá mức của khu
vực phi thương mại. Kết quả là những khoản vốn được tập trung vào lĩnh vực
không sinh lời đã trở thành những khoản nợ khó đòi hoặc không thể đòi được.
Tổng mức nợ khó đòi của các nền kinh tế ASEAN đã lên tới 130 - 140%
GDP. Khi đồng tiền bị phá giá khu vực bất động sản bị sụp xuống thì bản cân
đối của các công ty tài chính các ngân hàng bị phơi ra, vỡ nợ lan nhanh.

- Sự yếu kém của hệ thống tài chính ngân hàng.
Các ngân hàng thuộc các nước ASEAN đã chi và đầu tư mà không tính
đến khả năng cạnh tranh với nước ngoài đã đảm bảo và khích lệ các công ty
trong nước vay không cần giới hạn dùng các quan hệ tín chấp thay cho các
quan hệ thế chấp tài sản quá lạc quan khi đánh giá cao vai trò của các đồng
nội tệ. Mối liên kết chặt chẽ này nhằm vào việc thực hiện các mục tiêu và đề
án phát triển lớn lao do nhà nớc đề ra. Chính sự liên kết này làm cho các thể
chế kiểm soát và đánh giá tài chính nhiều khi không cần thiết hoặc trở nên
mất hiệu lực, thông tin bị nhiễu hoặc không nhiều thì chính quyền cũng bằng
mọi cách vực dậy các doanh nghiệp trên đà phá sản. Do hậu quả của những
yếu kém đó các thể chế tài chính trong nớc phải gánh chịu những rủi ro lớn
tập trung do đầu tư vào những bong bóng kiểu nh bất động sản và những rủi
ro về lãi suất và tỷ giá hối đoái về mặt nghĩa vụ nợ.
2.1.3.2. Nguyên nhân bên ngoài.
- Tự do hoá dòng chảy tư bản.
Di chuyển vốn quốc tế là một trong những nội dung cơ bản của các
giao dịch kinh tế quốc tế tạo nên sự lu động các yếu tố sản xuất và các loại
tiền vốn trên thị trờng thế giới. Từ những năm 80 xu thế toàn cầu hoá thị
trường tiền vốn quốc tế phát triển rất mạnh đã tăng cường ảnh hưởng của lưu
động tiền vốn quốc tế đối với tình hình kinh tế thế giới. Hơn nữa do tiền vốn
ký hiệu ngày càng phát triển đặc biệt loại tiền vốn ngắn hạn quốc tế được gọi
7
là vốn lang thang qúa lớn trong tổng số vốn lưu động trên thị trờng thế giới đã
làm tăng tính biến động của nền kinh tế thế giới. Hiện nay có khoảng 1500 tỷ
USD được gọi là vốn lang thang trên thế giới hình thành lực lượng đầu cơ
mạnh dễ gây nên những biến động tài chính tiền tệ quốc tế. Sự xuất hiện tiền
điện tử tạo điều kiện làm cho tiền và hàng không còn giữ mối quan hệ đáng
phải có, dẫn đến rối loạn hệ thống tài chính tiền tệ. Các dòng chảy tư bản
ngắn hạn đều có đặc điểm chung là có thể biến đổi cả nền kinh tế tức là chúng
tăng mạnh lên khi nền kinh tế đang phát triển và rút đi nhanh chóng khi nền

kinh tế có dấu hiệu bất ổn.
- Đầu cơ quốc tế.
Các đồng tiền của các nước trong khu vực Đông Á đã chịu các đợt tấn
công của các nhà đầu cơ tài chính quốc tế làm đồng tiền mất giá liên tục kể cả
khi ngân hàng trung ương can thiệp lớn cộng với sự giúp đỡ quốc tế. Ngoài ra
còn có các tác động của một số thế lực tài chính phương Tây. Họ muốn làm
giảm giá đồng tiền các nước Đông Á để một là nâng cao giá trị đồng USD để
có lợi về kinh tế cho nước giàu; hai là dễ bề thúc ép các nước này chuyển đổi
cơ cấu kinh tế và cả chính trị.
2.1.4. Tác động của khủng hoảng tiền tệ tới Việt Nam:
- Do ảnh hưởng của khủng hoảng nên lượng đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
vào Việt Nam đã giảm sút nghiêm trọng. Năm 1997, FDI chỉ bằng 70% so với
năm 1996.
- Sự giảm sút của FDI cùng với nguy cơ phá sản đối với các công ty của Việt
Nam do khả năng xuất khẩu giảm hoặc do chi phí đầu vào tăng vì lãi suất vay
vốn tăng và do giá hàng nhập tăng đã tạo ra nguy cơ thất nghiệp tăng ở nước
ta. Chỉ tính trong 3 tháng cuối năm 1997, riêng các xí nghiệp liên doanh ở
thành phố Hồ Chí Minh đã sa thải 4000 công nhân vì họ phải thu hẹp các hoạt
động hoặc bị giải thể do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng. Năm 1997, cả
nước có 47 dự án với nước ngoài bị giải thể, tăng 162% so với năm 1996.
- Do tác động của cuộc khủng hoảng, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đang
ở mức cao trong thời kỳ 1995-1997, thì đến năm 1998 chỉ tăng 5,76%, năm
1999 chỉ tăng 4,77%.
8
2.1.5. Vai trò của IMF trong giải quyết khủng hoảng.
Khi khủng hoảng xảy ra theo hiệu ứng domino giữa các quốc gia Đông
Á, các quốc gia này sau những nỗ lực không thành đã phải cầu cứu tới các tổ
chức kinh tế tài chính trên thế giới, trong đó có IMF.
2.1.5.1. Quan điểm, nhận định của IMF về cuộc khủng hoảng
Theo nhận định của IMF và một số nhà phân tích, cuộc khủng hoảng tài

chính - tiền tệ châu Á thực chất vẫn là do nguyên nhân bên trong mỗi quốc
gia, song tính chất của cuộc khủng hoảng lại mang tính quốc tế sâu sắc, có
sức lan toả rộng rãi.
2.1.5.2. Nội dung chính sách của IMF
Khi xảy ra khủng hoảng, IMF ngay lập tức phản ứng bằng cách đưa ra
hỗ trợ tài chính khẩn cấp cho các quốc gia.
Ngày 11 tháng 8, IMF tuyên bố sẽ cung cấp cho Thái Lan một gói cứu
trợ trị giá 16 tỷ USD cho Thái Lan. Ngày 20 tháng 8, IMF thông qua một gói
cứu trợ nữa trị giá 3,9 tỷ USD.
Năm 1997, Indonesia vay IMF 10 tỷ USD khi cuộc khủng hoảng tài
chính đang hoành hành châu Á. Đổi lại, quốc đảo này cắt giảm chi tiêu, tăng
thuế, đóng cửa một số ngân hàng và thắt chặt chính sách tiền tệ, yếu tố mà
theo IMF sẽ hạn chế sự sa sút của nền kinh tế. Kết quả, kinh tế Indonesia kết
thúc năm 1998 với mức suy giảm lên tới 13%, ngược hẳn với mức dự báo của
IMF tăng trưởng 3%.
IMF đã đưa ra các gói cứu trợ để kéo các quốc gia khỏi lún sâu thêm
vào khủng hoảng và dĩ nhiên kèm theo các gói cứu trợ là các điều kiện cho
vay ngặt nghèo buộc các quốc gia phải thực hiện nếu muốn nhận được khoản
cứu trợ.
Chẳng hạn, chi tiết khoản vay lên tới 57 tỷ USD được IMF công bố vào
ngày 3/12/1997, các bên cam kết góp gồm IMF (21 tỷ USD), World Bank
(10 tỷ USD), ADB (4 tỷ USD), Nhật (10 tỷ USD), Mỹ ( 5 tỷ USD) và Anh,
Đức, Pháp, Ý mỗi nước 1,25 tỷ USD. IMF sẽ cung cấp khoản giải ngân ban
đầu của gói cứu trợ trong khi cam kết của Mỹ và các nước khác là phụ trợ và
được giải ngân khi cần thiết. Mục đích của gói cứu trợ là khôi phục lại nguồn
dự trữ ngoại hối của Hàn Quốc nhằm củng cố lòng tin của các chủ nợ như các
ngân hàng của Nhật Bản và các quỹ đầu tư của Mỹ từ đó họ sẽ giãn nợ đối
9
với các khoản vay ngắn hạn của Hàn Quốc. Bên cạnh đó, để có được khoản
giải ngân ban đầu này thì đi kèm điều kiện với Hàn Quốc đó là phải thực hiện

chính sách kinh tế vĩ mô thắt chặt như tăng thuế, tăng lãi suất, giảm chi tiêu
của chính phủ. Sự kết hợp của tăng thuế và giảm chi tiêu công nhằm mục đích
giảm thâm hụt tài khoản vãng lai và để giành tiền phục vụ tái cơ cấu nền kinh
tế. Tỉ lệ lãi suất cao nhằm khôi phục lòng tin của các nhà đầu tư vào đồng
Won tuy nhiên nó lại làm tăng chi phí các khoản vay và khiến cho tình trạng
của các ngân hàng và chaebol ( tập đoàn kinh tế gia đình trị chủ chốt trong
nền kinh tế Hàn Quốc) thêm tồi tệ hơn. IMF cũng yêu cầu Hàn Quốc phải cải
cách cơ cấu bao gồm:
- Cho phép các nhà đầu tư nước ngoài tự do hơn trong việc mua cổ phần và
nắm tỉ lệ chi phối trong các công ty Hàn Quốc.
- Mở cửa hơn nữa thị trường tài chính nội địa cho các ngân hàng và các công
ty bảo hiểm nước ngoài.
- Yêu cầu các ngân hàng cho vay phải áp dụng các tiêu chuẩn định giá tín
dụng của phương Tây.
- Đóng cửa các ngân hàng vỡ nợ.
- Cải cách bộ luật lao động nhằm làm cho việc sa thải công nhân dễ dàng hơn
và làm cho thị trường lao động thông thoáng hơn.
- Mở cửa thị trường nội địa cho hàng nhập khẩu bằng cách phá bỏ các hàng
rào và giảm thuế.
2.1.5.3. Tác động của chính sách:
+Tích cực:
- Mặc dù tác động bước đầu của chính sách của IMF đối với các quốc
gia được IMF cho vay có thể là việc giảm sâu thêm giá của đồng nội tệ và
cuộc khủng hoảng thêm sâu sắc hơn, song sau đó các nền kinh tế đã lấy lại
được tốc độ tăng trưởng. Biện pháp của IMF đã gây đau đớn cho các nền kinh
tế khi phải từ bỏ lối đi cũ đã giúp họ tăng trưởng cao trong thời kì trước
khủng hoảng, tuy nhiên với cải cách và chấn chỉnh, các quốc gia đã thận trọng
hơn trong tái thiết nền kinh tế.
+Tiêu cực:
10

- IMF đã không dự báo được khủng hoảng.
IMF có một vai trò là dự báo sớm cho nền kinh tế thế , thế nhưng trong
khủng hoảng tiền tệ năm 1997, IMF đã không dự báo trước được nên không
có những biện pháp kịp thời. Hồi tháng 6-1997, IMF còn lên tiếng ca ngợi mô
hình kinh tế của Malaysia và khen chính phủ nước này đã giữ vững được cơ
cấu tài chính trong giai đoạn tăng trưởng nhanh. Một ví dụ khác là ngày
6/4/1998, IMF cho rằng thời điểm tồi tệ nhất của khủng hoảng đã qua nhưng
ngay sau đó đồng tiền của một số nước tiếp tục mất giá và giảm sâu tới mức
kỉ lục.
- IMF đã có những biện pháp sai lầm trong xử lý khủng hoảng.
Thái Lan, Indonesia và Hàn Quốc là 3 quốc gia nhận được Gói cứu trợ
từ IMF. Thế nhưng liều thuốc của IMF với 3 quốc gia này đã đem đến kết quả
rất khác nhau.
Tại Hàn Quốc, là quốc gia thực thi các hướng giải pháp của IMF triệt
để nhất, tiến trình cải cách ở Hàn Quốc có sự lãnh đạo rõ ràng và nhất quán
của người lãnh đạo chính trị cao nhất, có chương trình hành động và áp lực
của Chính phủ, vì vậy cải cách đã diễn ra một cách tương đối khẩn trương và
tiến xa nhất so với các nước trong khu vực.
Trong khi đó ở Indonesia, với việc thực hiện chính sách giảm chi tiêu
chính phủ, tăng thuế, tăng lãi suất theo yêu cầu của IMF mà lạm phát tăng tốc,
chính phủ phải bỏ trợ giá lương thực và xăng dầu khiến giá 2 mặt hàng này
tăng lên nhanh chóng. Tình trạng bạo động để có thể mua hàng đã bùng phát (
riêng ở Jakarta đã có 500 người chết vì bạo động). Indonesia lún sâu vào
khủng hoảng khi tăng trưởng ngành công nghiệp năm 1998 giảm xuống còn
-15,6%; tỉ lệ thất nghiệp ở các đô thị gia tăng từ 5% năm 1997 lên 11% năm
1998, trên cả nước tăng từ 5% lên 7%. Tỉ lệ đói nghèo năm 1998 chiếm 18-
20% dân số tương đương 40 triệu người. Ngày 21-5-1998, Tổng thống
Indonesia Suharto đã phải ra đi sau 30 năm cầm quyền do áp lực từ những bất
ổn về kinh tế xã hội gây ra bởi các điều kiện cho vay khắc nghiệt của IMF.
- IMF hoạt động vì lợi ích của các cường quốc, đặc biệt là Mỹ.

Tại Thái Lan, Hàn Quốc, Indonesia, có thể nhận thấy IMF đưa ra 1
‘liều thuốc chung’ để xử lý khủng hoảng đó là :
11
- Cải tổ khu vực hành chính: Đóng cửa những ngân hàng lỗ lã và cho nước
ngoài mua công ty trong nước.
- Giảm mức tăng trưởng bằng cách cho tăng lãi suất.
- Giảm chi phí bằng cách cắt bỏ những chương trình tốn kém của chính phủ.
- Mở rộng thị trường nội địa.
Điều này đã dẫn đến việc sau khi khủng hoảng kết thúc, các tổ chức tài
chính và các ngân hàng tại các quốc gia châu Á đã có thay đổi về chủ nhân
mà đại đa số đến từ các nước phương Tây. Việc mở rộng thị trường nội địa,
dỡ bỏ dần các hàng rào thuế và phi thuế đã khiến cho hàng hóa của các nước
khác tràn vào và sự tự do hóa dòng chảy tư bản tài chính là điều mà Mỹ rất
quan tâm. Bên cạnh đó, chính trị của các quốc gia cũng bị ảnh hưởng và bị
phụ thuộc vào các cường quốc.
Điều đó giải thích vì sao IMF không đứng ra tổ chức thực hiện việc
hoãn nợ ngắn hạn là một giải pháp tình thế giải quyết nhu cầu về ngoại tệ và
lấy lại lòng tin.
2.2. KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU (GLOBAL
FINANCIAL CRISIS) – 2008
2.2.1. Diễn biến:
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu xuất phát từ Mỹ - một nước có
nền kinh tế chiếm 25% GDP toàn cầu và có một tỷ lệ lớn trong giao dịch quốc
tế - bắt nguồn từ sự tập trung thái quá đầu tư với lãi suất rẻ và cho vay thế
chấp dưới chuẩn vào thị trường bất động dản đồng thời có sự bùng nổ các
công cụ nợ phát sinh trên thị trường này nhằm thu các khoản lợi nhuận cơ hội.
Khi thị trường bất động sản đảo chiều, trì trệ, bất động sản xuống giá, các
khoản nợ đáo hạn mất khả năng thanh toán dẫn đến những đổ vỡ tín dụng dẫn
đến khủng hoảng kinh tế - tài chính.
Bong bóng tài chính và bất động sản cùng với sự giám sát tài chính

thiếu hoàn thiện ở Mỹ đã dẫn tới một cuộc khủng hoảng tài chính ở nước này
năm 2007 và bùng phát mạnh vào cuối năm 2008. Thông qua quan hệ tài
chính nói riêng và kinh tế nói cung mật thiết của Mỹ với nhiều nước trên thế
giới, cuộc khủng hoảng đã lan sang các nước công nghiệp Tây Âu - những
trung tâm tài chính lớn của thế giới và nhanh chóng lan rộng ra toàn cầu.
12
2.2.2. Nguyên nhân:
- Chứng khoán hóa không lành mạnh.
- Vỡ bong bóng nhà đất.
Chứng khoán hóa là một phát minh lớn về công cụ tài chính bao gồm
các sản phẩm như chứng khoán đảm bảo bằng tài sản thế chấp(MBS), giấy nợ
đảm bảo bằng tài sản(COD) và các loại tương tự. Tuy nhiên, vì có ít nhất 4
loại chủ thế kinh tế liên quan đến chứng khoán hóa, sự xuất hiện của bảo
hiểm liên quan tới chứng khoán hóa như hợp đồng hoán đổi tổ chức tín
dụng(CDS), sự ra đời của các thể chế như các thể chế mục đích đặc
biệt(SPV)và những công cụ đầu tư kết cấu(SIV) để mua bán MBS và CDO,
nên đã tồn tại những rủi ro gồm rủi ro đạo đức và lựa chọn trái ý. Trong khi
đó, nước Mỹ trước khủng hoảng không đủ năng lực giám sát các rủi ro này.
Những rủi ro tồn tại cộng với sự cố bong bóng thị trường tài sản xảy ra
thì những rủi ro này làm mất lòng tin của của các bên liên quan. Thêm vào đó,
việc cho vay liên ngân hàng sẽ làm cho những tổn thất tín dụng lây lan ra toàn
hệ thống ngân hàng, mất lòng tin ở người gửi tiền gây ra đột biến rút tiền gửi
càng làm cho tình hình trở lên nghiêm trọng và diễn ra nhanh chóng hơn.
2.2.3. Hậu quả:
2.2.3.1. Đối với Mỹ và thế giới:
Tốc độ tăng trưởng GDP của Mỹ đã suy giảm nhanh chóng và tăng
trưởng âm liên tiếp và quý III và IV năm 2008 chính thức được coi là bước
vào suy thoái.
Biểu đồ 2.4: Tăng trưởng GDP ở Mỹ giai đoạn 2008-2012 (Đv: %)
13

Do tình trạng khó khăn lan rộng, niềm tin của người tiêu dùng hạ
xuống mức thấp và thắt chặt hầu bao khiến sản xuất và tiêu dùng trì trệ, các
doanh nghiệp Mỹ đua nhau cắt giảm nhân công để tiết kiệm chi phí điều đó
làm tỷ lệ thất nghiệp của Mỹ tăng cao từ 5% quý I/2008 lên 10% quý
IV/2009.
Biểu đồ 2.5: Tỷ lệ thất nghiệp của Mỹ giai đoạn 2008-2012 (Đv:%)
Nhiều doanh nghiệp bị phá sản hoặc có nguy cơ phá sản, trong đó có 3
nhà sản xuất ô tô hàng đầu của Hoa Kì là General Motors, Ford Motors và
Chrysler LLC. Các nhà lãnh đạo 3 hãng ô tô này đã nỗ lực vận động Quốc hội
Hoa Kì cứu trợ nhưng không thành công. Ngày 12-12-2008 General Motors
phải tuyên bố tạm đóng cửa 20 nhà máy của hãng này ở khu vực Bắc Mỹ.
Cuộc khủng hoảng còn làm cho dollar Mỹ lên giá. Do dolla Mỹ là
phương tiện thanh toán phổ biến nhất thế giới hiện nay, nên cá nhà đầu tư
toàn cầu đã mua dollar để nâng cao khả năng thanh khoản của mình, đẩy
dollar Mỹ lên giá. Điều này làm cho xuất khẩu Hoa Kì bị thiệt hại: năm 2008
giá đồng USD tăng làm cho nhập khẩu cao hơn nhiều xuất khẩu, cán cân
thương mại ở mức rất thấp.
14
Biểu đồ 2.6: Tình hình xuất, nhập khẩu của Mỹ giai đoạn 2005 – 2011 (Đv:
tỷ USD)
- Đối với thế giới
Mỹ là thị trường nhập khẩu quan trọng của nhiều nước, do đó khi kinh
tế Mỹ suy thoái, xuất khẩu của nhiều nước bị thiệt hại, nhất là cá nước theo
hướng xuất khẩu ở Đông Á. Một số nền kinh tế như Nhật Bản, Đài Loan,
Singapore và Hồng Kông rơi vào suy thoái, cá nền kinh tế khác tang trưởng
chậm lại.
Châu Âu có quan hệ mật thiết với Hoa Kì chịu tác động nghiêm trọng
cả về tài chính lẫn kinh tế, nhiều tổ chức tài chính bị phá sản. Các nước có
nền kinh tế , lớn nhất khu vực như Đức và Ý rơi vào suy thoái, Anh, Pháp,
Tây Ban Nha cùng giảm tăng trưởng. Khu vực đồng Euro chính thức rơi vào

cuộc suy thoái đầu tiên từ khi thành lập.
Nền kinh tế Mỹ latinh bị ảnh hưởng tiêu cực khi dòng vốn ngắn hạn rút
khỏi khu vực và khi giá dầu giảm mạnh. Ecuador tiến đến bờ vực của cuộc
khủng hoảng nợ.
2.2.3.2. Đối với Việt Nam:
- Tác động đối với xuất nhập khẩu:
Qua quan sát diễn biến xuất khẩu có thể thấy thời điểm Việt Nam bắt
đầu chịu tác động của khủng hoảng tháng 8-2008.
15
Tác động của khủng hoảng tài chính đến xuất khẩu là nhanh nhất vì đây
là lĩnh vực nhạy cảm với biến động trên thị trường thế giới. theo thống kê Hải
quan cho thấy, nếu như trong năm 2005-2006 tổng kim ngạch hàng hóa xuất
khẩu của Việt Nam sang thị trường Hoa Kì đạt 5,91 tỷ USD và 7,83 tỷ USD
thì đến năm 2007 tổng giá trị hàng hóa Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ đã
vượt con số 10 tỷ USD. Tổng kim ngạch buôn bán hàng hóa hai chiều trong
năm 2008 đạt 14,5 tỷ USD, tăng 23% so với năm 2007. Sang đến năm 2009,
mặc dù tiếp tục gặp nhiều khó khăn do suy thoái kinh tế nhưng tổng kim
ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường tiêu thụ hàng hóa lớn nhất thế
giới này vẫn đạt được 11,36 tỷ USD, giảm nhẹ 4,3% so với kết quả thực hiện
của một năm trước đó. Hoa Kỳ tiếp tục là thị trường nhập khẩu hàng hoá lớn
nhất của các nhà xuất khẩu Việt Nam.
Biểu đồ 2.7: Thương mại hàng hóa Việt Nam- Hoa Kì (Đv: triệu USD)
Nhập khẩu cũng chịu tác động của khủng hoảng do: Việt Nam phải
nhập từ 70 - 80% nguyên nhiên vật liệu để sản xuất và chế biến hàng xuất
khẩu. Xuất khẩu giảm kéo theo nhập khẩu giảm; suy thoái kinh tế toàn cầu
làm cho giá yếu tố đầu vào như dầu mỏ, các sản phẩm hóa dầu, phôi thép và
thép xây dựng, các thiết bị công nghệ cũng bị giảm mạnh kéo theo kim ngạch
nhập khẩu giảm. Tuy nhiên, nhờ tác động của gói kích thích kinh tế triển khai
từ tháng 02-2009, nhập siêu đã tăng trở lại từ tháng 03-2009. Hệ quả là nhập
siêu của Việt Nam ngày càng nghiêm trọng hơn. Trong bối cảnh khủng hoảng

tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu điều này hoàn toàn không có lợi dù
Việt Nam chủ yếu nhập tư liệu sản xuất vì thâm hụt cán cân thương mại hiện
đang ở mức rất cao, khi các luồng tiền vào để bù đắp đều có khả năng bị cắt
16
giảm thì việc cán cân thương mại tiếp tục thâm hụt có khả năng gây bất ổn
định rất nguy hiểm như tăng nợ và giảm dự trữ ngoại tệ.
- Tác động đối với kiều hối:
Biểu đồ 2.8: Kiều hối trong giai đoạn 1991-2012 (Đv: tỉ USD )
Kiều hối vào năm 2009 giảm, nhiều lao động phải quay trở về nước do
không có việc làm; bản thân thân nhân người Việt ở nước ngoài cũng bị giảm
thu nhập do khủng hoảng tài chính. Hơn nữa, nguồn kiều hối vào ngoài việc
hỗ trợ thân nhân còn đầu tư vào hoạt động sản xuất, chứng khoán và bất động
sản.
- Tác động tới nguồn vốn trực tiếp(FDI)
17
Biểu đồ 2.9: Luồng vốn vào giai đoạn 2000-2011 (Đv: triệu USD)
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Nhờ chính sách lới lỏng các rào cản đầu tư, đẩy mạnh mở rộng thị
trường vốn và tự do hóa thị trường tài chính, luồng vốn vào của Việt Nam
tăng mạnh vào các năm nhất là năm 2007 sau đó do khủng hoảng tài chính
của Mỹ luồng tiền này giảm dần.
Vốn đầu tư gián tiếp(FPI) bắt đầu xuát hiện vào năm 2005 và tăng
mạnh vào năm 2007 khi thị trường chứng khoán bùng nổ, cùng lúc đó Việt
Nam trở thành thành viên của WHO rồi nhanh chóng đảo chiều vào năm 2008
khi bong bóng chứng khoán vỡ và giảm hẳn vào năm 2009. Vốn đầu tư
khác(OI), với phần lớn là tín dụng và tài sản ngân hàng, là dòng vốn đang dần
tỷ trọng cao trong cán cân tài khoản vốn. Luồng vốn vào ồ ạt gây áp lực lên
cung tiền khiến lạm phát tăng. Lượng vốn đầu tư vào ồ ạt cuối năm 2007 và
đầu 2008 dẫn tới tình trạng tỷ giá hối đoái giảm, để ổn định tỷ giá NHNN đã
thực hiên giao dịch can thiệp vào thị trường ngoại hối. hậu quả là lượng tiền

lưu thông trong nền kinh tế tăng nhanh chóng, dẫn đến chỉ số CPI tăng cao
đỉnh điểm là 27,7% vào quý III/2008.
18
Biểu đồ 2.10: Luồng vốn vào và chỉ số CPI theo quý năm 1999-2011 (Đv:
triệu USD) - (Nguồn tổng hợp từ IFS 2012 )
Luồng vốn vào góp phần khiến tăng trưởng quá nóng cho nền kinh tế,
tạo nên bong bóng tài sản và ảnh hưởng tới tính thanh khoản hệ thống. Luồng
vốn vào ồ ạt tiềm ẩn nguy cơ của cuộc khủng hoảng tiền tệ. FPI chỉ mới xuất
hiện nhưng đã cho thấy sự biến động thất thường khi nó liên tục tăng mạnh
năm 2007 đảo chiều nhanh vào năm 2008 trên cán cân thanh toán.
Các nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ 40-50% giá trị giao dịch và và
khoảng 25-30% cổ phiếu trên TTCK Việt Nam đã rút vốn, khủng hoàng tài
chính toàn cầu biểu hiện Vn-Index liên tục dò đáy giảm kỉ lục xuống 252,57
điểm đầu năm 2009. Nền kinh tế đi xuống, lạm phát tăng, ngân hàng thắt chặt
tiền tệ, thâm hụt thương mại nghiêm trọng, dự trữ giảm sút.
Đó là những ảnh hưởng tới Việt Nam trong dài hạn, trong ngắn hạn
ảnh hưởng là không lớn do hệ thống ngân hàng VN chưa có nhiều hoạt động
giao thương trực tiếp với trung tâm tài chính và các luồng tiền chuyển dịch
thế giới.
2.2.4. Chính sách hỗ trợ của IMF trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn
cầu 2008
Ngày 24/10/2008, IMF đã phải can thiệp bằng cách bơm tiền vào
Iceland, họ đã cho Iceland vay một khoản tiền trị giá 2,1 tỷ USD khi hệ thống
ngân hàng của nước này đối mặt với sự sụp đổ. Ban giám đốc IMF ngày 5/11
đã thông qua khoản vay 2,1 tỷ USD dành cho Iceland nhằm giúp hệ thống
ngân hàng đã sụp đổ của quốc gia Bắc Âu này hồi phục, cũng như ổn định
19
nền kinh tế trong bối cảnh nền tài chính toàn cầu đang chao đảo.Theo Giám
đốc điều hành IMF Dominique Strauss-Kahn, Iceland đã cùng lúc thực hiện
một chương trình kinh tế đầy tham vọng vừa để hồi phục niềm tin đối với hệ

thống ngân hàng và ổn định đồng nội tệ thông qua các chính sách kinh tế vĩ
mô mạnh mẽ, vừa để giúp quốc gia này đạt được sự ổn định tài chính trong
trung hạn. Ông cho rằng những chính sách mạnh mẽ của Iceland xứng đáng
nhận được sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế và nêu rõ mục tiêu chính của
khoản cho vay có thời hạn 2 năm này để hỗ trợ những nỗ lực của Iceland
nhằm giảm bớt tác động của cuộc khủng hoảng hiện nay đối với nền kinh tế
nước này. Quyết định trên được đưa ra đồng nghĩa với việc Iceland có thể tiếp
cận ngay lập tức với khoản cho vay đầu tiên trị giá 833 triệu USD. Tuy nhiên,
với việc chấp nhận vay tiền từ IMF, Iceland sẽ không thể nhận sự giúp đỡ từ
các quốc gia Bắc Âu khác.
Ngày 26 tháng 10, năm 2008 IMF đưa ra gói cứu trợ với Ukraina trị giá
16,5 tỷ USD. Ukraina và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đã đạt được thỏa thuận
về khoản tín dụng mới trị giá 5,6 tỷ USD trong gói tín dụng gần 16,5 tỷ USD
mà IMF quyết định dành cho Kiev nhằm hỗ trợ nền kinh tế Ukraine đối phó
với ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế-tài chính toàn cầu. Trang web
của IMF tối 17/4 đã xác nhận về thỏa thuận trên và khẳng định thỏa thuận này
cần phải được Hội đồng quản trị IMF phê chuẩn tại phiên họp vào giữa tháng
5 tới. Nếu được lãnh đạo IMF thông qua, khoản tín dụng 5,6 tỷ USD sẽ được
cấp làm 2 lần, mỗi lần 2,8 tỷ USD. Trước đó, hồi cuối năm 2008, IMFđã cấp
khoản tín dụng trị giá 4,4 tỷ USD cho Ukraine. Phái đoàn IMF đã tới thăm
Ukraine từ ngày 8 đến 17/4 để đánh giá tình hình thực tế ở nước này và đưa ra
khuyến nghị để lãnh đạo IMF quyết định liệu có tiếp tục cấp tín dụng đợt mới
cho Ukraine hay không. Một trong những điều kiện chủ yếu để IMF tiếp tục
cấp tín dụng cho Ukraine là nước này phải đảm bảo việc cải cách hệ thống
kinh tế, tài chính-ngân hàng và mức thâm hụt ngân sách năm 2009 không
vượt quá 4% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của nước này.
Ngày 27 tháng 10 IMF cho Hungary vay khoản tiền trị giá 15,7 tỷ
USD. Ngoài ra, Liên hiệp Châu Âu cho vay 8,1 tỉ USD và Ngân hàng Thế
giới (WB) cho vay thêm 1,3 tỉ USD. Hungary có thể toàn quyền sử dụng
khoản tín dụng đó trong vòng 17 tháng, vào bất cứ thời điểm và mục đích hợp

lý nào.
20
Để hiểu được tầm quan trọng của khoản tín dụng 25,1 tỉ USD này, cần
biết rằng Hungary đã bắt đầu rơi vào cuộc khủng hoảng kinh tế và tài chính từ
hơn 2 năm nay, khi công luận Hungary được biết rằng nội các Xã hội, để
thắng cử, đã đưa ra những số liệu sai trái về tình hình kinh tế nước này, khiến
người dân không biết rằng ngân sách Hungary lúc đó đã thiếu hụt ở mức độ
khủng khiếp và nước Hung có những khoản nợ rất lớn đối với nước ngoài.
Chính giới Hungary cũng như thị trường tài chính nước này đều hy vọng
rằng, khoản tín dụng 21,5 tỉ Euro sẽ giúp Hungary ổn định nền kinh tế, tái
thiết lập niềm tin của người dân và các nhà đầu tư, và dài hạn, hỗ trợ để kinh
tế Hung tăng trưởng. Việc Hungary có toàn quyền sử dụng khoản tín dụng
trên cũng khiến Hungary cảm thấy tự tin hơn, sau khi nước này đã đưa ra
được những biện pháp chấn hưng kinh tế được Quỹ Tiền tệ Quốc tế đánh giá
là “rất tốt”.
Chính phủ Pakistan ngày 15-11 thông báo sẽ nhận khoản vay 7,6 tỷ
USD của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF). Đây cũng là khoản cứu trợ đầu tiên IMF
thực hiện tại châu Á kể từ khi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu lan rộng.
Khoản tín dụng này sẽ được giải ngân trong 23 tháng và từ nay đến
cuối năm, Pakistan sẽ nhận được 4 tỷ USD đầu tiên với lãi suất từ 3,51-
4,51%. "Phao cứu sinh" của IMF sẽ giúp Pakistan khắc phục nguy cơ mất khả
năng thanh toán nợ nước ngoài.
Khủng hoảng tài chính thế giới và những vấn đề trong nước đã ảnh
hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế Pakistan. Dự trữ ngoại tệ giảm từ 16,4 tỷ
USD tháng 10-2007 nay chỉ còn dưới 7 tỷ USD. Theo một báo cáo của IMF
công bố tháng trước, tình hình tài chính tại Pakistan đã "suy yếu đáng kể" do
chính trường thời gian gần đây không ổn định, xung đột bạo lực, giá nhiêu
liệu và lương thực trên thế giới tăng mạnh. Islamabad đã phải sử dụng hầu hết
dự trữ ngoại tệ để trang trải chi phí nhập khẩu, trong khi từ đầu năm đến nay,
đồng nội tệ rupi mất 25% giá trị, thị trường cổ phiếu giảm 35%. Một số

chuyên gia nhận định Pakistan có thể mất khả năng thanh toán nợ nước ngoài
nếu không có những khoản cứu trợ khẩn cấp.
Đối với các nước có thu nhập thấp, IMF đã thực hiện một gói cứu trợ
toàn diện để trợ giúp các nước này trong thời kỳ khủng hoảng. Cụ thể:
Ngay khi cuộc khủng hoảng lan rộng ra trên toàn cầu, Ban điều hành Quỹ
Tiền tệ Quốc tế (IMF) đã thông qua các biện pháp chưa từng có để tăng mạnh
21
các nguồn lực sẵn có cho các nước thu nhập thấp trong cuộc khủng hoảng.
Các nguồn tài nguyên bao gồm từ việc bán vàng của IMF, đẩy mạnh cho vay
ưu đãi của Quỹ lên đến $ 17 tỷ USD cho đến năm 2014, trong đó có tới 8 tỷ
USD trong hai năm 2008- 2009. Ngoài ra, IMF thông báo không thanh toán
lãi suất trên số dư nợ cho vay ưu đãi cho đến cuối năm 2011 cho tất cả các
thành viên có thu nhập thấp. Một tập hợp các công cụ cho vay mới được củng
cố tăng cường trong gói hỗ trợ này.Cụ thể:
IMF tăng cường các nguồn lực ưu đãi: Để đáp ứng với sự gia tăng nhu
cầu tài chính của các nước thu nhập thấp trong cuộc khủng hoảng tài chính
toàn cầu, IMF tăng cho vay ưu đãi đáng kể từ 1,2 tỷ USD trong năm 2008 đến
3,8 tỷ USD năm 2009, và trung bình hàng năm 2,0 tỷ đô la Mỹ trong thời gian
2010-2012.
Lãi suất cứu trợ, IMF thông báo các nước có thu nhập thấp không phải
thanh toán lãi suất trên số dư nợ cho vay ưu đãi của mỗi nước cho đến cuối
năm 2011 để giúp các nước vượt qua khủng hoảng. Một tập hợp các công cụ
tài chính mới phù hợp với nhu cầu đa dạng của các nước thu nhập thấp hơn và
phù hợp để đáp ứng những thách thức của cuộc khủng hoảng:
- Cơ sở tín dụng mở rộng (ECF) : để cung cấp linh hoạt hỗ trợ trung hạn;
- Quỹ tín dụng dự phòng: để giải quyết nhu cầu ngắn hạn và phòng ngừa;
- Cơ sở tín dụng nhanh, cung cấp hỗ trợ khẩn cấp với điều kiện hạn chế.
Ngoài ra, Ban điều hành của IMF trong thời gian này đã ủng hộ đề nghị
của Giám đốc điều hành cho một phân bổ SDR mới là $ 250 tỷ đồng, trong đó
hơn $ 18 tỷ đồng sẽ góp phần tăng cường dự trữ ngoại hối của các nước thu

nhập thấp.
Các điều kiện được linh hoạt hơn: Năm 2009, IMF đã công bố các điều
kiện linh hoạt hơn trong các chương trình được hỗ trợ cho các nước có thu
nhập thấp: điều kiện cải cách cơ cấu đã được sắp xếp hợp lý cho tất cả các
chương trình hỗ trợ của Quỹ và bổ sung các điều kiện trong các chương trình
trung hạn cho các quốc gia có thu nhập thấp. Chương trình của IMF hỗ trợ đã
bù đắp được những thâm hụt tài chính lớn trong cuộc khủng hoảng ở hầu hết
các nước thu nhập thấp.
22
2.2.5. Đánh giá vai trò của IMF trong cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới
2008
Tuy có nhiều ý kiến trái chiều nghi ngờ về vai trò của IMF trong cuộc
khủng hoảng kinh tế thế giới 2008-2009 vì không dự báo được những rủi ro
kinh tế tiềm ẩn trước đó nhưng cũng không thể phủ nhận vai trò vô cùng quan
trọng của IMF trong cuộc khủng hoảng này. Nhờ các gói cứu trợ của IMF mà
các nước đặc biệt là những có thu nhập thấp có thể hồi phục được sau những
cú sốc kinh tế. Những tác động tích cực của IMF trong cuộc khủng hoảng
2008-2009 có thể nhìn thấy rõ ở những khía cạnh sau:
Các khoản trợ giúp tài chính của IMF có tác dụng ngăn chặn sự lao dốc
của nhiều nền kinh tế trên thế giới. Hệ thống ngân hàng của Iceland đã thoát
khỏi nguy cơ sụp đổ khi có được gói trợ giúp của IMF, các nước có thu nhập
thấp có điều kiện để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Đến năm 2010, nền kinh tế
thế giới đã có sự phục hồi nhất định, tốc độ tăng trưởng của các nước có thu
nhập thấp và những nước chậm phát triển ở khoảng 6.3%.
IMF đã đề ra được những biện pháp khắc phục phù hợp để đạt được sự
phát triển bền vững trong tương lai.
Trong cuộc khủng hoảng 2008, IMF còn có vai trò giám sát, chấn chỉnh
hệ thống tài chính ngân hàng các nước làm tăng hiệu quả hoạt động của hệ
thống ngân hàng.
2.3. CUỘC KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG CHÂU ÂU (EUROPEAN

SOVEREIGN DEBT CRISIS) - 2009
2.3.1. Diễn biến cuộc khủng hoảng
Cuộc khủng hoảng này nổ ra tại Hy Lạp và có nguy cơ trở thành kíp nổ
của toàn bộ hệ thống tài chính, tiền tệ Châu Âu và thậm chí toàn cầu. Nêu Hy
lạp rơi vào tình trạng vỡ nợ quốc gia, những nước khác như Bồ Đào Nha,
Itallia, Ireland và Tây Ban Nha cũng sẽ cùng chung số phận bởi tỷ lệ nợ của
các nước này cao hơn rất nhiều so với mức quy định chung của EU.
2.3.2. Chính sách của IMF
Trước tình hình nguy hiểm như vậy, để tránh bị vỡ nợ, chính phủ các
nước này đã cầu cứu đến sự giúp đỡ của EU và IMF. Trên thực tế, Ngân hàng
Trung ương Châu Âu (ECB) và IMF đã cùng với các nước thành viên
Eurozone đưa ra gói cứu trợ trị giá 110 tỉ Euro (lần 1) và 158,6 tỉ Euro (lần 2)

×