Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Phép biện chứng duy tâm Hégel và vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Marx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (302.76 KB, 15 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH

TP.HCM, THÁNG 12/2012
Giảng viên phụ trách: TS. BÙI VĂN MƯA
Thực hiện: STT : 83
Nhóm 01
Lớp Đêm 1
Khóa 22
Học Viên : Nguyễn Thị Đăng Sinh 7701220967
Giảng viên phụ trách: TS. BÙI VĂN MƯA
Thực hiện: STT : 83
Nhóm 01
Lớp Đêm 1
Khóa 22
Học Viên : Nguyễn Thị Đăng Sinh 7701220967
Giảng viên : TS. Bùi Văn Mưa Học viên : Nguyễn Thị Đăng Sinh
LỜI MỞ ĐẦU
Friedrich Hégel (1770-1831) là một nhà triết học – một trong những bộ óc bách khoa
toàn thư vĩ đại nhất trong lịch sử triết học của nhân loại – đã xây dựng hệ thống triết học
duy tâm khách quan biện chứng nổi tiếng.
Không chỉ là đại biểu tiêu biểu của nền triết học cổ điển Đức mà Hégel đã đem lại cho
triết học địa vị vốn có và sứ mệnh cao cả của nó trong đời sống tinh thần nhân loại. Với
những luận cứ sâu sắc và có cơ sở khoa học, Hégel đã làm sáng tỏ đối tượng, chức năng
và phương pháp của triết học, mối quan hệ của triết học với các khoa học khác và qua
đó, trình bày một cách khúc chiết, đúng đắn bản chất của triết học.
Phép biện chứng của Hégel là tuyệt vời. Những quy luật phủ định của phủ định, lượng
chất hay quy luật mâu thuẫn, người khái quát nên đầu tiên chính là Hégel. Không có phép
biện chứng của Hégel thì không có phép biện chứng của Marx và Engels vào giữa thế kỷ
XIX.


Sự ra đời của triết học Marx là tổng hợp biện chứng của toàn bộ quá trình phát triển của
tư tưởng triết học của nhân loại.
Bài tiểu luận : Phép biện chứng duy tâm Hégel và vai trò của nó đối với sự ra đời của
triết học Marx bao gồm các phần sau :
1. Phép biện chứng duy tâm Hégel.
2. Mâu thuẫn giữa duy tâm thần bí và biện chứng – Marx tách biện chứng ra khỏi
duy tâm.
3. Vai trò của phép biện chứng duy tâm đối với sự ra đời của triết học Marx
1. PHÉP BIỆN CHỨNG DUY TÂM HÉGEL
Phép biện chứng duy tâm thể hiện trong nền triết học cổ điển Đức; nó được hình thành từ
trong triết học của Căntơ; trải qua triết học của Phíchtơ và triết học của Selinh, sau cùng
2
Giảng viên : TS. Bùi Văn Mưa Học viên : Nguyễn Thị Đăng Sinh
nó được hoàn thiện trong triết học của Hégel. Trong triết học của Hégel chứa đựng tư
tưởng biện chứng về mối liên hệ phổ biến và về sự phát triển của cái tinh thần.
Hégel đã để lại cho nhân loại một di sản triết học đồ sộ và rất giá trị. Các tác phẩm chính
của Ông là Hiện tượng luận tinh thần, nêu lên những nền tảng của một triết học mới; còn
trong bách khoa toàn thư các khoa học triết học (gồm 3 quyển : Khoa học lôgích, Triết
học tự nhiên và Triết học tinh thần)
1.1. BIỆN CHỨNG :
Phép biện chứng là một phương pháp triết học đòi hỏi phải xem xét sự vật, hiện tượng
trong sự liên hệ, ràng buộc lẫn nhau, luôn vận động, phát triển. Phép biện chứng còn là
một lý luận triết học bàn về mối liên hệ và sự vận động, phát triển của vạn vật xảy ra
trong thế giới.
Phép biện chứng Hégel là hệ thống lý luận về quá trình tự vận động, phát triển của ý
niệm tuyệt đối, nó bao gồm : Một là, lý luận về tồn tại (cái bên ngoài, trực tiếp của ý
niệm tuyệt đối, có thể nhận biết bằng cảm tính) thể hiện qua các phạm trù: chất, lượng,
độ; Hai là, lý luận về bản chất (cái bên trong, gián tiếp, đầy sự đối lập, mâu thuẩn của ý
niệm tuyệt đối, chỉ nhận biết bằng lý tính) thể hiện qua các phạm trù : hiện tượng – bản
chất, ngẫu nhiên – tất nhiên, nội dung – hình thức, ; Ba là, lý luận về khái niệm (sự thống

nhất giữa tồn tại và bản chất) thể hiện qua các phạm trù : cái đơn nhất – cái đặc thù – cái
phổ biến, cái trừu tượng – cái cụ thể,
Phép biện chứng là linh hồn sống động của hệ thống triết học Hégel. Với tư tưởng về mối
liên hệ phổ biến (mọi cái đều là hiện thân, là các giai đoạn khác nhau nhưng liên hệ lẫn
nhau của ý niệm tuyệt đối) là những tư tưởng cơ bản xuyên suốt, là mạch suối ngầm thấm
chảy qua toàn bộ hệ thống của Hégel.
Phát triển là một quá trình thay đổi từ thấp đến cao, bằng cách chuyển hóa qua lại giữa
lượng và chất, do sự giải quyết những mâu thuẩn nội tại trong các hình thức cụ thể của ý
niệm tuyệt đối tạo nên. Trên cơ sở mổ xẻ quá trình tự vận động của ý niệm tuyệt đối,
Hégel đã phát hiện ra các quy luật cơ bản của phép biện chứng và các quy luật không cơ
bản – các cặp phạm trù.
Phép biện chứng là một khoa học triết học, vì vậy nó cũng phát triển từ thấp tới cao. Biện
3
Giảng viên : TS. Bùi Văn Mưa Học viên : Nguyễn Thị Đăng Sinh
chứng là một lý thuyết cho rằng một cái gì đó - cụ thể hơn, tư duy con người – phát triển
theo một cách thức được đặc trưng bởi cái gọi là ba đoạn biện chứng:
Chính đề: đầu tiên có một ý tưởng, hoặc một lý thuyết, hoặc một xu hướng vận động nào
đó được gọi là một “chính đề”; một chính đề như thế thường sẽ tạo ra cái đối lập, do là,
giống như hầu hết các sự vật tồn tại trên trời đất, có lẽ nó sẽ có giá trị hạn chế và sẽ có
các điểm yếu;
Phản đề: ý tưởng hoặc xu hướng vận động đối lập được gọi là “phản đề”, bởi vì nó nhằm
phản lại cái trước tiên, tức chính đề. Cuộc tranh đấu giữa chính đề và phản đề diễn ra cho
tới khi đạt được một giải pháp nào đó mà, theo một nghĩa nhất định, vượt lên trên cả
chính đề và phản đề do nó phát hiện ra được các giá trị riêng của chúng và do nó cố gằng
bảo tồn các tinh hoa và tránh các hạn chế của cả hai;
và Hợp đề: giải pháp đạt được ở bước thứ ba này được gọi là “hợp đề”. Đến khi đạt
được, hợp đề đến lượt nó có thể lại trở thành bước thứ nhất trong một của ba đoạn biện
chứng mới khác, và quá trình sẽ lại tiếp diễn như thế nếu hợp đề cụ thể vừa đạt được lại
trở nên thiếu thuyết phục, hoặc trở nên không thỏa mãn. Trong trường hợp này, mặt đối
lập sẽ lại nổi lên, và điều này có nghĩa là cái hợp đề vừa đạt được có thể được mô tả như

là một chính đề mới, cái chính đề tạo ra được một phản đề mới. Do đó, ba đoạn biện
chứng sẽ lại diễn ra ở một trình độ cao hơn, và nó có thể đạt tới cấp độ thứ ba khi một
hợp đề thứ hai đạt được.
1.2 DUY TÂM
Hégel là nhà triết học duy tâm theo trường phái chủ nghĩa duy tâm khách quan, hay chủ
nghĩa duy tâm tuyệt đối. Như Lênin nhận xét, Hégel tin tưởng và nghĩ một cách nghiêm
túc rằng chỉ có chủ nghĩa duy tâm mới là triết học, bởi vì triết học là khoa học về tư duy,
cái chung, mà cái chung tức là tư tưởng. Ông cho rằng, cơ sở của hết thảy mọi sự vật tồn
tại, cái bản chất sâu sắc nhất của thế giới không phải là ý thức cá nhân, là "cái tôi" chủ
quan, mà là một ý thức nói chung nào đó rất "khách quan", tồn tại độc lập với con người,
có trước tự nhiên và có trước loài người, luôn luôn vận động và biến đổi được ông gọi là
"ý niệm tuyệt đối". Có thể nói, toàn bộ triết học của Hégel xoay quanh phạm trù ý niệm
tuyệt đối và sự vận động của ý niệm tuyệt đối trong hệ thống triết học đồ sộ của ông
4
Giảng viên : TS. Bùi Văn Mưa Học viên : Nguyễn Thị Đăng Sinh
được trình bày theo kiểu "suy lý ba bước" (tam đoạn luận).
Tính duy tâm trong triết học Hégel thể hiện rõ trong tác phẩm “Hiện tượng luận tinh
thần”, với bốn nền tảng triết học mới :
Một là, thừa nhận tồn tại ý niệm tuyệt đối : Theo Hégel, ý niệm tuyệt đối chứ không phải
cái tuyệt đối (Senlinh) là nền tảng của hiện thực. Ý niệm tuyệt đối là sự hợp nhất giữa
thực thể - giới tự nhiên (Xpinôda) và cái tôi tuyệt đối (Phíchtơ), là sự đồng nhất giữa tư
duy và tồn tại, giữa tinh thần và vật chất, là đấng tối cao sáng tạo ra giới tự nhiên, con
người và lịch sử nhân loại. Con người chỉ là một sản phẩm của quá trình vận động phát
triển tự thân của ý niệm tuyệt đối. Hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới của con người,
tức lịch sử nhân loại, chỉ là giai đoạn phát triển cao của ý niệm tuyệt đối, là công cụ để nó
nhận thức chính bản thân mình và quay trở về với chính mình. Theo Hégel, tư duy lôgích
chứ không phải trực giác nghệ thuật (Senlinh), là hình thức thể hiện cao nhất của ý niệm
tuyệt đối.
Hai là, thừa nhận sự phát triển của ý niệm tuyệt đối: phát triển được Hégel hiểu theo một
chuỗi các hành động phủ định biện chứng, trong đó cái mới liên tục thay thế cái cũ,

nhưng đồng thời kế thừa những yếu tố hợp lý của cái cũ. Quá trình phát triển của ý niệm
tuyệt đối diễn ra theo tam đoạn thức “chính đề - phản đề - hợp đề”. Đó cũng là quá trình
phát sinh và giải quyết mâu thuẩn giữa cái vật chất và cái tinh thần, giữa khách thể và
chủ thể… trong bản thân ý niệm tuyệt đối.
Ba là, thừa nhận ý thức con người là sản phẩm của lịch sử : Hégel coi lịch sử là hiện thân
của ý niệm tuyệt đối, là đỉnh cao của sự phát triển ý niệm tuyệt đối trên trần gian. Lịch sử
nhân loại có được nhờ vào hoạt động có ý thức của những cá nhân cụ thể, nhưng nó lại là
nền tảng quy định ý thức của mỗi cá nhân. Ý thức cá nhân chỉ là sự khái quát, sự “đi tắt”
toàn bộ lịch sử mà ý thức nhân loại đã trải qua. Ý thức nhân loại là sự tái hiện lại toàn bộ
tiến trình của lịch sử nhân loại, là sản phẩm của lịch sử, là hiện thân của ý niệm tuyệt đối.
Bốn là, triết học là học thuyết về ý niệm tuyệt đối : Hégel thừa nhận có ba hình thức thể
hiện ý niệm tuyệt đối trên trần gian là nghệ thuật, tôn giáo và triết học, trong đó, triết học
là hình thức cao nhất, trọn vẹn và đầy đủ nhất ý niệm tuyệt đối. Theo Hégel triết học là
khoa học của mọi khoa học, là khoa học vạn năng đóng vai trò là nền tảng cho toàn bộ
5
Giảng viên : TS. Bùi Văn Mưa Học viên : Nguyễn Thị Đăng Sinh
thế giới quan và tư tưởng con người. Nhưng mỗi thời đại lại có một học thuyết triết học
của riêng mình. Học thuyết này là tinh hoa tinh thần của thời đại đó, là thời đại được thể
hiện dưới dạng tư tưởng. Mỗi hệ thống triết học của một thời đại nào đó đều là sự chắt
lọc, kết tinh, khái quát lại toàn bộ lịch sử tư tưởng trước đó, đặc biệt là tư tưởng triết học.
Triết học và lịch sử triết học thống nhất với nhau như là sự thống nhất giữa các logic và
cái lịch sử; vì vậy, triết học phải bao trùm toàn bộ lịch sử phát triển của ý niệm tuyệt đối.
Theo quan điểm này thì triết học Hégel – khoa học về ý niệm tuyệt đối – được chia thành
ba bộ phận là khoa học logic, triết học tự nhiên, triết học tinh thần; ứng với ba giai đoạn
phát triển của ý niệm tuyệt đối là ý niệm tuyệt đối trong chính nó, ý niệm tuyệt đối trong
sự tồn tại khác của nó (tự tha hóa), ý niệm tuyệt đối khắc phục sự tha hóa quay về với nó.
Khoa học logic : là tác phẩm quan trọng nhất của Hệ thống triết học Hégel, khoa học
logic nghiên cứu ý niệm tuyệt đối ở giai đoạn sơ khai, nhưng lại là xuất phát điểm của hệ
thống. Khi vạch ra những hạn chế của logic học cũ là chỉ nghiên cứu tư duy chủ quan
trong phạm vi ý thức cá nhân mà không chỉ ra được ranh giới giữa logic học với các

ngành khoa học khác cùng nghiên cứu tư duy, là chỉ dựa trên những phạm trù bất động,
tách rời hình thức ra khỏi nội dung của nó…., Hégel khởi thảo một logic học mới giúp
vạch ra bản chất đích thực của tư duy, và đóng vai trò như một phương pháp luận triết
học làm cơ sở cho mọi khoa học.
2. TÁCH BIỆN CHỨNG RA KHỎI DUY TÂM – MARX
Theo Hégel triết học là khoa học của tất cả mọi khoa học. Quan niệm này ra đời trong
thời buổi nhận thức con người chưa cao nên triết học là một lý luận mang tính phổ quát,
bao trùm thậm chí là duy nhất. Hégel muốn xây dựng triết học mang tính vạn năng, đóng
vai trò nền tảng cho tất cả các ngành khoa học, nghĩa là toàn bộ khoa học cụ thể phải nằm
trong triết học. Các nhà triết học là các nhà thông thái, không chỉ am hiểu một lĩnh vực
mà am hiểu mọi lĩnh vực khác nhau của nhận thức. Quan điểm này là sai lầm và đến giữa
thế kỷ XIX Marx và Engels mới xóa bỏ quan điểm này, chỉ ra rằng triết học là ngành
khoa học độc lập, một cách hiểu mới về vai trò của triết học với khoa học cụ thể.
Theo Hegel, triết học là sự thể hiện thời đại của mình ở dạng tinh thần và là tinh hoa của
thời đại. Ông đặt biệt đề cao vai trò của triết học theo nghĩa rộng. Từ đó khẳng định hệ
6
Giảng viên : TS. Bùi Văn Mưa Học viên : Nguyễn Thị Đăng Sinh
thống triết học cuối cùng trong lịch sử là kết quả của toàn bộ hệ thống triết học trước đó,
đồng thời tuyên bố triết học của Hégel là cuối cùng trong lịch sử. Chính quan điểm này
mâu thuẫn với phép biện chứng của Hégel. Vì nếu là biện chứng thì không thể cuối cùng
được, không tìm ra nguyên nhân đầu tiên và kết quả cuối cùng. Sau đó triết học của Marx
và Engels ra đời đã phủ định triết học của Hégel.
Hegel đồng nhất khoa học logic với logic học duy tâm. Chính trong khoa học logic cũng
như logic học, Hegel đã trình bày một cách đầy đủ và sâu sắc phép biện chứng trên cơ sở
duy tâm. Theo Marx, phép biện chứng của Hegel là sự trừu tượng của vận động, trừu
tượng của phát triển của thế giới hiện thực khách quan. Lần đầu tiên trong lịch sử triết
học, Hegel đã tạo ra được một lý luận biện chứng phát triển với tư cách logic học và là
phương pháp. Ông đã kết hợp phép biện chứng và logic học thành một quan niệm thống
nhất về logic biện chứng. Phép biện chứng là linh hồn của logic học, nhờ đó khoa học
logic trở thành một cơ thể sống chứ không phải là những phạm trù khô cứng như logic

học trước đây. Công lao của Hegel so với những bậc tiền bối chính là ở chỗ ông đã đưa
ra được một sự phân tích biện chứng, khái quát tất cả những phạm trù quan trọng nhất
của triết học và đã hình thành nên ba quy luật cơ bản của tư duy trên cơ sở duy tâm.
Không nghi ngờ gì nữa có thể khẳng định rằng : “Tính chất thần bí mà phép biện chứng
đã mắc phải ở trong tay Hegel tuyệt nhiên không ngăn cản Hegel trở thành người đầu tiên
trình bày một cách bao quát và có ý thức hình thái vận dụng chung của phép biện chứng
đó.” Và sau này Marx và Engels đã cải tạo lại phép biện chứng duy tâm của Hegel và
sáng lập ra biện chứng duy vật.
Theo Hegel nhà nước là hiện thân của ý niệm tuyệt đối. Nó ra đời nhằm duy trì, bảo tồn
các gia đình, xã hội và công dân. Nhà nước ra đời từ những mâu thuẫn trong xã hội nhằm
điều hòa mâu thuẩn giữa các giai cấp, đẳng cấp khác nhau. Bản chất của nhà nước là tổng
thể các quy chế, kỷ cương về chính trị, văn hóa, pháp luật, Đây chính là quan niệm duy
tâm của Hegel về nhà nước đã ảnh hưởng trực tiếp đến quan điểm của Marx. Năm 1841,
lúc bảo vệ luận án tiến sỹ của mình, Marx đã chuyển đổi quan điểm này của Hegel.
Đến nữa đầu thế kỷ XIX, Hegel là người đầu tiên đã khái quát được đầy đủ phép biện
chứng dưới dạng nguyên lý, quy luật, phạm trù. Toàn bộ hai nguyên lý, ba quy luật và
7
Giảng viên : TS. Bùi Văn Mưa Học viên : Nguyễn Thị Đăng Sinh
sáu phạm trù chính Marx đã kế thừa của Hegel. Đây cũng là quan điểm của triết học
Marx về sau này.
Ví dụ :- Nguyên tử vận động vì nguyên tử là thể thống nhất của những mặt đối lập trong
lòng nó, hạt nhân mang điện tích âm dương.
-Cơ thể sống vận động biến đổi vì cơ thể sống là thể thống nhất những mặt đối lập
trong lòng nó, đó là đồng hóa, dị hóa, biến dị, di truyền, hấp thụ, bài tiết.
Nói đến phép biện chứng của Marx và Engels không thể không nói đến phép biện chứng
của Hegel, Marx và Engels đánh giá cao Hegel và không phải ngẫu nhiên mà Marx và
Engel thừa nhận Hegel là người thầy vĩ đại của mình. Không có phép biện chứng của
Hegel thì không có phép biện chứng của Marx và Engel giữa thế kỷ XIX.
Tuy có những nhược điểm và mâu thuẩn giữa phép biện chứng có tính cách mạng với hệ
thống duy tâm có tính chất bảo thủ nhưng triết học của Hegel thực sự là một hệ thống đồ

sộ, kỳ vĩ nhất trong lịch sử trước Marx nói chung và trong triết học cổ điển Đức nói
riêng.
3. VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC HEGEL - SỰ RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC MARX
3.1 ĐIỀU KIỆN KINH TẾ - XÃ HỘI
Đến giữa thế kỹ XIX, chủ nghĩa tư bản đã phát triển mạnh ở các nước Tây Âu. Phương
thức tư bản chủ nghĩa ngày càng tỏ ra ưu việt hơn so với các chế độ xã hội khác trong
lịch sử. Những quốc gia tư bản hùng mạnh như Anh, Pháp,… không chỉ trở thành ngọn
cờ đầu mà còn là động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở Châu
Âu, đặc biệt là Tây Âu, đã trở thành trung tâm của sự phát triển lực lượng sản xuất tư bản
chủ nghĩa, và sự phát triển lực lượng sản xuất tạo ra cơ sở kinh tế cho sự phát triển về
mọi mặt trong đời sống xã hội.
Chủ nghĩa tư bản càng phát triển càng sản sinh ra trong lòng nó một lực lượng đối lập là
giai cấp vô sản công nghiệp, hiện đại có vai trò to lớn đối với sự tồn tại và phát triển của
chủ nghĩa tư bản. Sự ra đời của giai cấp vô sản công nghiệp đã tạo ra một quan hệ đối lập
ngày càng gay gắt với giai cấp tư sản. Quan hệ này là sự biểu hiện của mâu thuẩn về mặt
kinh tế giữa trình độ phát triển cao và tính chất xã hội hóa của lực lượng sản xuất với sự
8
Giảng viên : TS. Bùi Văn Mưa Học viên : Nguyễn Thị Đăng Sinh
chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Vì vậy, trong Tuyên ngôn của
Đảng Cộng Sản, Marx và Engels đã viết : “Những vũ khí mà giai cấp tư sản đã dùng để
đánh đổ chế độ phong kiến thì ngày nay quay lại đập vào chính ngay giai cấp tư sản.
Nhưng giai cấp tư sản không những đã rèn những vũ khí sẽ giết mình; nó còn tạo ra
những người sử dụng vũ khí ấy chống lại nó, đó là những người công nhân hiện đại,
những người vô sản”.
Lúc bấy giờ ở Tây Âu, phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản đã phát triển ngày càng
mạnh mẽ và rộng lớn. Để cuộc đấu tranh giai cấp thắng lợi cần phải có một lý luận khoa
học dẫn đường đưa giai cấp công nhân đi từ đấu tranh tự phát tới đấu tranh tự giác. Lúc
bấy giờ lý luận về chủ nghĩa xã hội không tưởng của XanhXiMông, Phuriê, Ôoen,
không đáp ứng được yêu cầu, lợi ích và sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản. Do đó triết
học Marx phải ra đời để đáp ứng được nhu cầu là vũ khí tinh thần của giai cấp vô sản. Và

giai cấp vô sản đóng vai trò là vũ khí vật chất của triết học Marx. Hơn nữa chỉ có triết
học Marx mới có khả năng cải tạo chủ nghĩa xã hội không tưởng thành chủ nghĩa xã hội
khoa học.
3.2 TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN
Sự ra đời của triết học Marx là tổng hợp biện chứng của toàn bộ quá trình phát triển của
tư tưởng triết học của nhân loại. Nó là hình thức phát triển cao nhất của chủ nghĩa duy
vật và của phép biện chứng. Đó là kết quả của sự phát triển của triết học duy vật trong
cuộc đấu tranh với chủ nghĩa duy tâm, đồng thời cũng là kết quả của sự phát triển của
phép biện chứng trong cuộc đấu tranh với phép siêu hình, trong lịch sử triết học. Tuy
nhiên, cần phải khẳng định rằng tiền đề lý luận trực tiếp cho sự ra đời của triết học Marx
là triết học cổ điển Đức, mà tiêu biểu là triết học Hégel và triết học Phoiơbắc.
Khi xây dựng hệ thống triết học duy tâm khách quan-đỉnh cao của nền triết học cổ điển
Đức, Hégel đã trình bày đầy đủ và chặc chẽ hệ thống các tư tưởng biện chứng theo tinh
thần duy tâm. Xuất phát từ quá trình vận động phát triển của “ý niệm tuyệt đối”, Hégel đã
triển khai những quy luật và các phạm trù của phép biện chứng. Marx và Engels đã triệt
để phê phán tính chất duy tâm, thần bí trong triết học Hégel, nhưng đồng thời cũng đánh
giá cao tư tưởng biện chứng của ông. “Tính chất thần bí mà phép biện chứng đã mắc phải
9
Giảng viên : TS. Bùi Văn Mưa Học viên : Nguyễn Thị Đăng Sinh
trong tay Hégel tuyệt nhiên không ngăn cản Hégel trở thành người đầu tiên trình bày một
cách bao quát và có ý thức những hình thái vận động chung của phép biện chứng. Ở
Hégel, phép biện chứng bị lộn ngược đầu xuống đất. Chỉ cần dựng nó lại là sẽ phát hiện
được cái hạt nhân hợp lý của nó ở đằng sau cái vỏ thần bí của nó”. Bằng thiên tài của
mình, Marx và Engels đã cải tạo triệt để phép biện chứng duy tâm thành phép biện chứng
duy vật để nó đóng vai trò công cụ tinh thần nhận thức các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư
duy con người.
Xuất phát từ giới tự nhiên vật chất, Phoiơbắc tìm hiểu các vấn đề về con người và xây
dựng nên chủ nghĩa duy vật nhân bản. Ông coi con người, - với tư cách là thực thể của
thế giới tự nhiên, - là đối tượng nghiên cứu của triết học. Ông đối lập chủ nghĩa duy vật
nhân bản của mình với triết học duy tâm biện chứng của Hégel trên cả hai bình diện là

bản thể luận và nhận thức luận, đồng thời đòi vứt bỏ chủ nghĩa duy tâm và cả phép biện
chứng của Hégel Marx và Engels đã đánh giá cao chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc,
nhưng đồng thời cũng phê phán tư duy siêu hình, duy tâm về lịch sử của ông. Chính
Marx và Engels là những người đã nhận thức một cách chính xác những thành tựu và hạn
chế của triết học Phoi ơ bắc, và dựa trên hệ thống triết học này để xây dựng thế giới quan
duy vật biện chứng của mình.
Sự ra đời của triết học Marx còn xuất phát từ những giá trị mà nhân loại đạt được trong
lĩnh vực kinh tế chính trị học Anh (đại biểu là A.Xmit và Đ.Ricácđô), chủ nghĩa xã hội
không tưởng Pháp và Anh (đại biểu là Xanh Ximông, S.Phuriê, R.Ôoen). Nhờ những giá
trị tư tưởng trong lĩnh vực này mà Marx và Engels thấy rõ nền tảng vật chất của sự phát
triển lịch sử xã hội, sáng tạo nên quan điểm duy vật về lịch sử và dự báo về chủ nghĩa xã
hội hiện thực trong tương lai.
3.3 TIỀN ĐỀ KHOA HỌC TỰ NHIÊN
Vào giữa thế kỷ XIX, con người đã đạt được những thành tựu nổi bật về khoa học tự
nhiên.
10
Giảng viên : TS. Bùi Văn Mưa Học viên : Nguyễn Thị Đăng Sinh
Những năm 40 của thế kỷ XIX, R.Maye và P.P Giulơ đã phát hiện ra định luật bảo toàn
và chuyển hóa năng lượng, cho phép khẳng định: năng lượng không tự nhiên sinh ra và
cũng không bao giờ mất đi mà nó chỉ chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác. Năng
lượng luôn gắn liền với sự vận động của vật chất; thế giới vật chất vận động và phát triển
thông qua quá trình chuyển hóa từ thấp đến cao của các dạng năng lượng.
Từ những năm 30 của thế kỷ XIX, Svan và Slâyđen xây dựng học thuyết tế bào cho phép
khẳng định: tế bào là cơ sở vật chất thống nhất của mọi sinh thể (thực vật và động vật),
tức thống nhất tòan bộ quá trình lịch sử của sự sống từ thấp đến cao, từ đơn giản đến
phức tạp. Bản chất của sự sống là một quá trình phát triển biểu hiện tính thống nhất, tính
liên hệ của thế giới tự nhiên.
Năm 1859, Đácuyn đã xây dựng học thuyết tiến hóa cho phép khẳng định: quá trình vận
động, biến đổi từ thấp đến cao của động vật và thực vật, thông qua quá trình chọn lọc tự
nhiên và chọn lọc nhân tạo, tức khẳng định nguồn gốc, nguyên nhân vật chất của mọi sự

phát triển trong thế giới sinh thể và phủ nhận vai trò sáng thế của chủ nghĩa duy tâm tôn
giáo.
Những thành tựu này đã làm lung lay tận gốc các quan niệm duy tâm, siêu hình về nhận
thức thế giới tự nhiên; đồng thời, khẳng định các tư tưởng nền tảng (nguyên lý) của phép
biện chứng duy vật (hay chủ nghĩa duy vật biện chứng) về mọi sự tồn tại (thống nhất vật
chất; liên hệ phổ biến; vận động, phát triển) trong thế giới. Khoa học tự nhiên mang tính
chất lý luận trong giai đoạn này là tiền đề cho sự ra đời của triết học Marx; và những khái
quát của triết học Marx đã đặt cơ sở về thế giới quan và phương pháp luận cho các lĩnh
vực khoa học cụ thể trong việc nhận thức thế giới khách quan.
Như vậy, triết học Marx ra đời là sản phẩm của lịch sử. Nó mang tính quy luật của sự
phát triển của khoa học và triết học nói riêng, của toàn bộ lịch sử tư tưởng nhân loại nói
chung. Chính Marx và Engels là những thiên tài đã khái quát được toàn bộ tiến trình lịch
sử và văn hóa tinh thần mà loài người đã đạt được, để xây dựng học thuyết triết học duy
vật biện chứng, đáp ứng được nhu cầu nhận thức và cải tạo thực tiển xã hội mà thời đại
lịch sử mới đặt ra. V.I. Lênin viết: “Chủ nghĩa Marx không nảy sinh ở ngoài con đường
phát triển vĩ đại của văn minh thế giới. Trái lại, toàn bộ thiên tài của Marx chính là ở chổ
11
Giảng viên : TS. Bùi Văn Mưa Học viên : Nguyễn Thị Đăng Sinh
ông đã giải đáp được những vấn đề mà tư tưởng tiên tiến của nhân loại đã nêu ra. Học
thuyết của ông ra đời là sự thừa kế thẳng và trực tiếp những học thuyết của các đại biểu
xuất sắc nhất trong triết học, trong kinh tế chính trị học và trong chủ nghĩa xã hội.”
KẾT LUẬN
Phép biện chứng duy tâm của Hégel là một thành tựu vĩ đại của triết học cổ điển Đức.
Cho dù có những ý kiến đánh giá khác nhau về triết học Hégel, song không thể phủ nhận
12
Giảng viên : TS. Bùi Văn Mưa Học viên : Nguyễn Thị Đăng Sinh
được rằng cái có giá trị nhất và có sức sống mạnh mẽ nhất trong triết học của ông chính
là phép biện chứng duy tâm. Ông là người có công phê phán tư duy siêu hình và ông
cũng là người đầu tiên trình bày toàn bộ giới tự nhiên, lịch sử và tư duy dưới dạng một
quá trình, nghĩa là trong sự liên hệ, vận động, biến đổi và phát triển không ngừng. Trong

khuôn khổ hệ thống triết học duy tâm của mình, Hégel không chỉ trình bày các phạm trù
như: chất, lượng, phủ định, mâu thuẩn mà ông còn là người diễn đạt được các quy luật
theo khuôn khổ của phép biện chứng, nghĩa là ông coi sự liên hệ, vận động, phát triển của
thế giới tuân theo các quy luật như “Lượng đổi dẫn đến chất đổi và ngược lại”, “Phủ định
của phủ định”, với tư cách là sự phát triển diễn ra theo hình “Xoáy ốc” và quy luật mâu
thuẩn với tư cách là nguồn gốc, động lực của sự phát triển.
Như vậy những vấn đề cốt lõi nhất đã được Hégel đề cập một cách bao quát nhất. Nhưng
khi trình bày quy luật của phép biện chứng Hégel lại cho rằng “Tất cả những quy luật đó
chỉ là sản phẩm của sự vận động và sáng tạo của ý niệm tuyệt đối”. Do đó phép biện
chứng của Hégel là phép biện chứng duy tâm, hệ thống triết học của ông là hệ thống triết
học duy tâm. Nét đặc trưng của hệ thống đó là không phải ý thức phát triển trong sự phụ
thuộc vào sự phát triển của tự nhiên và xã hội mà ngược lại, tự nhiên và xã hội phát triển
trong sự phụ thuộc vào sự phát triển của ý niệm tuyệt đối. Marx và Engels đã phê phán
một cách triệt để tính chất duy tâm trong phép biện chứng của Hégel. Đồng thời, các ông
cũng kế thừa, tiếp thu những mặt tiến bộ trong phép biện chứng ấy để hình thành phép
biện chứng duy vật và các ông coi Hégel là người có nhiều công lao trong việc phát triển
phép biện chứng.
Chính học thuyết của Hégel là thứ triết học đã biến phép biện chứng thành trung tâm,
thành hạt nhân đích thực của toàn bộ hệ vấn đề triết học. Phép biện chứng được Hégel lý
giải là phương pháp đúng đắn để nhận thức các vấn đề triết học. Phương pháp tư duy
biện chứng được ông nghiên cứu một cách đầy đủ và có căn cứ vững chắc, là phương
pháp chưa từng thấy trong lịch sử triết học trước Marx. Trong triết học Hégel, phép biện
chứng biểu hiện ra là lý luận nhận thức và là hình thức cao nhất của logic học, của tư duy
logic. Đồng thời nó cũng chế định một thế giới quan đặc biệt cần đặt trên niềm tin vào
tính tất yếu của sự tiến bộ với tư cách là kết quả của sự phát triển hợp quy luật.
13
Giảng viên : TS. Bùi Văn Mưa Học viên : Nguyễn Thị Đăng Sinh
Do tính hạn chế của các điều kiện lịch sử và thiên hướng động hòa với trật tự xã hội thời
đó mà Hégel đã có những kết luận mâu thuẫn và không nhất quán. Trái với các nguyên
tắc xuất phát của mình, Hégel đã đặt ra một giới hạn cho sự phát triển của nhân loại, kể

cả cho sự phát triển của triết học sau khi tuyên bố rằng học thuyết của mình là sự kết thúc
tuyệt đối hoàn thiện của tư tưởng triết học. Nhưng ngay cả những điều ấy không làm mất
đi ý nghĩa tiến bộ của các nguyên tắc biện chứng xuất phát của Hégel. Phù hợp với
chúng, Hégel quan niệm lịch sử toàn cầu là sự tiến bộ trong nhận thức về tự do. Cho dù
bản chất của tự do có được hiểu khác nhau, song việc thừa nhận nó vẫn trở thành một
trong những tiêu chuẩn quan trọng của chủ nghĩa nhân đạo và về sự công bằng xã hội.
Gần hai thế kỹ đã trôi qua kể từ khi hệ thống triết học Hégel ra đời, song ảnh hưởng của
nó trong đời sống tinh thần nhân loại vẫn không ngừng tăng lên. Như Engels đã khẳng
định: “Hệ thống Hégel bao trùm một lĩnh vực hết sức rộng hơn bất cứ hệ thống nào trước
kia và phát triển trong lĩnh vực đó. Một sự phong phú về tư tưởng mà ngày nay người ta
vẫn còn ngạc nhiên Vì Hégel không những chỉ là một thiên tài sáng tạo mà còn là một
nhà bác học có tri thức bách khoa nên những phát biểu của ông tạo thành thời đại Nếu
đi sâu hơn nữa vào trong tòa nhà đồ sộ, người ta sẽ thấy trong đó có vô số những vật quý
giá đến nay vẫn còn giữ được toàn bộ giá trị của chúng Nói chung, với Hégel triết học
đã đi đến điểm tận cùng. Một mặt vì trong hệ thống của ông, ông đã tổng kết một cách
hết sức hùng vĩ toàn bộ sự phát triển của triết học. Mặt khác, vì Hégel dù không có ý thức
cũng chỉ cho chúng ta con đường thoát khỏi cái mớ bòng bong những hệ thống triết học
để đi tới sự nhận thức thực sự tích cực về thế giới.”
Là những người ủng hộ sự phát triển, sáng tạo phép biện chứng, chúng ta đánh giá cao
công lao vĩ đại của Hégel cho phép biện chứng và coi việc tiếp tục tổng kết khái quát
những thành tựu mới nhất của khoa học và thực tiển hiện đại để làm giàu thêm phép biện
chứng duy vật của Marx là nhiệm vụ quan trọng và không bao giờ kết thúc.
TÀI LIÊU THAM KHẢO
1. Đề cương bài giảng - Tiến sỹ Bùi Văn Mưa
2. Đại cương về lịch sử triết học (Phần 1) – TS. Bùi Văn Mưa (chủ biên)
3. Đại cương về lịch sử triết học (Phần 2) - TS. Bùi Văn Mưa (chủ biên)
14
Giảng viên : TS. Bùi Văn Mưa Học viên : Nguyễn Thị Đăng Sinh
4. Triết học và bức tranh vật lý học về thế giới – TS. Bùi Văn Mưa
5. Lút vích Phoi-ơ-bắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức.

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 01
1.PHÉP BIỆN CHỨNG DUY TÂM HEGEL 02
1.1 BIỆN CHỨNG 02
1.2 DUY TÂM 04
2. TÁCH BIỆN CHỨNG KHỎI DUY TÂM 06
3. VAI TRÒ CỦA HEGEL ĐỐI VỚI SỰ RA ĐỜI CỦA TH MARX 09
3.1 ĐIỀU KIỆN KINH TẾ XÃ HỘI 09
3.2 TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN 10
3.3 TIỀN ĐỀ KHOA HỌC TỰ NHIÊN 12
KẾT LUẬN 13
15

×