Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Tiểu luận triết học TRÀO LƯU TRIẾT HỌC KHOA HỌC VÀ SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN XÃ HỘI PHƯƠNG TÂY THỜI HIỆN ĐẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.33 KB, 16 trang )

Giảng viên cao học: TS. Bùi Văn Mưa

1

Tổng quan
Trong gần hai thế kỷ nay, khoa học càng ngày càng phát triển mạnh mẽ và chiếm
một vị trí trung tâm trong nền văn hóa nhân loại. Những thành tựu khoa học - kỹ
thuật nhanh chóng được áp dụng vào sản xuất và đời sống đã trở thành nhân tố quan
trọng làm tăng năng suất lao động xã hội, giúp khắc phục nghèo đói, bệnh tật, nâng
cao mức sống cho con người, giúp con người chế ngự tự nhiên...
Cùng những thành tựu đó là những hậu quả vơ cùng nghiêm trọng, có sức tàn phá,
hủy diệt lớn đối với cuộc sống của con người. Nó gây ra những hồi nghi, bi quan,
làm cho con người nhìn về tương lại với những kỳ vọng xen lẫn thất vọng. Bên cạnh
đó,

xuất hiện những sai lệch trong cách quan niệm của mọi người

về khoa học.
Từ đó, nhiều trào lưu triết học được ra đời như trào lưu duy khoa
học, trào lưu nhân bản phi duy lý … giải thích cuộc sống con
người, tương lai nhân loại theo cách duy tâm, siêu hình.
Trong

đề tài này, e sẽ giới thiệu về trào lưu triết học duy khoa học

trong giai đoạn hậu thực chứng thông qua tư tưởng của một số nhà
triết gia tiêu biểu cho thời kỳ này là : Karl Popper, Imre Lakatos, Thomas
Samuel Kuhn, Paul Feyerabend.

Bên cạnh đó nêu lên sự ảnh hưởng của


trào lưu này đến xã hội phương Tây hiện đại.

Trang 1


Giảng viên cao học: TS. Bùi Văn Mưa

Đặc điểm của

2

các trào lưu triết học phương Tây hiện đại – trào

lưu triết học duy khoa học
2.1

-

Sơ nét về triết học phương Tây hiện đại
Triết học phương Tây hiện đại đã hình thành ở các nước phương Tây từ giữa thế kỷ
XIX và phát triển rất mạnh mẽ cho đến ngày nay, phản ánh hiện thực cuộc sống
đầy sôi động và vô cùng phức tạp của xã hội phương Tây tư bản chủ nghĩa trong
quá trình chuyển mình từ giai đoạn tiền đế quốc chủ nghĩa sang đế quốc chủ nghĩa,
mà trước hết là phản ánh cuộc đấu tranh tư tưởng ngày càng quyết liệt giữa giai cấp
vô sản - giai cấp tư sản.

-

Vậy nên triết học phương Tây hiện đại cũng bao gồm hai dịng
triết học xung đột mãnh liệt:



Triết học mácxít - cơ sở thế giới quan, phương pháp luận, ý thức hệ của giai cấp
vô sản và quần chúng nhân dân lao động tiến bộ đang đấu tranh đòi cải tạo xã
hội tư bản chủ nghĩa nhằm xây dựng chủ nghĩa cộng sản.



Triết học phương Tây ngồi mácxít hiện đại bao gồm nhiều
trào lưu, khuynh hướng, trường phái, quan điểm lý luận...rất đa
dạng, tuy nhiên chúng ít nhiều đều xuất phát từ lợi ích của giai

Trang 2


Giảng viên cao học: TS. Bùi Văn Mưa

cấp tư sản, từ truyền thống của các dân tộc phương Tây tư bản
chủ nghĩa.
2.2

-

Sơ nét về triết học phương Tây ngồi mácxít hiện đại
Triết học của họ càng xa rời truyền thống duy vật và tư tưởng biện chứng, tinh thần
cách mạng và giá trị khoa học để chuyển sang chủ nghĩa duy

tâm và phép siêu

hình tinh vi, tạo nên thế giới quan tiêu cực và nhân sinh quan

phản cách mạng.
-

Triết

học phương Tây hiện đại phân hóa thành nhiều trào lưu,

mỗi trào lưu, trường phái đào sâu một khía cạnh nào
đó trong cuộc sống đa dạng của con người để xây
dựng triết lý riêng. Tuy nhiên, trong tính đa dạng đó,
chúng ta nhận thấy có ba trào lưu chủ yếu là chủ
nghĩa duy khoa học và chủ nghĩa nhân bản phi duy lý
và triết học tôn giáo.
2.3 Giới thiệu về trào lưu triết học duy khoa học
2.3.1

Trào lưu thực chứng

-

Chủ nghĩa thực chứng ra đời vào những năm 30 - 40 của thế kỷ XIX ở Pháp.

-

Các triết gia thực chứng cho rằng, triết học
không nên nghiên cứu những vấn đề như bản
Trang 3


Giảng viên cao học: TS. Bùi Văn Mưa


chất của sự vật, các quy luật chung của thế giới...
mà cần phải đi tìm những phương pháp hiệu quả
và đáng tin cậy nhất để có được tri thức khoa học
thực chứng.
-

Chủ

nghĩa thực chứng đã phát triển qua ba giai

đoạn:


Giai

đoạn thực chứng cổ điển: xuất hiện vào thập

niên 30 của thế kỷ XIX. Đại biểu là Côngtơ ở
Pháp, Spenxơ , Minlơ ở Anh. Họ cho rằng chỉ có
các hiện tượng hoặc sự kiện mới là cái thực
chứng, họ không thừa nhận bản chất của sự vật.


Giai

đoạn kinh nghiệm phê phán: xuất hiện vào

thập niên 70 - 90 thế kỷ XIX. Đại biểu của giai
đoạn này là Makhơ và Avênariút. Họ đề xướng quan

niệm duy tâm chủ quan về kinh nghiệm, phủ nhận sự tồn tại của
quy luật cũng như của chân lý khách quan.


Giai đoạn

thực chứng mới: ra đời sau Chiến tranh thế giới lần thứ

nhất và phát triển cao vào những năm 50.
Trang 4

Giai đoạn này có


Giảng viên cao học: TS. Bùi Văn Mưa

nhiều chi phái: Một là chủ nghĩa nguyên tử lôgich
xuất hiện từ 1920, đại biểu là Rútxen và
Vítgenxtanh. Họ cho rằng, yếu tố cấu tạo nên tự
nhiên không phải là vật chất mà là những phán
đoán trên cơ sở tri giác, và họ gọi chúng là
những đơn vị lơgích. Hai là, chủ nghĩa thực
chứng lơgích và triết học phân tích - những mơn
phái đưa chủ nghĩa thực chứng mới vào thời kỳ
hưng thịnh nhất để rồi sau đó rơi vào thời kỳ
suy tàn. Đại biểu chính là Cácnáp (Camap),
Slích (Shelich).

2.3.2


Trào lưu hậu thực chứng

-

Chủ

nghĩa phản thực chứng ra đời sau chiến tranh

thế giới lần thứ hai.
-

Các

vấn đề tăng trưởng tri thức, thay đổi lý luận, phát

Trang 5


Giảng viên cao học: TS. Bùi Văn Mưa

triển khoa học... được nghiên cứu gắn liền với thực
trạng khoa học lúc bấy giờ theo tinh thần phủ chứng
và quan điểm lịch sử.
-

Các

nhà triết học lỗi lạc lúc bấy giờ :
2.3.2.1.


-

Karl Popper

Karl Popper (28/6/1902 – 17/9/1994) là một nhà triết học người Áo, người đề xuất
các ý tưởng về một xã hội mở, một xã hội mà ở đó sự bất đồng chính kiến được
chấp nhận và đó được xem như một tiền đề để tiến tới việc xây dựng một xã hội
hồn thiện. Ơng cũng được xem như là người sáng lập Chủ nghĩa Duy lý phê phán.

-

Pốppơ

(Popper) đã kế thừa có phê phán chủ nghĩa

thực chứng lơgích đang suy tàn và tìm kiếm một hình
thức mới - chủ nghĩa phủ chứng.
-

Theo

quan điểm của ông, một lý luận được gọi là khả

phủ chứng nếu từ nó rút ra ít nhất một trần thuật
có thể xung đột với một vài sự kiện nào đó. Nếu
sự xung đột đã xảy ra thì lý luận này là lý luận bị
phủ chứng, còn nếu sự xung đột chưa xảy ra thì
lý luận này là lý luận vị phủ chứng. Lý luận bị
phủ chứng bị đào thải, lý luận vị phủ chứng tạm
Trang 6



Giảng viên cao học: TS. Bùi Văn Mưa

thời được giữ lại tạo thành nội dung của khoa
học.
-

Pốppơ

coi khoa học không truy tìm tính chân lý để

xác chứng mà là truy tìm tính sai lầm để phủ
chứng lý luận. Ơng đã nâng khái niệm phủ chứng
lên thành nguyên tắc phủ chứng mang tinh thần
lý tính phê phán.
-

Khoa học là một sự nghiệp mang tính thể nghiệm nên sai lầm khó tránh khỏi.
Muốn khoa học tiến lên chúng ta cần phải biết xử lý để loại bỏ sai lầm một cách
nhanh chóng. Do khoa học phát triển trong quá trình cạnh tranh giữa các lý luận
khả dĩ nên cần phải phê phán để tuyển lựa lý luận tối ưu, nhằm thúc đẩy sự phát
triển khoa học. Khoa học phát triển khi lý luận cũ bị phủ định để tạo tiền đề cho sự
ra đời lý luận mới. Nhà khoa học không phải chỉ biết phủ định lý luận của người
khác mà phải dám và tìm mọi cách phủ định lý luận của chính mình.

-

Sơ đồ tăng trưởng của tri thức khoa học :




P1  TT EE P2
Với : P1 : vấn đề khoa học
TT : các lý luận khoa học cạnh tranh nhau
EE : các sự kiện kinh nghiệm phản bác các lý luận khoa học
P2 : vấn đề mới xuất hiện  tri thức khoa học tăng

-

Thuyết phản nghiệm của Pốppơ có vài khuyết điểm: Thứ nhất, nếu mục đích của
khoa học là làm giàu tri thức thì việc "phản nghiệm một giả thuyết là sai" khó thể

Trang 7


Giảng viên cao học: TS. Bùi Văn Mưa

xảy ra, và không cho ta thêm tri thức nhiều hơn khi một giả thuyết khoa học rất có
thể đúng và chấp nhận được bị phản nghiệm là sai. Nói cách khác, phản nghiệm là
sai một "ngụy khoa học" hay lý thuyết tồi khơng mang lại cho chúng ta điều gì mới
để tiến lên. Thứ hai, có những xác định khơng thể phản nghiệm (chẳng hạn, làm
sao xác định sự hiện hữu của một vật thể tưởng tượng). Và quan trọng hơn, Pốppơ
tự mâu thuẫn về vấn đề quy nạp. Một đàng, ông khơng cho rằng những chứng cớ
thực nghiệm có thể củng cố giả thuyết khoa học bằng phương pháp quy nạp (theo
ơng, quy nạp là vơ ích và vơ tác dụng). Đàng khác, ông lại dùng ý niệm "chứng
thực thêm", thật ra không khác ý niệm quy nạp. Đối với Pốppơ, những giả thuyết
khoa học “tốt” là giả thuyết đã được "chứng thực thêm" với các bằng chứng thực
nghiệm.
-


Sau đó, Lacatốt – môn đồ của Pốppơ đã khắc phục bằng chủ nghĩa phủ chứng tinh
tế.
2.3.2.2.

Imre Lakatos

-

Imre Lakatos (1922 – 1994): nhà triết học trong toán học và khoa học ở Hungari.

-

Lacatốt (Lakatos) trước là môn đồ của Pốppơ nhưng ông đã cải thiện thuyết phản
nghiệm. Theo ơng tính chất cơ bản của lý luận khoa học khơng phải là tính khả phủ
chứng mà là tính mềm dẻo chịu đựng và tính phụ thuộc lẫn nhau. Vì vậy, các lý luận
khoa học hợp lại tạo thành tri thức bối cảnh của khoa học thống nhất.

-

Lacatốt kết luận rằng: Sự thật kinh nghiệm không thể xác chứng hay phủ chứng
một trần thuật lý luận nào. Lý luận T chỉ bị phủ chứng khi: xuất hiện lý luận T’có
nội dung kinh nghiệm phong phú hơn nó và cho phép dự kiến hay phát hiện nhiều
sự thực mới hơn là T. T' nói rõ sự thành cơng mà T đã đạt được trước đó. Tồn bộ
nội dung chưa phản bác của T đều được bao hàm trong T’. Và có một số nội dung
dư thừa của T' so với T đã được xác chứng.

-

Khi xung đột với sự thật kinh nghiệm. Lý luận không nhất thiết phải bị đào thải mà

đòi hỏi phải điều chỉnh lại để cứu vãn nó.
Trang 8


Giảng viên cao học: TS. Bùi Văn Mưa

-

Lacatốt coi sự tăng trưởng liên tục của tri thức khoa học là do sự sản sinh và cạnh
tranh của các hệ lý luận khoa học chứ không phải do sự phản bác dẫn đường hay sự
bất thường xảy ra trong khoa học.

-

Từ đây, Lacatớt cho rằng : tính khoa học chỉ là thuộc tính của một hệ nhiều lý luận
liên kết chặt chẽ với nhau mà ông gọi là “Cương lĩnh khoa học”. Cương lĩnh này
được tạo thành từ bốn yếu tố.

-

Dựa

trên chủ nghĩa phủ chứng tinh tế, Lacatốt xây dựng lại lịch sử

khoa học và thuyết minh quá trình tăng trưởng tri thức khoa học
một cách hợp lý, đặc biệt là biết vận dụng lý tính tự do vơ hạn để
hóa dễ mọi khó khăn.
-

Kết luận của Lacatốt: nếu chủ nghĩa phủ


chứng thơ sơ chỉ quan tâm đến

khía cạnh lơgích, lý tính mà ít hay khơng chú trọng đến lịch sử,
sự kiện hiện thực, thì chủ nghĩa phủ chứng tinh tế đã bàn đến vai
trò của lịch sử hiện thực, nhưng lịch sử hiện thực lại bị che đậy
kín đáo bởi lý tính tự do vơ hạn. Điều này nói rằng, chủ nghĩa
phủ chứng cố vượt ra khỏi chủ nghĩa lơgích, nhưng nó vẫn cịn bị
ràng buộc với lý tính lơgích, trong nó, chủ nghĩa lịch sử mới chỉ
nhú mầm chứ chưa bám rễ vững chắc.
-

Sau này khi xuất phát từ thực trạng của khoa học và các yếu tố bên ngồi của khoa
học như tín niệm tập thể của cộng đồng khoa học..., Cun (Kuhn) đã làm cho chủ
nghĩa lịch sử xuất hiện với một sức sống mãnh liệt.
2.3.2.3.

-

Thomas Samuel Kuhn

Thomas Samuel Kuhn (1922-1996) được từ điển triết học của Đại học

Trang 9


Giảng viên cao học: TS. Bùi Văn Mưa

Stanford đánh giá là “một trong số các triết gia khoa học nhiều ảnh hưởng nhất
trong thế kỷ 20, mà có lẽ là người ảnh hưởng nhiều nhất. Tác phẩm Cấu trúc của

các cuộc Cách mạng khoa học là một trong số các đầu sách được trích dẫn nhiều
nhất trong mọi thời đại. Nghiên cứu lịch sử phát triển của các ngành khoa học mà
theo cách hiểu của ông chủ yếu là khoa học tự nhiên, Kuhn đưa ra các qui luật mà
ngay chính ơng cũng khơng ngờ là đã tác động mạnh và thậm chí làm thay đổi tồn
bộ ngành khoa học xã hội trong nửa sau của thế kỷ 20. Triết học cách mạng trong
khoa học của Kuhn cũng tương tự như qui luật lượng biến thành chất trong triết
học Mác.

-

Ông cho rằng, trong sự nghiệp khoa học luôn tồn tại các khối cộng đồng khoa học
độc lập nhau, bị chi phối bởi các kiểu mẫu mực khác nhau. Do kiểu mẫu mực trong
mỗi cộng đồng khoa học rất bền vững nên một sự thật đơn lẻ không đủ để xác
chứng hay phủ chứng nó, mà chỉ có cách mạng khoa học mới làm thay đổi kiểu
mẫu mực này bằng kiểu mẫu mực khác, về mặt nội dung, các kiểu mẫu mực hồn
tồn khác nhau, do đó chúng khơng thể so sánh được.

-

Cun (Kuhn) không chỉ liên kết kiểu mẫu mực với cộng đồng khoa học mà còn cố
gắng kết hợp lịch sử bên trong với lịch sử bên ngoài của khoa học, cố gắng kết hợp
lịch sử khoa học với xã hội học và tâm lý học khoa học... nhằm vạch ra và khảo sát
các yếu tố chi phối sự phát triển khoa học.

-

Cun coi khoa học là kết quả hoạt động của các khối cộng đồng khác nhau, có sử
dụng các kiểu mẫu mực không giống nhau nhưng luôn thay đổi để hồn thiện chính
mình.


Khi khái qt nhận định này ông đưa ra lý luận “Động thái phát triển khoa

học”, trong đó khẳng định mỗi chu trình phát triển của khoa học phải trai qua bốn
thời kỳ là:



Tiền khoa học



Khoa học bình thường

Trang 10


Giảng viên cao học: TS. Bùi Văn Mưa

• Khủng hoảng khoa học
• Cách mạng khoa học

-

Kết luận của Cun: coi chân lý chỉ là phương tiện chủ quan được dùng để loại bỏ
những vấn đề nan giải trong nghiên cứu khoa học. Sự phủ nhận tính kế thừa của
các kiểu mẫu mực đã buộc Cun phải coi khoa học tiến triển không theo hướng tiến
bộ mà là theo hướng tuỳ cơ mà diễn biến. Cun phủ nhận tính chân lý của lý luận
khoa học, phủ nhận tính tiến bộ của nhận thức khoa học. Chủ nghĩa lịch sử đã đưa
Cun đến thuyết bất khả tri, chủ nghĩa quy ước, chủ nghĩa tương đối.


Ông xứng

đáng là người khởi xướng chủ nghĩa lịch sử và làm cho nó tn
ra mạnh mẽ trong trào lưu triết học khoa học.
-

Sau đó, chủ nghĩa lịch sử tiếp tục được phát triển bởi Phâyeraban
(Feyerabend) thông qua “Phương pháp luận đa nguyên”.
2.3.2.4.

Paul Feyerabend

-

Paul Feyerabend: (13/01/1924 – 11/02/1994): người Áo.

-

Feyerabend

cho rằng: Nhà khoa học năng động sáng tạo là người

biết sử dụng phương pháp này để thu hút, kết hợp các kiến giải
khác với kiến giải của mình, biết so sánh tư tưởng của mình với
tư tưởng của người mà không nhất thiết phải đối chiếu với kinh
nghiệm, mỗi cá nhân đều có thể và cần phải đóng góp càng nhiều,
càng tốt vào sự nghiệp văn hóa chung của nhân loại. Mỗi ý
tưởng, mỗi lý luận đều góp phần tạo nên đời sống tinh thần mênh
mông của con người mà giá trị của chúng là tính hiệu quả, là sự
gia tăng không ngừng số lượng lý luận và nội dung kinh nghiệm

Trang 11


Giảng viên cao học: TS. Bùi Văn Mưa

của mình.
-

Với

quan điểm này, ông kêu gọi con người phải giữ lấy mọi ý

tưởng, quan niệm, lý luận đã được phát hiện ra để cân nhắc, bổ
sung, hoàn chỉnh lý luận, quan điểm, ý tưởng mới của mình, mà
khơng có cái gì phải vứt vào sọt rác của lịch sử cả.
-

Với

phương pháp phi lý tính, ơng coi lý tưởng thời hiện đại, điều

kiện xã hội, tâm lý quần chúng, lợi ích giai - tầng, sự nhạy bén
của cá tính cá nhân, bối cảnh tri thức và sự tuyên truyền của khoa
học... là những yếu tố phi lý tính thúc đẩy sự tiến bộ của khoa
học. Vì vậy, cần phải hạn chế, thậm chí xóa bỏ lý tính để tạo điều
kiện cho các yếu tố phi lý tính trở thành động lực mạnh mẽ thúc
đẩy khoa học tiến bộ.
-

Bằng


nguyên tắc “thế nào cũng được", ông chủ trương tạo ra một

bầu không khí thật dân chủ tự do để khai thác triệt để tính năng
động sáng tạo của giới khoa học làm cho lý luận không ngừng
tăng trưởng. Dựa trên nguyên tắc này, ông phê phán chủ nghĩa
kinh nghiệm giáo điều, chủ nghĩa lý tính hẹp hịi. Tại đây, ơng đã
đưa chủ nghĩa lịch sử đến với chủ nghĩa vơ chính phủ, chủ nghĩa
cơ hội.
-

Phương

pháp luận đa nguyên là định hướng để ông xây dựng lý

luận về khoa học tự do trong một xã hội tự do. Theo ơng, trong
xã hội tự do, khơng có một tiêu chuẩn tuyệt đối nào để phân giới
Trang 12


Giảng viên cao học: TS. Bùi Văn Mưa

khoa học và các hình thái ý thức phi khoa học, mà chúng đan xen
thâm nhập vào nhau, vì vậy, khơng nên dành cho khoa học một
quyền uy trước các hình

phải là mục tiêu quan trọng nhất, và khoa học

không chi phối mọi sinh hoạt của con người, mà mỗi con người đều có một điều
kiện để sống, một niềm tin để theo đuổi, một cơ hội để sáng tạo. Khi nào khoa học

cịn có q nhiều quy tắc, chuẩn mực cứng nhắc thì khi đó tính thích ứng của nó
với hồn cảnh lịch sử càng ít, tính giáo điều của nó càng nhiều, khi đó nó đang tự
giết chết chính mình. Vì vậy, cần phải phấn đấu xây dựng khoa học tự do trong một
xã hội tự do.
3

Sự ảnh hưởng của trào lưu khoa học đến xã hội phương Tây

3.1 Karl Popper

-

Pốppơ có nhiều đóng góp quý báu qua “duy lý luận phê bình” với tác phẩm "The
Open Society and its Enemies" ("Xã hội mở và các kẻ thù của nó"). Bởi ông cho
rằng trong cộng đồng khoa học cũng như trong xã hội, để có tiến bộ và phát triển,
phải chấp nhận có phê phán, mở rộng phê bình các lý thuyết, chủ thuyết cạnh tranh
qua duy lý để đi đến sự thật. “Duy lý luận phê bình” kêu gọi cộng tác và cạnh tranh
để đưa đến ý niệm mới, kiến thức mới gần với sự thật, có lợi cho tất cả mọi người
trong xã hội qua q trình chỉ trích không giới hạn.

-

Tất cả mọi thuyết và phương pháp khoa học phải khách quan. Pốppơ cho là luật
thiên nhiên và vũ trụ là phổ quát, ông tin là lý thuyết khoa học phải cạnh tranh
trong môi trường phản nghiệm. Lý thuyết phải có tính chất phản nghiệm, mạnh dạn
cấp tiến trong tiên đoán và qua nguyên lý phản nghiệm để có và được thay thế bởi
các lý thuyết nào gần với sự thật hơn. Vì thế, khoa học là một chuỗi các lý thuyết bị
đổ để đến lý thuyết gần hơn. Chủ nghĩa thực chứng và thuyết Pốppơ chủ yếu dựa
vào vật lý học như mơ hình triết lý khoa học. Trái với các thuyết thật sự khoa học
Trang 13



Giảng viên cao học: TS. Bùi Văn Mưa

có tính phản nghiệm và mạnh dạn đứng ra chịu sự thử thách tiên đoán, các thuyết
"ngụy khoa học" hay bán khoa học đều dùng kế hoạch tự phòng thủ nhằm tránh bị
phê bình, chỉ trích, qua các chắp vá.
 Quan điểm của Pốppơ về sự phản nghiệm rất được phổ biến và thường được
các nhà khoa học áp dụng để bác bỏ các lý thuyết ngụy khoa học.
3.2 Imre Lakatos

-

Triết gia này cho rằng khoa học là một chuỗi những chương trình nghiên cứu, từng
bước tiến lên từ một vấn đề này đến vấn đề khác, là sự phát triển có kế tục của cái
mà ơng gọi là các "chương trình nghiên cứu". Cụ thể, một chương trình nghiên cứu
được cho là có "tiến bộ lý thuyết" nếu mỗi lý thuyết của chương trình đó hàm chứa
nhiều nội dung thực nghiệm hơn chương trình trước, và "tiến bộ thực nghiệm" nếu
một số nội dung thực nghiệm này được phối hợp kiểm chứng. Nói tóm lại, phản
nghiệm kiểu Lacatốt là dựa vào sự liên hệ giữa các thuyết khoa học. Quan điểm
của Lacatốt có vẻ hợp lý nhất đối với đa số các ngành khoa học hiện đại (kể cả các
ngành khoa học xã hội).

3.3 Thomas Samuel Kuhn

-

Kuhn muốn chứng minh rằng các lý thuyết khoa học trong lịch sử không hề bị loại
bỏ khi chúng tỏ ra sai, mà chỉ đến khi nào chúng được thay thế. Sự thay thế này là
một hiện tượng "xã hội" địi hỏi phải có sự tham gia của cả một cộng đồng các nhà

nghiên cứu, cùng thống nhất với nhau về một quy trình xoay quanh việc giải thích
một số hiện tượng hoặc một số thí nghiệm nhất định. Đây chính là chìa khố mở
rộng khoa học đến nhiều thành phần trong xã hội, để khoa học khơng cịn là “sân
chơi” của một thiểu số. Nó cũng khởi điểm một phong trào dùng thuyết của Kuhn
để chỉ trích cái gọi là “khoa học khách quan”, coi đó chẳng qua chỉ là một hiện
tượng xã hội, một thời trang tri thức. Thuyết của Kuhn đã làm sáng tỏ phương thức
hoạt động khoa học, làm mất đi sự bí ẩn, hào quang và nể sợ trong quần chúng

Trang 14


Giảng viên cao học: TS. Bùi Văn Mưa

trước đây về sự tìm hiểu, nghiên cứu khoa học, và từ đó nó mở rộng cho nhiều giới
tham gia đề cập cũng như tranh luận về khoa học.

-

Điểm đặc biệt là Kuhn xuất thân là một nhà vật lý nhưng chính triết lý khoa học
của ông lại được dùng làm nền tảng khởi đầu của các nhà xã hội học và hậu hiện
đại nghiên cứu về khoa học như một hiện tượng xã hội. Ngẫu nhiên, Kuhn đã tạo ra
một sự chuyển dịch mô thức ("paradigm shift") từ triết lý khoa học duy lý đến sự
nghiên cứu cấu tạo tri thức qua lăng kính xã hội.

-

Thuyết của Kuhn ra đời vào đầu thập niên 1960 khi mà xã hội phương Tây bắt đầu
cởi mở về văn hố, chính trị với nhiều phong trào phản kháng các nền tảng và trật
tự xã hội hiện hữu. Các nhóm trí thức xã hội học, triết học, đa số từ phe tả chống lại
những gì đại diện cho chính thống trong xã hội, đã dùng thuyết của Kuhn để nghiên

cứu vấn đề xã hội trong sự phát triển khoa học và tri thức. Từ đó một ngành mới
được thành hình song song với ngành triết lý khoa học và lần lần lấn át ngành triết
lý khoa học cổ điển. Ngành mới này sau được gọi là xã hội học về tri thức khoa học
(sociology of scientific knowledge).

-

Stephen Jay Gould, nhà cổ sinh vật học, là một người đã dùng quan niệm chuyển
dịch mô thức của Kuhn để đề xuất thuyết tiến hoá với ý niệm "cân bằng đứt đoạn"
("punctuated equilibrum").

3.4 Paul Feyerabend

-

Feyerabend cho rằng khơng có một phương pháp khoa học nào là thích hợp cho
mọi trường hợp, và hô hào "dân chủ" trong nghiên cứu khoa học. Ơng định nghĩa
"khoa học là cái gì mà các nhà khoa học làm". Feyerabend kêu gọi phân chia, tách
rời ảnh hưởng khoa học ra khỏi xã hội, giống như tách rời tôn giáo và nhà nước, để
tránh sự độc tôn của một chủ thuyết khoa học trong việc vận hành xã hội. Ơng cho
rằng khơng một phương pháp hay phương thức nào có thể gọi là chuẩn để tn theo
trong nghiên cứu khoa học. Nói cách khác, khơng nên loại bỏ phương pháp nào.

Trang 15


Giảng viên cao học: TS. Bùi Văn Mưa

Kết quả của các nhà khoa học dựa vào các phương pháp không phải lúc nào cũng
thành cơng. Ta chỉ có thể đánh giá thành tựu sau kết quả của nghiên cứu, và khơng

thể tiên đốn chắc chắn về sự thành cơng của các phương pháp. Cơng chúng có thể
tham gia vào các cuộc tranh luận khoa học, và nếu nó có ảnh hưởng đến mọi người
trong xã hội thì cơng chúng nên tham gia. Khoa học phải được dân chủ hoá và
những khoa học gia thiểu số có ý kiến, phương thức khác với đa số phải được bảo
vệ.

-

Ngồi ra, ơng cịn quan niệm mọi khoa học đều thoạt đầu là những “nghệ thuật”
trước khi chúng mất đi tính chất sáng tạo trước tính khách quan vơ-ý thức. Và cả
nghệ thuật lẫn khoa học đều không biết đến những điều kiện-khung ổn định

-

Feyerabend với tác phẩm lừng danh Against Methode / Chống lại sự cưỡng chế của
phương pháp (1975) thật sự gây chấn động cho xã hội phương Tây lúc bấy giờ.

4

Kết luận
Thông qua 4 nhà triết học uyên bác của giai đoạn hậu thực chứng, chúng ta đã phần
nào có được cái nhìn khái quát về trào lư triết học duy khoa học. Karl Popper với
việc kế thừa có phê phán chủ nghĩa thực chứng lơgích (đang suy tàn), đã đưa ra chủ
nghĩa phủ chứng. Lakatos khắc phục tính quá cứng ngắt của Popper bằng chủ

Trang 16


Giảng viên cao học: TS. Bùi Văn Mưa


nghĩa phủ chứng tinh tế cùng với việc nhắc đến vai trò của lịch sử hiện thực. Sau
đó Kuhn đã làm cho chủ nghĩa lịch sử xuất hiện với sức sống mãnh liệt. Và cuối
cùng là Feyerabend – nhà triết học đã làm cho chủ nghĩa lịch sử tuôn trào mạnh mẽ
trong trào lưu triết học khoa học.
Mỗi ông với mỗi tư tưởng đã ít nhiều ảnh hưởng đến xã hội phương Tây lúc bấy
giờ qua nhiều lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vẹc khoa học kỹ thuật.

Trang 17


Giảng viên cao học: TS. Bùi Văn Mưa

MỤC LỤC

1 Tổng quan.................................................................................................................................................1
2 Đặc điểm của các trào lưu triết học phương Tây hiện đại – trào lưu triết học duy khoa học.....................2
2.1 Sơ nét về triết học phương Tây hiện đại...........................................................................................2
2.2 Sơ nét về triết học phương Tây ngồi mácxít hiện đại......................................................................3
2.3 Giới thiệu về trào lưu triết học duy khoa học....................................................................................3
2.3.1 Trào lưu thực chứng...................................................................................................................3
2.3.2 Trào lưu hậu thực chứng............................................................................................................5
3 Sự ảnh hưởng của trào lưu khoa học đến xã hội phương Tây.................................................................13
3.1 Karl Popper .....................................................................................................................................13
3.2 Imre Lakatos....................................................................................................................................14
3.3 Thomas Samuel Kuhn.......................................................................................................................14
3.4 Paul Feyerabend..............................................................................................................................15
4 Kết luận..................................................................................................................................................16

Trang 18



Giảng viên cao học: TS. Bùi Văn Mưa

Tài liệu tham khảo:
-

Chu Đình Lan dịch – Tri thức khách quan. NXB Tri Thức

-

Bùi Văn Mưa – Triết học. Phần 1 – Đại cương về lịch sử triết học, Đại Học
Kinh Tế Thành phố Hồ Chí Minh, 2010.

-

Bùi Văn Mưa – Triết học & Bức tranh vật lý học về thế giới. Đại Học Kinh Tế
Thành phố Hồ Chí Minh.

-

/>hHocBVNS.htm

-

/>
-

/>
-


/>
Trang 19



×