Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Tiểu luận: Xử lý vi phạm đối với hành vi nuôi nhốt động vật rừng nguy cấp, quý hiếm nhóm IIb

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.57 KB, 13 trang )

1
Tiểu luận:
Xử lý vi phạm đối với hành vi nuôi nhốt động vật
rừng nguy cấp, quý hiếm nhóm IIb
2
LỜI NÓI ĐẦU
Động vật hoang dã là một thành tố tất yếu của hệ sinh thái, chúng có vai trò to
lớn trong cân bằng sinh thái, là những mắt xích quan trọng trong chu trình dinh
dưỡng và tuần hoàn vật chất trên trái đất. Đối với đời sống con người, động vật
hoang dã là nguồn sống, chúng đáp ứng nhiều nhu cầu của con người như: Cung
cấp lương thực, thực phẩm, giá trị giải trí, khoa học, văn hoá, sức khoẻ và nhiều
giá trị tiềm tàng khác.
Bảo vệ động, thực vật hoang dã góp phần bảo tồn bền vững nguồn tài nguyên
thiên nhiên là một trong những chủ trương đã được Đảng ta khẳng định tại
nhiều văn kiện quan trọng của Đảng (Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày
15/11/2004 của Bộ Chính trị, Khoá IX; Chỉ thị 29-CT/TW ngày 21/01/2009 của
Ban Bí thư, Khoá X và Hướng dẫn số 72-HD/BTGTW ngày 20/3/2009 của Ban
Tuyên giáo Trung ương về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước) cũng như sự thể hiện trong những văn bản
pháp luật.
Quy định về bảo tồn động, thực vật hoang dã, trong đó có Luật Đa dạng sinh
học, được Quốc hội thông qua tháng 11/2008. Đây là văn bản pháp lý có hiệu
lực cao nhất, điều chỉnh toàn diện và thống nhất các vấn đề về đa dạng sinh học
nói chung và bảo tồn động, thực vật hoang dã nói riêng. Luật có dành một
chương riêng (chương IV) quy định về bảo tồn và phát triển bền vững các loài
sinh vật. Quan điểm về bảo tồn động, thực vật hoang dã trong Luật Đa dạng
sinh học đã có sự đổi mới cơ bản, đó là bảo tồn phải kết hợp với khai thác, sử
dụng; chia sẻ lợi ích giữa các bên có liên quan bảo đảm hài hòa giữa lợi ích của
Nhà nước và lợi ích của các tổ chức, các nhân.
Dù đã có nhiều nghị quyết, văn bản pháp luật về bảo vệ tài nguyên và môi
trường, bảo vệ các loài động, thực vật hoang dã, nhưng trên thực tế, nguồn tài


nguyên đa dạng sinh học của chúng ta tiếp tục bị suy thoái, các loài động, thực
vật tiếp tục bị rơi vào nguy cơ tuyệt chủng trên lãnh thổ Việt Nam.
Tình trạng buôn bán, vận chuyển động thực vật hoang dã trái phép từ năm
1996-2007 ngày càng gia tăng, quy mô ngày càng lớn, cả nước đã có 14.758 vụ
vi phạm về săn bắt và buôn bán động, thực vật hoang dã. Lực lượng chức năng
đã tịch thu 181.670 cá thể với trọng lượng khoảng 635 tấn. Số vụ vi phạm hàng
năm vẫn có xu hướng tăng.
Việt Nam không chỉ đóng vai trò là nơi cung cấp, mà còn là thị trường trung
chuyển đối với động, thực vật hoang dã đi các thị trường khác. Vụ bắt giữ trên
25 tấn tê tê đông lạnh và vảy tê tê năm 2008 và gần đây là 6,2 tấn ngà voi ở
cảng Hải phòng càng cho thấy Việt Nam đã và đang trở thành nơi trung chuyển
động, thực vật hoang dã trái phép sang thị trường quốc tế.
3
Nguyên nhân của tình trạng trên một phần là bởi công tác tuyên truyền, giáo
dục, nâng cao nhận thức của người dân về bảo vệ động, thực vật hoang dã chưa
được quan tâm đúng mức; tuyên truyền vận động chưa kết hợp tốt với các biện
pháp kinh tế nên hiệu quả tuyên truyền chưa cao. Người dân vẫn có thị hiếu tiêu
dùng động vật hoang dã. Tiêu thụ động, thực vật hoang dã vẫn diễn ra phổ biến
công khai ở nhiều cơ sở kinh doanh phục vụ ăn uống.
Do đó, để thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước trong lĩnh vực này đòi hỏi phải
quán triệt sâu sắc các quan điểm cơ bản, nắm vững các quy định của pháp luật,
xử lý kịp thời và nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực
quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản.
Xuất phát từ những vấn đề do thực tiễn công tác đặt ra, qua học tập, nghiên cứu
tại trường. Là một công chức công tác trong ngành Kiểm lâm, tâm nguyện của
chúng tôi là bảo vệ tốt rừng, trong đó có các loài động vật rừng, xử lý triệt để
các hành vi xâm hại đến rừng, nhất là các hành vi vi phạm trong lĩnh vực quản
lý, bảo vệ và phát triển động vật rừng.
Từ đó, chúng tôi chọn tình huống là một vụ việc có thật xảy ra tại địa phương
chúng tôi công tác, với tình huống: “Xử lý vi phạm đối với hành vi nuôi nhốt

động vật rừng nguy cấp, quý hiếm nhóm IIb”. Với ý muốn phân tích sự việc
dưới góc độ các quy định về quản lý hành chính nhà nước, trao đổi kinh nghiệm,
đồng thời lựa chọn phương án tối ưu để giải quyết công việc, góp phần tăng
cường pháp chế XHCN.
PHẦN I. NỘI DUNG TÌNH HUỐNG
1. Hoàn cảnh ra đời
Ba Tơ là huyện miền núi của tỉnh Quảng Ngãi có diện tích rừng và đất lâm
nghiệp 97.278,6 ha, chiếm 85,58 % tổng diện tích tự nhiên. Diện tích đất có
rừng không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế mà còn giữ vị trí chiến lược về an ninh,
quốc phòng và bảo vệ môi trường sinh thái. Toàn huyện có 20 xã, thị trấn; Dân
số hơn 50.000 người, dân tộc H’re chiếm khoảng hơn 85%. Là huyện có diện
tích rừng lớn nhất tỉnh Quảng Ngãi, địa bàn rộng, có đường Quốc lộ 24 chạy
qua với chiều dài hơn 56 Km nối liền với các tỉnh Tây Nguyên, nhiều đường
tỉnh lộ và giáp ranh với nhiều huyện trong và ngoài tỉnh Quảng Ngãi; các vùng
rừng tự nhiên trên địa bàn huyện có chức năng phòng hộ, giữ, điều tiết nước cho
các sông, hồ, đập lớn nhỏ trên địa bàn huyện để phục vụ sản xuất nông nghiệp
điều hòa khí hậu…. Đồng thời là nơi cư trú sinh trưởng và phát triển của nhiều
loại động, thực vật quý hiếm như: Hổ, Gấu, Rùa vàng, Chà vá chân xám….
Thực vật có: Trầm hương, Lim xanh, Gõ… Dưới tán rừng còn có song mây, Ba
kích, Sâm nam và nhiều động, thực vật khác. Hiện nay, nhu cầu lập trại nuôi
sinh sản, sinh trưởng động vật hoang dã trên địa bàn ngày càng tăng, không
những phục vụ nhu cầu về lợi nhuận kinh tế, mà một số gia đình còn xem đây là
thú vui, chơi cảnh. Trên địa bàn hiện nay có trên 10 trại đăng ký nuôi sinh sản,
sinh trưởng động vật hoang dã thông thường như: Nai, Hươu sao, Heo rừng,
4
Nhím theo hướng dẫn tại Công văn số 515/CKL-VPCITES ngày 14/5/2007
của Cục Kiểm lâm Về việc đăng ký trại nuôi sinh sản, sinh trưởng động vật
hoang dã thông thường.
Với thực trạng trên, ngày 26/7/2010 ông Thái Ngọc Hùng, hiện ở thị trấn Ba Tơ,
huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi đi thăm người em ở xã Ba Tiêu, huyện Ba Tơ và

được người em cho 01 (một) con Sóc bay, giới tính cái, ông thấy đẹp và đem về
nuôi để làm cảnh và ông nuôi được khoảng 3 tuần thì nó sinh ra được 02 con
Sóc con.
2. Mô tả tình huống:
Vào lúc 09 giờ 00, ngày 18 tháng 8 năm 2010, nhận được tin báo của nhân dân
“tại nhà ông Thái Ngọc Hùng, hiện ở thị trấn Ba Tơ, huyện Ba Tơ có nuôi, nhốt
động vật hoang dã thuộc (loài: Sóc bay)”, có 3 cá thể: 01 con Sóc mẹ, 02 con
Sóc con.
Nhận được tin báo của nhân dân vào lúc 10 giờ 00 ngày 18/8/2010 Hạt Kiểm
lâm phối hợp với Công an huyện Ba Tơ, UBND thị trấn Ba Tơ có mặt tại nhà
ông Thái Ngọc Hùng để kiểm tra, xác minh tin báo. Qua kiểm tra, Đoàn kiểm
tra phát hiện có 03 con Sóc bay (01 Sóc bay mẹ và 02 con Sóc bay con mới sinh
được hai ngày), sau khi đối chiếu, nhận định loài thì đây thuộc loài Sóc bay
Xám, thuộc nhóm IIB, (Nghị định số 32/2006/NĐ-CP) và ông Hùng không có
giấy tờ chứng minh nguồn gốc của 03 con Sóc bay trên, Đoàn kiểm tra tiến
hành lập biên bản vi phạm về nuôi nhốt trái phép động vật hoang dã và đề nghị
ông Hùng giao nạp 03 con Sóc bay xám cho cơ quan chức năng để lập hồ sơ xử
lý và có biện pháp bảo tồn loài động vật hoang dã quý hiếm này. Ông Hùng
không đồng ý đề nghị trên vì ông cho rằng đây là con Sóc ông được người em là
dân tộc thiểu số trong lúc đi làm rẫy bắt được và tặng cho ông, trong thời gian
qua ông đã cho ăn và chăm sóc được 03 tuần thì nó sinh ra 02 con; nếu tịch thu
03 con Sóc trên thì phải trả tiền công nuôi dưỡng trong thời gian qua cho ông.
Sau đấu tranh đoàn kiểm tra thiết phục và giải thích rõ việc làm của ông là vi
phạm pháp luật về nuôi nhốt trái phép động vật hoang dã và đề nghị ông giao
nạp cho cơ quan chức năng để xử lý theo quy định của pháp luật, lúc này ông
Hùng hiểu và đồng ý giao 03 con sóc trên cho cơ quan chức năng và ký vào
biên bản vi phạm.
PHẦN II. PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG
2.1.Mục đích phân tích tình huống.
- Tuyên truyền cho cán bộ, nhân dân ngày càng nâng cao nhận thức về bảo tồn

đa dạng sinh học, bảo tồn nguồn gen các loài sinh vật đang có nguy cơ tuyệt
chủng trên một vùng, một Quốc gia nói riêng, toàn cầu nói chung; đồng thời
nhằm nâng cao pháp chế xã hội Chủ nghĩa, tăng cường tính răn đe, giáo dục
pháp luật về Bảo vệ các loài động vật hoang dã nguy cấp quý hiếm;
5
- Xử lý nghiêm minh những tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm Luật Bảo vệ
và phát triển rừng, Luật đa dạng sinh học với phương châm: đúng người, đúng
tôi, tránh oan sai, có lý, có tình;
- Trong quá trình xử lý vi phạm, tang vật phải đảm bảo an toàn cho động vật
hoang dã sinh trưởng, phát triển tốt, đặc biệt ưu tiên phát triển nguồn gen tại
khu vực tự nhiên chúng đang sinh sống và phát triển (địa phương).
2.2. Cơ sở lý luận
Tình huống này được áp dụng các văn bản luật và pháp luật như sau:
- Luật Bảo vệ và Phát triển rừng năm 2004;
- Luật Đa dạng sinh học ngày 13/11/2008;
- Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002; Pháp lệnh xử lý vi phạm hành
chính đã được sửa đổi, bổ sung năm 2007 và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số
Điều của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính của Ủy ban Thường vụ Quốc hội
số 04/2008/UBTVQH12 ngày 02/4/2008;
- Nghị định số 128/2008/NĐ-CP ngày 16/12/2008 của Chính phủ quy định chi
tiết thi hành một số Điều của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 và
Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số Điều của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành
chính năm 2008;
- Nghị định số 32/2006/NĐ-CP ngày 30/3/2006 của Chính phủ về quản lý thực
vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm;
- Nghị định số 99/ 2009/NĐ-CP ngày 02/11/2009 của Chính phủ quy định về xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý
lâm sản;
- Chỉ thị 1284/CT-BNN-KL ngày 11/4/2007 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn về việc tăng cường công tác quản lý các trại nuôi sinh sản, sinh

trưởng và cơ sở trồng cấy nhân tạo động vật, thực vật hoang dã.
Trên địa bàn huyện, trong năm 2008, 2009 có 02 vụ hộ gia đình bắt được Vọoc
Chà vá chân xám về nuôi, có khai báo với Kiểm lâm và Kiểm lâm huyện đề
nghị hộ gia đình tự nguyện giao nạp và Hạt Kiểm lâm đã điện thoại báo Trung
6
tâm cứu hộ Linh trưởng Việt nam đến kiểm tra, lập hồ sơ và đem về Trung tâm
để cứu hộ, bảo tồn.
2.3. Phân tích diễn biến tình huống.
Để xử lý vấn đề này là cả một vấn đề khó khăn phức tạp, cần phải có sự đồng
tình ủng hộ của các cấp, các ngành trong việc thực thi Luật Bảo vệ và Phát triển
rừng, bảo vệ các loài động vật hoang dã.
- Cần phải phân tích hài hòa giữa tính pháp lý với tính nhân đạo; lợi ích kinh tế
và lợi ích xã hội, bảo vệ lợi ích chính đáng của các tổ chức, cá nhân; những sai
phạm đều phải được xử lý theo đúng quy định, đúng pháp luật mọi người đều
bình đẳng trước pháp luật.
- Làm rõ mức độ sai phạm của ông Thái Ngọc Hùng về việc nuôi nhốt động vật
hoang dã trái phép, đồng thời phải điều tra, xác minh người em mà ông Hùng
khai để làm rõ mức độ sai phạm về săn, bắt động vật hoang dã trái phép.
- Đảm bảo thực thi nghiêm minh các quy định của pháp luật trong lĩnh vực quản
lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản nhất là đối với động vật rừng.
- Tuyên truyền, phổ biến cho nhân dân nhận thức đầy đủ về pháp luật nhất là
luật bảo vệ và phát triển rừng, luật bảo vệ môi trường, các văn bản quy phạm
pháp luật về bảo tồn và phát triển động vật hoang dã, đặc biệt là các loài nguy
cấp quý hiếm, những loài có giá trị kinh tế cao nhằm quản lý bền vững tài
nguyên động vật hoang dã ở nước ta.
- Thấy rõ vai trò trách nhiệm, những mặt yếu kém của các cơ quan quản lý hành
chính nhà nước, chính quyền địa phương trong lĩnh vực quản lý, bảo vệ động
vật rừng từ đó có phương hướng khắc phục.
2.4. Nguyên nhân xảy ra tình huống
- Hệ thống pháp luật của nước ta còn hạn hẹp, trùng lập, nhiều sơ hở, thậm chí

còn mâu thuẫn, làm cho mỗi người dân khó hiểu, dễ gây nên tình trạng không
thống nhất giữa các ngành, các địa phương. Cách giải quyết vụ việc đôi lúc còn
tùy tiện, theo cảm tính cá nhân.
- Từ những sự việc đã rồi (gấu, hổ, ) Nhà nước không có biện pháp xử lý thích
đáng, để dẫn tới vụ việc vi phạm như tình huống này làm khó xử lý cho các cơ
quan chúc năng, dễ xảy ra tình trạng coi thường pháp luật.
- Đối với lực lượng Kiểm lâm, hiện nay vẫn còn thiếu về số lượng, yếu về chất
lượng; về trang thiết bị, kinh phí và phương tiện phục vụ công tác còn gặp nhiều
khó khăn, một vài cá nhân còn tùy tiện, nhũng nhiễu, xử lý vụ việc theo cảm
tính làm mất lòng tin đối với nhân dân.
7
- Công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật chưa thực hiện tốt và đạt hiệu quả
chưa cao; nhất là Luật Bảo vệ & Phát triển rừng và những quy định của Nhà
nước về bảo vệ động vật hoang dã chưa được phổ biến rộng rãi trong mọi tầng
lớp nhân dân, từ đó nhận thức của đại bộ phận nhân dân còn kém, chưa thấy
được lợi ích của tài nguyên rừng là vô giá, là cần thiết cho sự sống, nên cần thiết
phải bảo tồn và phát triển.
- Công tác phối hợp giữa các ngành, các cấp chưa đồng bộ, chính quyền địa
phương chưa thực hiện đúng chức năng quản lý của mình, chưa phát huy được
sức mạnh của quần chúng nhân dân trong việc thực thi nhiệm vụ quản lý rừng,
bảo vệ rừng và quản lý lâm sản.
2.5. Hậu quả:
Nếu vi phạm xử lý không đúng quy định của pháp luật thì:
- Tình trạng nuôi nhốt, buôn bán trái phép động vật hoang dã xảy ra ngày càng
phức tạp; không thể bảo tồn được đa dạng sinh học, làm phá vỡ cân bằng sinh
thái, thậm chí có thể đe dọa đến tính mạng và tài sản của nhân dân, làm ảnh
hưởng tiêu cực đến sự phát triển của nền kinh tế đất nước.
- Sẽ trở thành tiền lệ xấu, nhiều cá nhân lợi dụng những kẽ hở của pháp luật để
khuyến khích việc nuôi nhốt động vật hoan dã trái phép, làm gián tiếp thúc đẩy
hoạt động khai thác thú rừng, gây khó khăn cho cơ quan quản lý.

- Không có tác dụng răn đe, giáo dục các đối tượng vi phạm. Làm giảm lòng tin
của nhân dân đối với Đảng và cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, gây
ra dư luận không tốt, bất bình trong nhân dân, dẫn đến việc thực thi pháp luật
trong cộng đồng dân cư bị hạn chế.
PHẦN III. XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
Quản lý hành chính nhà nước luôn là một vấn đề phức tạp và liên tục nảy sinh
những vấn đề mới khác nhau; những vấn đề có tầm vĩ mô, lại vừa phải giải
quyết từng vụ việc cụ thể xảy ra trong thực tiển. Trong quá trình thực hiện quản
lý hành chính nhà nước, lợi ích của nhà nước, lợi ích của toàn xã hội và lợi ích
của nhân dân, của một nhóm người hoặc của một cá nhân nào đó. Vấn đề là
phải lựa chọn được sự giải quyết hài hòa giữa lợi ích Nhà nước, lợi ích chung
của toàn xã hội với lợi ích của nhân dân. Quản lý hành chính nhà nước cũng
luôn làm phát sinh những mâu thuẫn, Lĩnh vực quản lý càng rộng, càng phức
tạp thì những mâu thuẫn phát sinh càng nhiều.Vấn đề là phải có những chủ
trương, chính sách phù hợp để giải quyết những vấn đề phức tạp, sắp xếp lại trật
tự có kỷ cương có pháp luật.
8
3.1. Mục tiêu xử lý tình huống
- Làm rõ hành vi vi phạm pháp luật của ông Thái Ngọc Hùng và các tổ chức, cá
nhân có liên quan.
- Đảm bảo thực thi nghiêm minh các quy định của pháp luật trong lĩnh vực quản
lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản nhất là đối với động vật rừng. Tổ chức,
cá nhân sai phạm đều phải được xử lý theo đúng quy định, mọi người đều bình
đẳng trước pháp luật.
- Kết hợp xử lý vi phạm với công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật đối với
đối tượng vi phạm.
- Thấy rõ những việc làm được, chưa làm được, những mặt yếu của các cơ quan
quản lý hành chính nhà nước, của chính quyền địa phương trong lĩnh vực quản
lý, bảo vệ động vật rừng vốn rất phức tạp, nhạy cảm, từ đó có phương hướng
khắc phục.

- Xử lý vi phạm cũng đồng thời tạo điều kiện để bảo vệ được con vật đang gây
nuôi. Đối xử nhân đạo và thiện chí với vật nuôi là một trong những mục đích
mà các tổ chức bảo vệ động vật quốc tế mong muốn và yêu cầu các quốc gia
thực hiện.
3.2. Đề xuất và lựa chọn phương án xử lý
Sau khi xem xét tính chất và mức độ vi phạm của đương sự, căn cứ vào hình
thức và mức xử phạt cho từng hành vi vi phạm;
Căn cứ bảng tính giá xử phạt tang vật vi phạm hành chính của Hội đồng định
giá của huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi ngày 25 tháng 8 năm 2010;
Xét thấy nhân thân đối với đương sự Thái Ngọc Hùng tuy có vi phạm Pháp luật
về hành vi nuôi nhốt động vật hoang dã nhưng có thái độ biết ăn năng, hối lỗi,
thành khẩn khai báo rõ ràng, không che dấu hành vi vi phạm của bản thân, giúp
cho các cơ quan chức năng thuận lợi trong công tác điều tra, xác minh. Pháp
luật nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt nam, xem đây cũng là tình tiết giảm
nhẹ đối với đương sự Thái Ngọc Hùng, chúng tôi đưa ra 02 phương án xử lý
như sau:
* Phương án I:
9
- Căn cứ điểm a, Khoản 1, Điều 19, Nghị định số 99/2009/NĐ-CP ngày
02/11/2009 của Chính phủ;
- Phạt tiền: 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng) về hành vi nuôi nhốt động vật rừng
loại quý, hiếm nhóm IIB trái quy định của Nhà nước.
2. Hình thức phạt bổ sung:
- Tịch thu toàn bộ 03 (ba) con Sóc bay xám (01 con Sóc mẹ, 02 Sóc con).
- Tang vật: Giao Hạt Kiểm lâm huyện Ba Tơ tham mưu cho UBND huyện Ba
Tơ, tỉnh Quảng Ngãi thành lập Đoàn liên ngành gồm: Hạt Kiểm lâm, Công an
huyện, Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện, Trạm thú y huyện,
UBND thị trấn Ba Tơ, Đảng ủy, UBND xã Ba Tiêu, huyện Ba Tơ tiến hành thả
03 (ba) con Sóc bay xám trên về rừng tự nhiên nơi chúng sinh sống (tiểu khu
388, xã Ba Tiêu, huyện Ba Tơ) để bảo tồn nguồn gen động vật hoang dã nguy

cấp quý hiếm này.
* Ưu điểm: xử lý nghiêm minh đối với đối tượng vi phạm về nuôi nhốt động vật
hoang dã quý hiếm; nâng cao tính răn đe, giáo dục, đồng thời tuyên truyền cho
nhân dân trên địa bàn hiểu hơn về việc bảo tồn các loại động vật hoan dã quý
hiếm; bảo tồn được nguồn gen của loài Sóc bay xám cho khu vực rừng tự nhiên
miền trung nói chung và tỉnh Quảng Ngãi nói riêng;
* Khuyết điểm: vì hai con Sóc con mới sinh nên sức khỏe còn yếu, nếu thả về
rừng tự nhiên chúng dể bị chết, hiệu quả công tác bảo tồn không cao.
* Phương án II:
1. Hình thức phạt chính:
- Căn cứ điểm a, Khoản 1, Điều 19, Nghị định số 99/2009/NĐ-CP ngày
02/11/2009 của Chính phủ;
- Phạt tiền: 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng) về hành vi nuôi nhốt động vật rừng
loại quý, hiếm nhóm IIB trái quy định của Nhà nước.
2. Hình thức phạt bổ sung:
- Tịch thu toàn bộ 03 (ba) con Sóc bay xám (01 con Sóc mẹ, 02 Sóc con).
- Tang vật: Giao Chi cục Kiểm lâm phối hợp với các ngành chức năng có liên
quan xử lý số động vật rừng tịch thu theo đúng quy định của pháp luật.
Do Cơ quan Kiểm lâm không có chuồng, trại để nuôi nhốt động vật hoang dã
10
trong thời gian tạm giữ chờ xử lý, không có chuyên viên cứu hộ chăm sóc thú,
hiện tại thú bị nhốt nhiều ngày trong bao bì không đảm bảo, tình trạng thú bị
yếu. Vì vậy các ngành chức năng có liên quan đã thống nhất giao toàn bộ số
động vật nói trên cho Trung tâm cứu hộ động vật hoang dã nguy cấp quý hiếm
Việt Nam để tiếp tục chăm sóc, cứu hộ và thả chúng về nơi cư trú tự nhiên.
* Ưu điểm: xử lý nghiêm minh đối với đối tượng vi phạm về nuôi nhốt động vật
hoang dã quý hiếm; nâng cao tính răn đe, giáo dục, đồng thời tuyên truyền cho
nhân dân trên địa bàn hiểu hơn về việc bảo tồn các loại động vật hoan dã quý
hiếm; hiệu quả bảo tồn nguồn gen động vật quý hiếm (Sóc bay xám) cao.
* Khuyết điểm: làm giảm đi nguồn gen động vật hoang dã quý hiếm loài Sóc

bay xám cho khu vực rừng tự nhiên miền trung nói chung, tỉnh Quảng Ngãi nói
chung;
3.3. Lựa chọn phương án xử lý.
Sau khi đưa ra 2 phương án xử lý theo tôi chọn phương án 2 là đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật.
- Xử lý như phương án 2 vừa đảm bảo về tính pháp lý xã hội chủ nghĩa, xử lý
đúng người, đúng tội, hợp tình, hợp lý; đồng thời tuyên truyền cho nhân dân
trên địa bàn hiểu hơn về việc bảo tồn các loại động vật hoang dã quý hiếm, tính
răn đe, giáo dục cao; hiệu quả bảo tồn nguồn gen động vật quý hiếm (Sóc bay
xám) cao.
- Trên đây chỉ là cách nhận định của cá nhân về vấn đề “xử lý tình huống”.
PHẦN IV. KIẾN NGHỊ
4.1. Đối với Đảng và nhà nước:
- Cần có chủ trương và các dự án thiết thực để ổn định và nâng cao cuộc sống
vật chất, tinh thần cho đồng bào miền núi, đồng bào các dân tộc ít người, đồng
bào vùng sâu, vùng xa, để hạn chế việc họ vào rừng săn bắt, nuôi nhốt động vật
rừng.
- Cần xem xét sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện những văn bản quy định trong xử lý
vi phạm hành chính và có sự thống nhất từ trung ương đến địa phương, tránh sự
chồng chéo trong văn bản pháp luật. Chế tài phải đủ tính răn đe, giáo dục nhằm
tạo hành lang pháp lý cho công tác quản lý rừng và bảo vệ động vật rừng.
11
- Chỉ đạo các ngành chức năng phối hợp với các Hội, Đoàn thể của tỉnh, huyện,
xã, cấp ủy, chính quyền địa phương tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục
pháp luật về Bảo vệ rừng, Luật Đa dạng sinh học và bảo vệ động vật hoang dã
nguy cấp quý hiếm;
- Đối với tỉnh Quảng Ngãi cần nâng cao hơn nữa hiệu quả quản lý nhà nước về
lĩnh vực quản lý bảo vệ rừng nói chung, trong đó có động vật hoang dã trên địa
bàn tỉnh.
4.2. Đối với cơ quan chức năng:

- Theo quy định của Luật Bảo vệ và Phát triển rừng, Kiểm lâm là lực lượng
chuyên trách thừa hành pháp luật trong lĩnh vực quản lý, bảo vệ rừng quản lý
lâm sản, nhưng lực lượng Kiểm lâm vẫn còn yếu về nghiệp vụ quản lý, bảo vệ
động vật rừng, kiến thức về bảo tồn động vật hoang dã còn hạn chế; kinh phí
hoạt động và những trang thiết bị phục vụ công tác còn thiếu. Nhà nước cần có
chính sách đầu tư trang thiết bị, từng bước nâng cao trình độ chuyên môn cho
lực lượng Kiểm lâm, để đủ mạnh đảm đương nhiệm vụ.
- Khuyến khích, khuyến cáo, hỗ trợ pháp lý, bảo vệ sở hữu trí tuệ. Nhân rộng
điển hình các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân có sáng kiến, phát minh mới trong
quản lý, gây nuôi, thu lợi nhuận cao, chấp hành các quy định của nhà nước
trong công tác bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học;
- Kiểm lâm là lực lượng quan trọng quyết định sự thành công trong công tác
quản lý bảo vệ rừng, trong đó có động vật hoang dã. Do đó nhà nước cần ban
hành chế độ, chính sách hỗ trợ và đầu tư cho công tác đào tạo, bồi dưỡng lực
lượng Kiểm lâm nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực công tác, có
phẩm chất đạo đức tốt, lập trường tư tưởng vững vàng.
PHẦN V. KẾT LUẬN
Cùng với tiến trình đổi mới toàn diện đất nước, chúng ta đang phấn đấu xây
dựng một nhà nước pháp quyền hoạt động có hiệu lực và hiệu quả. Nhà nước
pháp quyền quản lý xã hội bằng pháp luật. Pháp luật là công cụ để thể chế hoá
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước. Đồng thời, pháp luật
cũng thể hiện ý chí và nguyện vọng của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động. Vì vậy, cần phải đưa pháp luật vào cuộc sống để mọi công dân sống và
làm việc theo pháp luật.
Việc áp dụng các phương án xử lý trên nhằm bảo vệ được động vật rừng, cũng
chính là bảo vệ sự cân bằng sinh thái, bảo vệ sự đa dạng sinh học, bảo vệ môi
12
trường sống của con người. Có tác dụng giáo dục, răng đe các đối tượng vi
phạm, ngăn ngừa hành vi vi phạm. Đảm bảo pháp luật được thực thi nghiêm
minh.

Qua tình huống và cách xử lý vụ việc tàng trữ, buôn bán đông vật trái phép đã
trình bày với mục đích duy nhất là nhằm tìm ra giải pháp thích hợp để bảo tồn
và phát triển động vật hoang dã, đặc biệt là loài nguy cấp, quý, hiếm, những loài
có giá trị kinh tế cao nhằm quản lý bền vững tài nguyên rừng trong đó có động
vật hoang dã. Góp phần phát triển nghề chăn nuôi động vật hoang dã phục vụ
mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của tỉnh và giảm áp lực săn bắt, kinh doanh,
buôn bán động vật hoang dã trong tự nhiên.
- Đảm bảo pháp luật được thực thi nghiêm minh. Có tác dụng giáo dục, răn đe
các đối tượng vi phạm, ngăn ngừa hành vi, vi phạm. Bảo vệ động vật rừng cũng
chính là bảo vệ sự cân bằng sinh thái, bảo vệ sự đa dạng sinh học, bảo vệ môi
trường sống của con người
Trong khuôn khổ tình huống cũng như thời gian hạn hẹp, những tài liệu tham
khảo hạn chế, nên chỉ mới nêu lên thực trạng tình hình vi phạm Luật Bảo vệ
rừng và Phát triển rừng dừng lại trên một phạm vi nhỏ ở địa phương. Thông qua
tình huống này phần nào nói lên được những khó khăn, thuận lợi, những hạn
chế những tiêu cực hiện đang diễn ra thực tế ngoài xã hội. Mong tìm ra được
những giải pháp, những biện pháp tạo một hướng giải quyết thích hợp trong
điều kiện thực tiễn hiện nay trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. Chắc chắn trong quá
trình đề xuất còn nhiều thiếu xót mong quý thầy cô giáo thông cảm giúp đỡ bổ
sung thêm để bài tình huống hoàn chỉnh và chặt chẽ hơn./.
***
13
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: Chỉ thị 1284/CT-BNN-KL ngày
11/4/200 về việc tăng cường công tác quản lý các trại nuôi sinh sản, sinh trưởng
và cơ sở trồng cấy nhân tạo động vật, thực vật hoang dã.
- Chính phủ ban hành: Nghị định số 32/2006/NĐ-CP ngày 30/3/2006 Về quản
lý thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm;
- Chính phủ ban hành Nghị định số 128/2008/NĐ-CP ngày 16/12/2008 Quy
định chi tiết thi hành một số Điều của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm

2002 và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số Điều của Pháp lệnh xử lý vi phạm
hành chính năm 2008;
- Chính phủ ban hành: Nghị định số 99/ 2009/NĐ-CP ngày 02/11/2009 Quy
định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và
quản lý lâm sản;
- Quốc hội ban hành: Luật Bảo vệ và Phát triển rừng năm 2004;
- Quốc hội ban hành: Luật Đa dạng sinh học ngày 13/11/2008;
- Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002;
Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính đã được sửa đổi, bổ sung năm 2007 và
Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số Điều của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành
chính của Ủy ban Thường vụ Quốc hội số 04/2008/UBTVQH12 ngày
02/4/2008;

×