Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Sử dụng hiêu quả sách giáo khoa trong đổi mới phương pháp dạy học môn lịch sử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.46 KB, 26 trang )

MỤC LỤC
Nội dung Số trang
A. MỞ ĐẦU
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài ……………………………………………………………… 2
2. Ý nghóa và tác dụng của vấn đề nghiên cứu……………………………………3
3. Phạm vi nghiên cứu…………………………………………………………… 3
4. Phương pháp nghiên cứu……………………………………………………… 3
II.PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH
1. Cơ sở pháp lý………………………………………………………………… 4
2. Cơ sở lý luận……………………………………………………………………5
3. Cơ sở thực tiễn……………………………………………………………… 7
B.NỘI DUNG
I.MỤC TIÊU ĐỀ TÀI……………………………………………………………….8
II. THỰC TRẠNG ĐỀ TÀI
1. Khái quát phạm vi…………………………………………………………………8
2. Thực trạng đề tài…… …………………………………………………………… 8
3. Nguyên nhânthựctrạng…………………………………………………………….9
III. MÔ TẢ ĐỀ TÀI
1. Cơ sở đề xuất giải pháp……………………………………………………………10
2. Các giải pháp chủ yếu…… ……………………………………………………… 10
3. Khả năng áp dụng………………………………………………………………….18
4. Lợi ích kinh tế – xã hội …………………………………………………………….18
C. KẾT LUẬN
1. Kết luận……………………………………………………………………………. 23
2. Kiến nghò …………….……………………………………………………………. 23
TÀI LIỆU THAM KHẢO …………………………………………………………….25
- 1 -
A. MỞ ĐẦU
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài.


Công cuộc đổi mới đất nước hiện nay đòi hỏi giáo dục phổ thông đào tạo những
con người phát triển toàn diện phục vụ sự nghiệp Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa đất
nước. Mỗi môn học nhà trường phổ thông với những đặc trưng của mình đều góp phần
đào tạo thế hệ trẻ trong đó có môn Lòch sử.
Trong lý luận cũng như trong thực tiễn, bộ môn Lòch sử giữ vai trò quan trọng đối
với việc giáo dục thế hệ trẻ. Xixerông đã từng nói"Lòch sử là thầy dạy của cuộc sống"
lòch sử là một quá trình diễn biến liên tục. Học lòch sử không phải chỉ để biết quá khứ
mà còn để hiểu hiện tại và tiên đoán trong tương lai. Vì vậy từ những hiểu biết về lòch
sử con người có thể vững vàng bước vào tương lai.
Đối với thế hệ học sinh từ những hiểu biết về lòch sử Việt Nam, lòch sử Thế giới
các em sẽ hiểu và tự hào về truyền thống dân tộc, có thái độ và nhận thức đúng đắn
trong quá trình học tập và rèn luyện những tư duy phẩm chất tốt đẹp. Biết nắm các sự
kiện để phân tích và thấy được mối liên hệ giữa các sự kiện với nhau, rút ra những bài
học quy luật lòch sử.
Hiện nay, để phục vụ cho quá trình dạy học ở nhà trường có nhiều tài liệu dạy
học khác như sách bài tập, sách đọc thêm, sách tra cứu,… giúp cho quá trình học của
học sinh và sách dùng cho giáo viên như sách hướng dẫn chương trình, hướng dẫn giảng
dạy,… đã tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình dạy bộ môn. Tuy vậy sách giáo khoa là
sách được viết theo chương trình dạy học đã quy đònh, dành cho học sinh sử dụng chính
thức trong qua trình dạy học do Bộ giáo dục và Đào tạo ban hành. Và là tài liệu để giáo
viên sử dụng trong việc chuẩn bò và tiến hành quá trình giảng dạy.
Nắm vững yêu cầu đổi mới chương trình, nội dung sách giáo khoa và phương
pháp dạy học lòch sử ở trường phổ thông hiện nay. Nhằm phát huy những ưu điểm, khắc
phục những hạn chế của thực tiễn dạy học bộ môn lòch sử trong những năm qua, bản
- 2 -
thân tôi chọn đề tài: "Sử dụng hiệu quả Sách giáo khoa trong đổi mới phương pháp
dạy học môn lòch sử."
2. Ý nghóa và tác dụng của đề tài
Giúp giáo viên rèn luyện kỉ năng cần thiết khi sử dụng sách giáo khoa và làm
việc với các nguồn tư liệu lòch sử khác để thực hiện tiết dạy lòch sử đạt hiệu quả cao.

Đối với học sinh, nhằm hình thành kỉ năng làm việc với sách giáo khoa. Đồng
thời rèn luyện, phát triển cho học sinh kỉ năng nghiên cứu tìm tài liệu tham khảo để trả
lời các câu hỏi và hoàn thành các bài tập lòch sử trong sách giáo khoa.
Hiệu quả của một bài học lòch sử phụ thuộc phần lớn vào giáo viên: giáo án, đồ
dùng trực quan, tài liệu tham khảo,… Mặt khác, sự chủ động lónh hội bài học của học
sinh cũng ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả của giờ học. Vì vậy dạy - học lòch sử đòi
hỏi người học sinh tìm hiểu kỹ kiến thức sẵn có trong sách giáo khoa để tạo sự hứng thú
trong tiết học lòch sử.
3. Phạm vi nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, tôi tiến hành tham khảo ý kiến, tiếp thu kinh nghiệm
của nhiều giáo viên trong tổ bộ môn, đồng thời dựa vào kinh nghiệm của bản thân và
hiệu quả thực tế của các tiết dạy có hướng dẫn học sinh tự học qua sách giáo khoa, đặc
biệt là học sinh khối lớp 12.
Về phạm vi nghiên cứu, chúng tôi chỉ đơn cử ở một số bài học lòch sử trong
chương trình lớp 12.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu đóng một vai trò hết sức quan trọng. Để thực hiện đề
tài này, tôi đã sử dụng phối hợp các phương pháp nghiên cứu sau:
- Giáo viên dựa trên thực tiễn kinh nghiệm giảng dạy phong phú của mình.
- Kiểm tra năng lực thực hành của học sinh qua các tiết dạy thực tế trên lớp, cho
bài tập về nhà nghiên cứu, sưu tầm tư liệu… ở các lớp 12 A2, 12 A3.
- Nghiên cứu phương pháp dạy học lòch sử, trên cở sở đó nắm vững cơ sở khoa
học lòch sử để xác đònh một cách rõ ràng kiến thức cơ bản, từ đó lựa chọn phương pháp
thích hợp nhất.
- 3 -
II. PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU.
1.1. CỞ SỞ PHÁP LÝ.
Hiện nay, giáo dục nói chung và giáo dục phổ thông nói riêng, trong đó có bộ
môn Lòch sử đang được đổi mới thực sự nhằm thực hiện có hiệu quả công cuộc công

nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Sách giáo khoa là loại sách cung cấp kiến thức, được biên soạn với mục đích dạy
và học. Thuật ngữ sách giáo khoa còn được hiểu là loại sách chuẩn cho một ngành học.
Sách giáo khoa được phân loại theo đối tượng sử dụng hoạc chủ đề của sách.
Ở cấp phổ thông, Sách giáo khoa là sự thể hiện những nội dung cụ thể của
chương trình phổ thông. Trên thế giới, có nhiều bộ sách giáo khoa khác nhau được biên
soạn cho cùng một môn học. Tại Việt Nam, hiện chỉ tồn tại một bộ sách giáo khoa duy
nhất cho một môn học.
Kiến thức trong sách giáo khoa là một hệ thống kiến thức khoa học, chính xác,
theo một trình tự logic chặt chẽ, được gia công về mặt sư phạm cho phù hợp với trình
độ học sinh và thời gian học tập. Ngoài phần kiến thức, sách giáo khoa có một phần rèn
kỹ năng cho học sinh như hệ thống câu hỏi và bài tập sau bài học.
Cùng với việc đổi mới chương trình môn Lòch sử THPT. Theo quan điểm mới,
sách giáo khoa là tài liệu cơ bản phục vụ học tập của học sinh, được biên soạn theo
chương trình và quán triệt mục tiêu giáo dục đã được xác đònh. Giáo viên là người chỉ
đạo lớp học, tổ chức các hoạt động và giao lưu cho học sinh trong quá trình giáo dục –
dạy học, làm cho mỗi học sinh phát huy đầy đủ năng lực và trách nhiệm, phát huy tính
sáng tạo trong các hoạt động của mình, đồng thời giáo viên còn là người hướng dẫn quá
trình tự giáo dục của học sinh.
Mặt khác, sách giáo khoa viết cho học sinh, nhưng đối với giáo viên, nó vẫn là
chỗ dựa quan trọng, đáng tin cậy trong giảng dạy. Tuy nhiên sách giáo khoa thường
"tónh" hơn sự phát triển nhanh chóng của khoa học lòch sử. Vì vậy giáo viên không bao
giờ thoả mãn với việc chỉ nắm được nội dung sách giáo khoa, mà phải luôn luôn nghiên
cứu, thêm các tài liệu mới để nâng cao trình độ khoa học của mình, nhằm làm cho bài
- 4 -
học phong phú sâu sắc, phản ánh kòp thời tính hiện đại của kiến thức lòch sử cần truyền
thụ cho học sinh. Bàn về vấn đề này, trong cuốn: “phương pháp dạy học lòch sử”
(Phan Ngọc Liên – Trần Văn Trò) cũng đã nêu rõ: Do đặc trưng của việc học tập lòch
sử, các loại tài liệu tham khảo học tập khác (ngoài sách giáo khoa) có ý nghóa quan
trọng trong việc khôi phục, tái hiện hình ảnh quá khứ. Nó là căn cứ khoa học, bằng

chứng về tính chính xác, tính cụ thể, phong phú của sự kiện lòch sử học sinh cần thu
nhận, nó giúp các em khắc phục việc "hiện đại hoá" lòch sử, hoặc "hư cấu" sai sự thực.
Trên cơ sở tiếp thu những thành tựu nghiên cứu nói trên, đồng thời với những
điều kiện thực tế của nhà trường, chúng tôi nêu ra một số biện pháp thích hợp để sử
dụng sách giáo khoa hiệu quả hơn trong đổi mới dạy học lòch sử.
1.2. CƠ SỞ LÝ LUẬN.
1.2.1 Sách giáo khoa lòch sử ở trường THPT
Sách giáo khoa thể hiện những yêu cầu, nội dung của chương trình. Kiến thức
được trình bày trong sách giáo khoa phải đạt yêu cầu chuẩn mực cho việc truyền thụ,
giáo dục, cho các hình thức đánh giá; kiểm tra học sinh.
Mục tiêu của sách giáo khoa không phải là phát hiện những điều mới về nghiên
cứu lòch sử như một công trình sử học, mà phải giải quyết tốt việc cung cấp những kiến
thức cơ bản, hiện đại cho học sinh, phù hợp với mục tiêu đào tạo và nội dung chương
trình đã quy đònh. Sách giáo khoa không chỉ cung cấp kiến thức mới, cơ bản cho học
sinh mà còn củng cố những hiểu biết đã có, kiểm tra, đánh giá, tra cứu, tham khảo, ứng
dụng, góp phần hình thành phát triển các kỉ năng phương pháp giảng dạy của giáo viên
và học tập của học sinh.
Sách giáo khoa gồm hai phần: kênh chữ và kênh hình.
- Kênh chữ là những thông tin thành văn nhằm để trình bày nội dung tri thức của
môn học, chỉ dẫn về phương pháp học tập và kiểm tra đánh giá về phương pháp học
tập.
- Kênh hình bao gồm những ảnh chụp, tranh vẽ, sơ đồ, đô thò. Có thể chia kênh
hình thành các loại:
+ Loại minh hoạ để cụ thể hoá nội dung một sự kiện quan trọng.
- 5 -
+ Loại cung cấp thông tin (thường là tranh ảnh, tư liệu lòch sử).
+ Loại vừa cung cấp thông tin vừa minh họa cho kênh chữ.
+ Loại dùng để rèn luyện kỉ năng thực hành, kiểm tra kiến thức.
Kênh chữ trong sách giáo khoa phải đáp ứng các yêu cầu sau:
 Phản ánh đúng nội dung, đối tượng nghiên cứu, phù hợp với nội dung trình

bày ở kênh chữ, không có những thông tin sai lệch về mặt khoa học hoặc
làm phân tán sự tập trung của học sinh về sự kiện đang học.
 Màu sắc hài hoà, gần gũi với tự nhiên.
 Các hình ảnh đặt ngay bên cạnh phần kênh chữ phải có nội dung tương
ứng, có bố cục cân đối. Tranh, ảnh, được đánh số thứ tự.
Sách giáo khoa cũng phải có hai phần: bài viết và cơ chế sư phạm. “Bài viết” là
nội dung cơ bản của chương trình được trình bày ngắn gọn trong một số trang nhất đònh
cho mỗi bài học, tiết học. Đây là bộ phận chủ yếu của sách giáo khoa. “Cơ chế sư
phạm” chỉ tất cả những thành tố trong sách giáo khoa, trừ bài viết, dành cho tiết học,
bao gồm các câu hỏi, bài tập, tài liệu tham khảo, bài đọc thêm, phần minh họa. Tỉ lệ
giữa bài viết và cơ chế sự phạm tuỳ thuộc vào lứa tuổi, trình độ học sinh, yêu cầu của
chương trình các cấp. Càng lên lớp trên, dung lượng bài viết nhiều hơn, số lượng các
tranh, ảnh, tư liệu, câu hỏi, bài tập tuy không tăng nhưng đủ để cho học sinh hiểu được
những vấn đề cần nắm vững.
2.2.2. nghóa của việc sử dụng hiệu quả Sách giáo khoa trong đổi mới phương pháp
dạy học môn lòch sử.
Đối với học sinh, sách giáo khoa là tài liệu cơ bản, bắt buộc trong học tập. Nó
được biên soạn theo chương trình của bộ môn một cách hệ thống, giúp học sinh vừa
nắm những kiến thức khoa học cơ bản, hiện đại, vừa phát huy khả năng tự học, tự
nghiên cứu. Nó là phương tiện quan trọng của học sinh để tiếp thu kiến thức mới, ôn
tập củng cố những kiến thức đã học, trả lời các câu hỏi, làm bài tập ở nhà.
Tuy nhiên, sử dụng sách giáo khoa vẫn chỉ là một khâu quan trọng trong hoạt
động dạy học. Nên ngoài ra còn phải biết sử dụng tài liệu tham khảo để giúp học sinh
có thêm cơ sở để nắm vững bản chất các sự kiện, hình thành khái niệm, hiểu rõ những
- 6 -
quy luật, bài học quan trọng của lòch sử, rèn luyện cho học sinh thói quen nghiên cứu
khoa học, phát triển tư duy lòch sử. Vì vậy đi đôi với việc sử dụng hiệu quả Sách giáo
khoa thì tài liệu tham khảo là phương tiện góp phần hiệu quả để hiểu rõ hơn Sách giáo
khoa, góp phần nâng cao chất lượng dạy học.
3. CỞ SỞ THỰC TIỄN.

Hiệu quả của bài học lòch sử phụ thuộc phần lớn vào công việc của giáo viên:
chuẩn bò bài học (giáo án, đồ dùng trực quan, tài liệu tham khảo…), tổ chức điều khiển
giờ học. Sự chủ động lónh hội bài học của học sinh cũng ảnh hưởng đến kết quả giờ
học, quan trọng nhất là tinh thần kỷ luật, hứng thú học tập, tổ chức ở các khâu của quá
trình lên lớp. Trong thực tế giảng dạy lòch sử, nhiều giáo viên có kinh nghiệm đã thể
hiện linh hoạt trong cấu trúc bài học, thể hiện sự sáng tạo và tránh được công thức rập
khuôn trong phương pháp lên lớp, kết hợp hiệu quả giữa hệ thống câu hỏi với việc sử
dụng đa dạng, phong phú các tài liệu như đoạn trích các tác phẩm lòch sử, văn học, … có
tác dụng tốt để tạo sự hứng thú học tập của học sinh. Song bên cạnh đó cũng có những
trường hợp giáo viên thể hiện lối dạy học nhồi nhét kiến thức, không xác đònh được
kiến thức cơ bản trong sách giáo khoa, trình bày một cách khô cứng, không gây cảm
xúc cho học sinh, tạo tâm lí cho học sinh cảm thấy học nhiều, chán nãn môn học.
Từ thực tế trên, tìm hiểu thực trạng này có ý nghóa thiết thực đặc biệt đối với
giáo viên còn ít kinh nghiệm trong giảng dạy. Qua đóù còn góp phần tự nâng cao, hoàn
thiện năng lực, trình độ chuyên môn để đáp ứng những yêu cầu thực tiễn của nền giáo
dục nước ta hiện nay.
- 7 -
B. NỘI DUNG
I. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI
Cấu trúc của sách giáo khoa trước đây ở hầu hết các môn ở THPT nói chung,
môn Lòch sử nói riêng còn đơn giản, không có phần tra cứu các khái niệm, thuật
ngữ,các sự kiện, các nhân vật,… thực tế đó chưa tạo cơ hội thuận lợi cho học sinh khi có
nhu cầu tra cứu, tự học hoặc có rất ít nội dung hướng dẫn người học tiếp cận với phương
pháp học tập, nghiên cứu.
Trong những năm gần đây việc đổi mới chương trình và sách giáo khoa, điều đó
phần nào góp phần giúp giáo viên và học sinh chuyển từ cách dạy thụ động, áp đặt,
sang cách dạy học tích cực, chủ động, sáng tạo, năng lực tự học của học sinh. Tuy vẫn
còn nhiều vấn đề bất cập khi sử dụng sách giáo khoa mới, nhất là nhiều giáo viên cho
rằng chương trình quá tải, sách giáo khoa viết nhiều, còn đối với học sinh lại ngại đọc
sách mà vẫn còn thói quen ỷ lại kiến thức giáo viên cung cấp trên lớp.

Vậy làm thế nào để cho học sinh phải hiểu rằng sách giáo khoa là tài liệu đònh
hướng và hỗ trợ cho việc tự học, tự phát hiện, tự chiếm lónh tri thức mới. Đó chính là
nhiệm vụ của người giáo viên phải hướng dẫn, tổ chức đúng mức thực hành theo năng
lực của người học.
II. THỰC TRẠNG CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1. KHÁI QUÁT PHẠM VI.
Xuất phát từ mục đích, nội dung của bài học, tuỳ theo yêu cầu, hình ảnh cụ thể
của mỗi lớp học mà lựa chọn phương pháp dạy học thích hợp. Trong đề tài nghiên cứu
này, chúng tôi chỉ đề cập đến một số biện pháp sử dụng hiệu quả Sách giáo khoa trong
giảng dạy môn lòch sử.
2. THỰC TRẠNG CỦA ĐỀ TÀI.
Về lí luận cho thấy trong dạy học nói chung, dạy học lòch sử ở trường phổ thông
nói riêng là một quá trình nhận thức. Trong đó, giáo viên tổ chức, dẫn dắt học sinh một
cách có mục đích, có kế hoạch để học sinh nắm vững những tri thức cơ sở về văn hoá,
- 8 -
khoa học và kỉ năng cơ bản, phát triển năng lực nhận thức, dần dần hình thành cơ sở thế
giới quan duy vật biện chứng, nhân cách và đạo đức.
Trong thực tế, quá trình dạy học nói chung, dạy học lòch sử nói riêng rất phức
tạp, đặc biệt là đối với môn lòch sử, giáo viên cần phải truyền thụ cho các em học sinh
cả những kiến thức về lòch sử kinh tế, văn hoá, xã hội. Điều đó đòi hỏi người giáo viên
phải nắm vững và sâu sắc hơn nhiều vấn đế cần thiết như: Mỗi sự kiện trong Sách giáo
khoa đều có thể góp phần vào việc phát triển tư duy học sinh. Song chúng ta cần phải
tập trung vào một số sự kiện lớn, cơ bản làm cơ sở. Để phát triển tư duy của học sinh,
không phải chỉ có sự kiện lòch sử mà còn phải có những hiểu biết khác có liên quan,
như các vấn đề lí thuyết, những kiến thức bổ trợ, kỉ năng, phương pháp nắm và sử dụng
kiến thức.
Tuy vậy, một số giáo viên trong dạy học lòch sử chưa chú trọng khơi gợi học sinh
đặt vấn đề để tìm hiểu, chỉ dừng ở việc thụ động tiếp thu. Hoặc vấn đề đăït ra chưa phải
nhằm vào bản chất, những điều quan trọng để hiểu sự kiện, những chi tiết vụn vặt, hình
thức bên ngoài.

3. NGUYÊN NHÂN CỦA THỰC TRẠNG.
Nguyên nhân của thực trạng trên là do bản thân một số giáo viên vẫn còn quen
với lối dạy một chiều, ngại khó, chưa khai thác tối đa kiến thức hoặc không xác đònh
kiến thức cơ bản ở sách giáo khoa để cung cấp cho học sinh nên khi sử dụng không
phát huy hết tác dụng, giáo viên cũng ngại hướng dẫn học sinh tự học ở nhà….
Xuất phát từ thực trạng việc dạy học lòch sử hiện nay- đa phần học sinh coi Lòch
sử là môn phụ, học chống đối không thích học lòch sử, sợ sử và chán sử…chúng ta cần
nhận thức mới về bộ môn đó là phải đem lại niềm say mê học tập, khơi dậy niềm đam
mê của học sinh kích thức sự tò mò, hứng thú, sáng tạo để các em có thể tự tìm kiếm
những gì không chỉ trong phạm vi kiến thức ở trong sách giáo khoa mà còn cả kiến thức
ngoài xã hội, để các em thấy rằng mỗi bài học lòch sử đều có ích.
Chính vì những thực tế trên,không nên làm ảnh hưởng lớn đến chất lượng dạy
học môn lòch sử, học sinh tỏ ra nhàm chán khi đến tiết học lòch sử. Đặc biệt là ở khối
lớp 12, học sinh đã bắt đầu có xu hướng học lệch, ngại học môn lòch sử.
- 9 -
III. MÔ TẢ GIẢI PHÁP CỦA ĐỀ TÀI
1. CƠ SỞ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP.
Giáo dục tình cảm, thái độ, tư tưởng là một nhiệm vụ quan trọng của giáo dục
Lòch sử trường phổ thông. Ba mặt chuẩn kiến thức, kỉ năng và hướng thái độ được thể
hiện trong việc biên soạn SGK. Trên các mặt lựa chọn và trình bày sự kiện, các loại
kênh hình, câu hỏi, bài tập … tuy phân biệt về mặt kênh hình, kênh chữ trong SGK, song
các bộ phận này gắn chặt, kết hợp vào nhau góp phần giúp cho học sinh nắm được kiến
thức cơ bản (sự kiện, nhân vật lòch sử, đòa điểm, thời gian, khái niệm, nguyên lý, quy
luật, hiểu biết về phương pháp học tập của học sinh…) và năng lực vận dụng kiến thức.
Vì vậy, nhận thức đúng về SGK mới có thể đổi mới phương pháp sử dụng SGK
của thầy (giảng dạy) và học sinh (học tập mà chủ yếu là tự học). Trên cơ sở đó, tôi
mạnh dạn đề xuất một số biện pháp để góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng hiệu quả
SGK trong đổi mới phương pháp dạy học lòch sử.
2. CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU.
2.1 Đọc kó, nghiền ngẫm các sự kiện cơ bản trong sách giáo khoa

Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành chương trình giáo dục phổ thông,
duyệt sách giáo khoa để sử dụng chính thức, ổn đònh thống nhất trong giảng dạy, học
tập ở các cơ sở giáo dục phổ thông, trên cơ sở thẩm đònh của “Hội đồng thẩm đònh
chương trình giáo dục phổ thông và sách giáo khoa”.
Sách giáo khoa không phải là bài giảng để giáo viên đọc cho học sinh chép,
cũng không phải là tài liệu để học sinh học thuộc và nói lại trong giờ kiểm tra bài cũ.
Sách giáo khoa phải đảm bảo những kiến thức cơ bản (chuẩn) được chương trình quy
đònh. Khi giảng dạy và hướng dẫn học sinh sử dụng sách giáo khoa (nghe giảng và tự
học), giáo viên có thể tập trung vào một số vấn đề cơ bản, trong khuôn khổ giờ học,
trình độ cụ thể của học sinh, để học sinh tìm hiểu. Qua việc tổ chức cho học sinh học
tập, giáo viên hướng dẫn các em tự tìm hiểu sách giáo khoa, bổ sung kiến thức cần thiết
để hiểu sách giáo khoa và tập trung vào những kiến thức quan trọng giáo viên đã phát
huy tính tích cực trong dạy và học của thầy và trò.
- 10 -
Việc biên soạn sách giáo khoa lòch sử đã có nhiều đổi mới, nên phương pháp sử
dụng SGK cũng phải đổi mới. Các bài trong sách giáo khoa là tài liệu cơ bản nhất với
câu chữ ngắn gọn, cách viết súc tích, chính xác nên giáo viên hướng dẫn học sinh phải
đọc kó, nghiền ngẫm các sự kiện cơ bản, đánh giá chính thống sự kiện và nhân vật lòch
sử đó. Hiện nay theo chủ trương của Bộ Giáo dục – Đào tạo đã giảm tải chương trình
học chính khóa phần nào giúp cho người học dễ dàng thu nhận kiến thức hơn.
Chẳng hạn, Đối với Bài 1“Sự hình thành trật tự thế giới mới sau Chiến tranh
thế giới thứ hai(1945 - 1949)”, bài này có 2 nội dung trọng tâm:
1. Hội nghò Ian ta ( 2/1945) và những thỏa thuận 3 cường quốc.
2. Sự hình thành Liên Hiệp Quốc.
Nhưng để giúp cho học sinh nắm chắc hơn kiến thức hơn giáo viên cần hướng
dẫn cho học sinh về nhà đọc thêm phần Sự hình thành hệ thống xã hội đối lập : châu
u, sự phân chia hai cực là rõ ràng – Tây u thuộc phạm vi ảnh hưởng của Mó và Đông
u thuộc ảnh hưởng Liên Xô, hình thành hai khối đòa – chính trò rõ ràng. Ở châu Á,
những thoả thuận của Hội nghò Ianta về châu Á đã không diễn ra như các cương quốc
phương Tây mong muốn, nên ở châu Á đã không hình thành hai khu vực đòa – chính trò

mang tính 2 cực như ở châu u, nhất là không có sự đối đầu theo ý thức hệ giữa các
nước châu Á.
Đối với bài 3 “Trung Quốc ” xác đònh kiến thức trọng tâm, chúng ta cần tập
trung vào những nội dung chính sau:
- Sự ra đời của nước CHND Trung Hoa, ý nghóa của sự kiên này. Không cần đi
sâu vào diễn biến của cuộc nội chiến.
- Tập trung vào thời kì cải cách - mở cửa của Trung Quốc 1978.
Nói về Tình hình cách mạng nước ta sau Hiệp đònh Giơnevơ năm 1954, Mó đã
thực hiện mưu đồ thay chân Pháp, lấp chỗ trống ở miền Nam, chúng dựng lên chính
quyền tay sai Ngô Đình Diệm, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc đòa kiểm mới. Vì
vậy, ngay sau Hiệp đònh Giơnevơ, nhân dân miền Nam phải tiến hành cuộc đấu tranh
chống chế độ Mó – Diệm, giữ gìn, phát triển lực lượng cách mạng.
- 11 -
Để làm rõ nhiệm vụ của cách mạng miền Nam, học sinh đọc kó sách giáo khoa,
giáo viên đặt vấn đề: Trước bối cảnh mới ta chủ trương chuyển từ đấu tranh vũ trang
chống Pháp sang đấu tranh chính trò chống chế độ Mó – Diệm. Vậy tại sao ta chủ trương
đấu tranh chính trò chống Mó – Diệm chứ không phải đấu tranh vũ trang như hồi chống
Pháp ?
Giáo viên nhận xét ý kiến của học sinh và chốt ý:
- Sau năm 1954, kẻ thù chính, trực tiếp của nhân dân ta là Mó – Diệm (mạnh và
tàn bạo)
- Lực lượng kháng chiến miền Nam còn non yếu (vì phải tập kết ra Bắc)
- Ta còn thời gian thi hành Hiệp đònh (điều khoản hiệp thương tuyển cử đến
tháng 7/1956 mới được diễn ra) . Vì vậy ta phải kiên trì đấu tranh hoà bình đòi hiệp
thương tổng tuyển cử bảo vệ hoà bình, giữ gìn lực lượng, chống khủng bố, đàn áp,
chống chiến dòch “tố cộng, diệt cộng”, chống trò hề ‘trưng cầu dân ý”, “bầu cử quốc
hội” của Ngô Đình Diệm,…
Qua đây giáo viên có thể mở rộng, chiến dòch “tố cộng, diệt cộng” được coi là
chính sách cơ bản của Mó và chính quyền Sài Gòn, là quốc sách bao trùm tất cả các
hoạt động nhằm chống lại cách mạng và nhân dân ta. Mó – Diệm lập ra những ban chỉ

đạo “tố cộng” các cấp gồm những tên phản động chống phá cách mạng, chống lại nhân
dân với nhiều thủ đoạn thâm độc, dã man. Biện pháp thực hiện của chúng là: bắt nhân
dân các thôn xã, khu phố phải học tập , hội họp tố giác “Việt cộng”. Đối tượng gồm
những người kháng chiến cũ, những gia đình có người thân tập kết ra Bắc, những người
tán thành hoà bình và hiệp thương, những người bò tình nghi có liên hệ với Việt cộng.
Khẩu hiệu của bọn chúng đưa ra là “thà giết nhầm còn hơn bỏ sót”,… qua đó học sinh
thấy được những tội ác của Mó và chính quyền phản cách mạng Ngô Đình Diệm mà học
sinh không được đọc ở sách giáo khoa
2.2 Nắm và giải thích được các bản đồ, tranh ảnh minh họa.
Để giúp học sinh năm vững kiến thức lòch sử cơ bản và là cơ sở để giáo dục tư
tưởng chính trò cho các em trong quá trình lòch sử. Ví dụ như khi dạy về “Chiến dòch
biên giới thu –đông 1950”, vậy để đạt kết quả giáo dục của bài, giáo viên sử dụng hình
- 12 -
ảnh các anh hùng La Văn Cầu, Trần Cừ,… qua đó thể hiện thái độ khâm phục của học
sinh đối với nghệ thuật chỉ đạo quân sự tài tình của Đảng, thái độ đồng tình, khâm phục
với hành động của các anh hùng.
Nhằm gợi dậy xúc động, mong muốn, kích thích hứng thú học tập và góp phần
giáo dục đạo đức, tình cảm cho các em qua nội dung “những nguyên nhân thắng lợi của
chiến thắng Điện Biên Phủ” là tinh thần chiến đấu dũng cảm, sự quên mình của quan
và dân ta, thì chính hình ảnh của Tô Vónh Diện, Phan Đình Giót,… sẽ gợi dậy trong trái
tim của các em thái độ đồng tình, khâm phục và tình cảm yêu anh quý anh bộ đội.
Hiện nay ở trường phổ thông chưa có điều kiện để sử dụng các loại mô hình, sa
bàn hay các loại đồ phục chế khác trong dạy học lòch sử, mặc dù nó có khả năng diễn
tả khá đầy đủ vẻ bề ngoài của một sự vật hay sự kiện lòch sử. Tuy vậy chúng ta có thể
sử dụng những hình vẽ hoặc phim ảnh lòch sử có giá trò như một tư liệu lòch sử.
Dạy học lòch sử ở trường phổ thông khi giáo viên minh họa tranh ảnh kết hợp với
cho học sinh xem một đoạn phim tư liệu lòch sử thường là ứng dụng công nghệ thông tin
(Power Point) trong việc trình chiếu, chẳng hạn khi miêu tả không khí thắng lợi của
Cách mạng tháng Tám năm 1945, Giáo viên trình chiếu đoạn phim: “Hồ Chí Minh đọc
bản Tuyên ngôn độc lập tại quảng trường Ba Đình vào ngày 2/9/1945”. Qua đó học

sinh sẽ được tái hiện lại sự kiện lòch sử của không khí ngày 2/9/1945, đồng thời học
sinh có tình cảm mạnh mẽ về lòng yêu mến lãnh tụ Hồ Chí Minh, tình yêu đối với Tổ
quốc, sự căm thù bọn xâm lược và chiến tranh.
Hình ảnh và xem đoạn phim có nội dung lòch sử là phương pháp dạy học lòch sử
đạt hiệu quả cao. Tuy vậy, việc minh họa tranh ảnh hay trình chiếu một đoạn phim
không đơn thuần các em được quan sát hay làm sinh động tiết học. Nếu như vậy thì
việc sử dụng tranh ảnh, đoạn phim cũng chưa thể phát huy hết tác dụng. Vậy để giúp
hiểu sâu về nội dung của bài học, sau khi các em được xem ảnh, phim, giáo viên có thể
tổ chức trao đổi thông qua các nhóm bằng bài tập nhỏ, hoặc đặt ra những câu hỏi để
phát huy khả năng tư duy nhận thức, khai thác hiệu quả nội dung kiến thức cơ bản của
bài học. Khi đề cập đến nội dung: “Nguyễn i Quốc và việc truyền bá chủ nghóa Mác
– Lênin về trong nước”. Giáo viên cho học sinh xem bức ảnh Nguyễn i Quốc tại đại
- 13 -
hội của Đảng xã hội Pháp họp ở Tua 12/1920. Sự kiện này đã đánh dấu quá trình
Nguyễn i Quốc đi từ chủ nghóa yêu nước đến chủ nghóa Mác – Lênin. Đến đây, chủ
nghóa yêu nước Việt Nam thấm nhuần chủ nghóa Mác – Lênin và chủ nghóa quốc tế vô
sản mà lãnh tụ Nguyễn i Quốc là đại diện xuất sắc nhất. Sự nghiệp cách mạng của
dân tộc Việt Nam gắn chặt với sự nghiệp cách mạng thế giới. Công lao to lớn đó thuộc
về Chủ tòch Hồ Chí Minh vó đại, lãnh tụ của dân tộc Việt Nam. Sau khi lưu ý học sinh
sự kiện này, giáo viên đặt một số câu hỏi như: “Vì sao Nguyễn i Quốc quyết đònh
đứng về Quốc tế cộng sản, trở thành người cộng sản ?”,…
Hoặc khi đề cập đến nội dung về chủ trương của ta trong chiến dòch biên giới thu
– đông 1950. Đảng và chính phủ huy động mọi lực lượng chuẩn bò cho chiến dòch (ở
đây giáo viên cho học sinh xem ảnh: dân công phục vụ chiến dòch). Trong chiến dòch
này Bác Hồ đã đi sát mặt trận để giúp đỡ ban chỉ huy chiến dòch và động viên bộ đội
chiến đấu (giáo viên sử dụng bức ảnh Chủ tòch Hồ Chí Minh đang quan sát mặt trận
Đông Khê), đồng thời đọc bài thơ nói lên ý chí của Người:
“Chống gậy lên non xem trận đòa
Vạn trùng núi đỡ vạn trùng mây
Quân ta khí mạnh nuốt ngưu đẩu

Thề diệt xâm lăng lũ sói cầy”.
Sự phong phú về nội dung, kết hợp chặt chẽ giữa hình ảnh với lời nói, tác động
vào các cảm giác của học sinh, cung cấp một khối lượng thông tin lớn, hấp dẫn, tạo cho
học sinh biểu tượng sinh động về quá khứ, làm cho các em có cảm giác như đang sống
cùng với sự kiện.
Chẳng hạn, khi trình bày về diễn biến chiến dòch biên giới thu đông 1950, giáo
viên sử dụng bản đồ, giới thiệu hệ thống phòng ngự trên đường số 4 với các đòa danh:
Đình Lập, Lạng Sơn, Nà Sầm, Thất Khê, Đông Khê, Cao Bằng,… Sau khi giới thiệu các
vò trí, giáo viên gợi ý học sinh trả lời câu hỏi “Vì sao mở đầu chiến dòch ta đánh vào
Đông Khê ?”â.
Tiếp tục trình bày diễn biến (theo bản đồ), giáo viên thu hút sự hứng thú của học
sinh qua đoạn tường thuật: “Đúng như dự đònh của ta về kế hoạch “điệu hổ li sơn”,
- 14 -
Đông Khê bò tiêu diệt, hệ thống phòng ngự trên đường số 4 như một con rắn bò gãy
khúc, đòch núng thế tìm cách rút khỏi Cao Bằng. Song muốn rút lui, phải có quân tiếp
viện. Ngày 30/9/1950, binh đoàn Lơpagiơ từ Thất Khê yểm hộ cho quân từ Cao Bằng
về. Ngày 3/10/1950, binh doàn Sắctông rút khỏi Cao Bằng”.
Trong thực tiễn dạy học lòch sử, việc sử dụng bản đồ trong dạy học là điều cần
thiết, thông qua đó ta xác đònh đòa điểm của sự kiện trong thời và không gian nhất đònh.
Đồng thời bản dồ lòch sử còn giúp học sinh suy nghó và giải thích các hiện tượng lòch sử
về mối quan hệ nhân quả, về tính quy luật và trình tự phát triển của quá trình lòch sử,
giúp các em củng cố và ghi nhớ những kiến thức đã học.
2.3 Nắm được cấu trúc bài, quan hệ với bài trước và bài sẽ học sau đó
Trước giờ học, học sinh có thể đã đọc bài viết trong SGK và soạn bài theo sự
hướng dẫn của giáo viên. Vì vậy trong quá trình giáo viên trình bày, học sinh kết hợp
theo dõi bài giảng và bài viết trong SGK. Cũng có thể để cho cả lớp tự đọc một đoạn
trong sách rồi đặt câu hỏi để học sinh trả lời. Điều quan trọng trong việc sử dụng SGK
trên lớp là giáo viên hướng dẫn học sinh nắm những nội dung quan trọng cần ghi nhớ,
phân tích những sự kiện cơ bản, rút ra kết luận khái quát, trả lời câu hỏi đặt ra. Giáo
viên phải làm cho học sinh thấy được sự thống nhất giữa bài giảng với SGK. Từ đó học

sinh tự mình lập dàn ý ghi chép, hiểu lôgic phát triển của lòch sử.
Mặt khác, nhằm hệ thống hóa các sự kiện quan trọng theo thứ tự thời
gian, đồng thời nêu mối liên hệ giữa các sự kiện cơ bản trong một thời kì để giúp học
sinh không những ghi nhớ những sự kiện chính, mà còn nắm được các mốc thời gian
đánh dấu mối quan hệ của các sự kiện quan trọng. Tuy nhiên công việc này không phải
hoàn toàn giáo viên thực hiện mà có thể hướng dẫn các em về nhà tự xây dựng niên
biểu. Chẳng hạn như giáo viên hướng dẫn học sinh về nhà xây dựng niên biểu về “các
thành tích của quân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Pháp từ 1951 đến 1954” như
sau:
Thành tích Quân sự Chính trò – ngoại
giao
Kinh tế Văn hóa –
giáo dục
Thời gian
1951 - Chiến dòch trung - Đại hội đại biếu - Ban hành sắc lệnh về thuế - Giáo dục
- 15 -
du.
- Chiến dòch đường
số 18.
- Chiến dòch
Quang Trung.
- Chiến dòch Hòa
Bình.
toàn quốc lần thứ II
của Đảng.
- Hợp nhất mặt trận
Việt Minh và Liên
Việt.
- Khối liên minh
Việt Miên Lào được

thành lập.
- Uy tín quốc tế của
Nhà nước Việt Nam
DCCH.
nông nghiệp.
- Thành lập ngân hàng quốc
gia Việt Nam
phổ thông,
bình dân học
vụ và bổ túc
văn hóa phát
triển.
- Cuộc vận
động vệ sinh
phòng bệnh,
thực hiện đời
sống mới.
1952 - Chiến dòch Tây
Bắc
- Đại hội anh hùng
và chiến só thi đua
toàn quốc lần thứ I
- Vận động sản xuất và tiết
kiệm.
1953 -
1954
- Chiến dòch lòch sử
Điện Biên Phủ.
Thắng lợi ở Hội nghò
Giơnevơ.

- Triệt để giảm tô, thực hiện
giảm tức, cải cách ruộng
đất.
- Công nghiệp quốc phòng
đẩy mạnh.
2.4 Trả lời được các câu hỏi ở cuối mỗi bài
Trong SGK, ở mỗi cuối đề mục, cuối mỗi bài đều có câu hỏi. Câu hỏi đó có thể
bám sát kiến thức cơ bản trong bài và có những câu hỏi bài tập cuối bài mang tính gợi
mở, mà đòi hỏi học sinh phải vân dụng kiến thức tổng hợp khái quát, thậm chí tham
khảo thêm tài liệu ngoài sách giáo khoa mới có thể hoàn thành yêu cầu trên. Ví dụ, sau
khi kết thức bài “cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp kết thức (1953-
1954)”, giáo viên yêu cầu học sinh làm bài tập: Hãy chứng minh: Chiến thắng Điện
Biên Phủ là thắng lợi quân sự lớn nhất của ta trong kháng chiến chống Pháp và là thắng
lợi quyết đònh buộc thực dân Pháp phải chấm dứt chiến tranh xâm lược Đông Dương.
2.5 Hướng dẫn học sinh tập tóm tắt nội dung chính từng bài đã học theo kiểu đề
cương vắn tắt.
- 16 -
Việc hướng dẫn học sinh tập tóm tắt nội dung chính từng bài đã học theo kiểu đề
cương vắn tắt cũng là một hình thức tự học. Trong việc tự học, không chỉ chú ý đến việc
học sinh tự đọc sách, làm việc không có thầy giáo và bạn bè. Có thể học sinh tự học
sách giáo khoa, song vẫn thụ động, chỉ biết thuộc lòng mà không biết cách đặt vấn đề,
tìm hiểu sâu hơn những kiến thức trong sách. Có thể học sinh ngồi nghe giáo viên giảng
bài mà vẫn không tiến hành những hoạt động tư duy độc lập trong việc lựa chon những
điều nghe được để ghi chép, nảy sinh những vấn đề mới cần giải quyết, có nhu cầu tìm
hiểu sâu hơn những điều giáo viên trình bày. Vì vậy, thông qua việc hướng dẫn của
giáo viên sử dụng SGK để tự học ở nhà để trình bày những kiến thức thực sự của mình
đã làm chủ, biết sử dụng ngôn ngữ của mình để diễn đạt kiến thức và có những ý kiến
nhận xét, phán đoán riêng. Qua đó học sinh tự nắm vững kiến thức lòch sử một các
chính xác,vững chắc, được suy nghó nhận thức sâu sắc và có thể vận dụng một cách
thành thạo.

Ví dụ ở bài 12 – Ban cơ bản : “Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm
1919 - 1925” ( tiết 1)
I. NHỮNG CHUYỂN BIẾN MỚI VỀ KINH TẾ, CHÍNH TRỊ, VĂN HÓA, XÃ HỘI Ở
VIỆT NAM SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ NHẤT.
1. Chính sách khai thác thuộc đòa lần thứ hai của Thực dân Pháp
- Sau Chiến tranh Pháp tiến hành khai thác thuộc đòa lần hai ở Đông Dương chủ yếu là
Việt Nam.
- Chính sách khai thác trên lónh vực Kinh tế.( NN, CN, TN, GTVT…)
- Nhận xét tình hình kinh tế Việt Nam : Hạn chế phát triển Công nghiệp nặng, chính
sách chỉ nhằm khai thác, bóc lột, phục vụ lợi ích Tư bản Pháp  kìm hãm phát triển
kinh tế Việt Nam.
2. Những chuyển biến mới về kinh tế và giai cấp xã hội ở Việt Nam
* Kinh tế
Nền kinh tế ĐD có bước phát triển mới : kó thuật và nhân lực đầu tư.Tuy nhiên kinh tế
VN mất cân đối lạc hậu, mang nặng tính lệ thuộc vào kinh tế Pháp.
- 17 -
* Xã hội : Do chính sách khai thác thuộc đòa và thống trò của TD Pháp, cơ cấu giai cấp
của xã hội Việt Nam có những chuyển biến mới :
+ Giai cấp đòa chủ phong kiến
+ Giai cấp nông dân
+ G/c tiểu tư sản
+ Giai cấp tư sản: phân hóa thành 2 bộ phận:
 Tư sản mại bản:
 Tư sản dân tộc:
+ Giai cấp công nhân: có tinh thần yêu nước mạnh mẽ và trở thành lực lượng lãnh đạo
cách mạng.
Tóm lại: Sau CTTG I VN có những chuyển biến quan trọng về KT – XH – VH – GD và
mâu thuẫn xã hội ngày càng sâu sắc chủ yếu là mâu thuẫn giữa dân tộc VN với đế
quốc P và bọn phản động tay sai. Từ đó phong trào đấu tranh chống đq và tay sai diễn
ra nhiều hình thức khác nhau.

3. KHẢ NĂNG ÁP DỤNG.
Khi sử dụng SGK trong dạy học bộ môn lòch sử, giáo viên cần phải rèn luyện kỉ năng
lời nói, bởi nó có ý nghóa giáo dục rất lớn, tác động đến tư tưởng tình cảm cho học sinh.
Ngoài ra khi sử dụng SGK lòch sử, giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh không
chỉ biết cách sử dụng trên lớp mà còn biết tự học ở nhà nắm các sự kiện cơ bản trong
bài học một cách vừa sức.
Như đã nói trên, Việc sử dụng SGK trong dạy học lòch sử là một trong những
phương pháp hiệu quả nhằm để cung cấp kiến thức mới, nắm chắc những kiến thức cơ
bản có trong sách giáo khoa và tạo thêm sự hứng thú trong học tập môn lòch sử của học
sinh, từ đó để nâng cao hiệu quả, chất lượng trong dạy học lòch sử. Vì vậy, trong quá
trình dạy học lòch sử bản thân tôi cũng phải có sự phối hợp với giáo viên trong tổ, nhóm
để tích cực hơn nữa trong việc tự bồi dưỡng, tham khảo tài liệu lòch sử để cung cấp cho
học sinh.
4. LI ÍCH KINH TẾ - XÃ HỘI
* Đối với giáo viên :
- 18 -
Để làm cơ sở cho việc xây dựng đề tài, bản thân tôi tiến hành thực hiện giảng
dạy ở một số lớp 12 tôi đang trực tiếp giảng dạy cụ thể là ( 12A2, 12A3) có sự tham dự
của đồng nghiệp trong tổ chuyên môn. Qua các tiết dạy chúng tôi trao đổi và rút kinh
nghiệm giờ dạy để đánh giá những ưu và khuyết điểm trong việc sử dụng hiệu quả sách
giáo khoa trong đổi mới phương pháp dạy môn lòch sử , từ đó thống nhất việc sử dụng
như thế nào có hiệu quả tốt nhất. Đồng thời phát huy việc sử dụng sách giáo khoa
trong đổi mới phương pháp giảng dạy ở các lớp mà chất lượng học sinh ở mức độ Khá
– Giỏi chiếm 70% tổng số học sinh của lớp là một điều rất cần thiết và bản thân tôi
nhận thấy rằng học sinh rất hào hứng tiếp nhận thông tin kiến thức bài giảng.
Đây là một trong những yếu tố cần thiết cho mỗi giáo viên dạy Lòch sử, vì
phương pháp dạy học hiện nay là tránh dạy học theo lối “ Thầy đọc trò chép” hoặc
“dạy chay” và lâu nay theo quan niệm của một số người học thì môn Lòch sử rất khô
khan và nhàm chán. Nếu chúng ta biết vận dụng một số “thủ thuật” nhỏ trong dạy học
như sử dụng tài liệu tham khảo để minh họa, chứng minh, lý giải…một vấn đề nào đó thì

học sinh tiếp nhận kiến thức ít nhàm chán và gây hứng thú trong giờ học hơn. Đồng thời
để phát huy vai trò sử dụng sách giáo khoa trong đổi mới phương pháp giảng dạy đòi
hỏi người giáo viên có phương pháp hướng dẫn học sinh khai thác kiến thức trong sách
giáo khoa thông qua các hoạt động tự học như đọc sách và soạn bài trước ở nhà theo hệ
thống câu hỏi ở các tiểu mục trong sách giáo khoa và sau khi học xong bài yêu cầu làm
bài tập ở cuối bài. Qua đó rèn học sinh kỹ năng tự học và giải quyết vấn đề liên quan
đến bài học.
* Đối với học sinh
Để làm rõ vấn đề này, trong quá trình dạy học, bản thân tôi tiến hành khảo sát,
điều tra, tìm hiểu thái độ tiếp nhận của học sinh của 2 lớp ( 12a2,12a3) thông qua tiết
học đạt được kết quả như sau :
Bảng 1 : Thống kê số liệu điều tra về sự cần thiết sử dụng sách giáo khoa trong
đổi mới phương pháp dạy học .
- 19 -
Lớp Só số
Các mức độ điều tra
Rất cần thiết Bình thường Không cần thiết
12a2 43 30 69,8% 8 18,6% 5 11.6%
12a3 43 29 67,4% 8 18,6% 6 14%
Qua bảng thống kê này cho ta thấy sự cần thiết đổi mới phương pháp dạy học
thông qua việc sử dụng sách giáo khoa của giáo viên trong giảng dạy để giúp học sinh
tự học là một trong những nhiệm vụ không thể thiếu trong dạy học đặc biệt là môn Lòch
sử. Kết quả bảng thống kê cho thấy trên 2/3 học sinh rất cần thiết việc sử dụng đổi mới
phương pháp dạy học thông qua việc sử dụng sách giáo khoa của giáo viên nâng cao
chất lượng học tập của học sinh . Còn những học sinh cho rằng không cần thiết thì giáo
viên có đặt vấn đề trực tiếp : Vì sao trong giảng dạy lòch sử học sinh không cần phát
huy khả năng tính tự học ? Học sinh trả lời : Vì nội dung trong sách giáo khoa rất nặng
và nhiều sự kiện đặc biệt là chương trình 12 chỉ cần nắm các nội dung kiến thức thông
qua bài dạy của giáo viên trên lớp là đủ rồi. Và một số học sinh khác cho rằng : nếu
học sinh cứ học những gì mà giáo viên cung cấp trên lớp thì rất nhàm chán vì ngày

hôm nay giáo viên phải rèn cho học sinh cách tự học, tự tìm kiếm tri thức.
Bảng 2 : Thống kê số liệu điều tra giờ học lòch sử mà giáo viên yêu cầu học sinh
chuẩn bò nội dung bài học thông qua bài soạn ở nhà :
Lớp Só số
Các mức độ khác nhau
Hứng thú Bình thường
12a2 43 35 81,4% 8 18.6%
12a3 43 33 76,7% 10 23,3%
Vậy qua bảng thống kê cho chúng ta thấy hứng thú trong giờ học mà giáo viên yêu cầu
học sinh chuẩn bò bài thông qua bài soạn ở nhà là điều rất cần thiết và bổ ích cho học
sinh trong học tập. Qua đó giúp học sinh hiểu thêm hơn sự kiện lòch sử và ham thích
học môn lòch sử chứ không phải lâu nay như nhiều người quan niệm học Lòch sử rất khô
khan và nhàm chán. Từ đó giúp cho giới trẻ có nhận thức đúng đắn hơn về Lòch sử dân
tộc Việt Nam.
Bảng 3 : Thống kê số liệu về kết quả của Bài kiểm tra một tiết trong học kỳ 2 như sau :
- 20 -
Lớp Só số
Kết quả đạt được
GIỎI TL KHÁ TL TB TL YẾU TL
12a2 43 19 44.2% 17 39.5% 7 16.3% 0
12a3 43 18 41.9% 19 44.2% 6 13.9% 0
Qua bài kiểm tra nhận thức của học sinh ta thấy kết quả học sinh đạt điểm khá,
giỏi chiếm trên 80% và không có học sinh yếu kém. Điều đó cho ta thấy từ sự hứng thú
trong học tập đã góp phần nâng cao chất lượng học tập của bộ môn Lòch sử.
Nói tóm lại, việc sử dụng sách giáo khoa để đổi mới phương pháp giảng dạy là
điều rất cần thiết trong giảng dạy và học tập của bộ môn lòch sử ở trường THPT.
C. KẾT LUẬN
1. KẾT LUẬN.
Lòch sử là một môn khoa học xã hội có một dung lượng kiến thức lớn, trong mỗi
tiết học đòi hỏi học sinh không chỉ có kó năng phát hiện nhanh mà còn cần có khả năng

ghi nhớ. Vì vậy, để học sinh có thể lónh hội một cách có hệ thống những kiến thức cơ
- 21 -
bản của một bài học để tránh tình trạng " Thầy đọc, trò chép" điều đó sẽ gây ra sự
nhàm chán, đơn điệu , nặng nề trong giờ học. Muốn khắc phục được hạn chế đó thì
việc tích cực đổi mới phương pháp trong giờ học là điều rất cần thiết. Vậy làm thế nào
để học sinh có hứng thú trong giờ học Lòch sử? Đó là câu hỏi mà mỗi thầy giáo cô giáo
luôn trăn trở trước khi lên bục giảng. Cũng chính vì sự trăn trở đó mà bản thân tôi luôn
tìm tòi để nâng cao chất lượng giảng dạy . Qua một số năm dạy chương trình đổi mới,
tôi thấy để tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học thì giáo viên biết hướng dẫn tự học
thông qua kiến thức trong sách giáo khoa để cho không khí học tập thoải mái, giảm bớt
sự căng thẳng, nặng nề và học sinh hứng thú trong học tập.
Việc sử dụng hiệu quả SGK trong dạy học lòch sử là một trong những phương
pháp quan trọng, không chỉ cung cấp tri thức cho học sinh những kiến thức cơ bản, bổ
ích mà còn hướng dẫn học sinh có ý thức và khả năng tự tìm tòi học tập.
Trên đây là một số ý kiến của chúng tôi khi thực hiện đề tài này. Mặc dù vấn đề
này không phải là mới, nhưng việc tuyền đạt kiến thức mới này đạt hiệu quả như thế
nào thì không phải bất cứ giáo viên nào cũng có thể làm tốt được. Vì vậy, qua đây bản
thân tôi cũng mong muốn có những ý kiến đóng góp của đồng nghiệp đã có nhiều kinh
nghiệm trong công tác giảng dạy góp tiếng nói chung để nâng cao chất lượng và hiệu
quả khi sử dụng SGK trong dạy học lòch sử ở trường phổ thông.
2. KIẾN NGHỊ
Tầm quan trọng của lòch sử đối với cuộc sống không ai có thể phủ nhận được,
đặc biệt đối với thế hệ trẻ. Việc học tập lòch sử giúp các em hiểu rằng giá trò cuộc sống
hôm nay được tạo bởi những hy sinh xương máu trong lao động và chiến đấu của lớp
người đi trước. Từ đó hình thành niềm tin đạo đức, chuẩn mực về thái độ và hành vi
đúng đắn, xác đònh nhiệ vụ bản thân đối với quê hương đất nước.
Tuy nhiên, ngày nay chất lượng dạy và học ở các trường phổ thông chưa đáp ứng
được yêu cầu đặc ra. Đa số học sinh chưa yêu thích môn lòch sử là điều dễ thấy đặc biệt
là học sinh lớp 12 thường chú trọng vào những môn tự nhiên, những môn mình thi Đại
học còn các môn khác học đối phó và đủ điểm là được.

- 22 -
Với ý nghóa trên, việc nghiên cứu về phương pháp sử dụng hiệu quả SGK trong
dạy học lòch sử cần phải được tiếp tục phát huy, từ đó có thể giúp giáo viên ý thức tự
bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn và đồng thời có thể xây dựng và tiến hành
tốt bài giảng của mình.
Trong hội đồng sư phạm nhà trường, tổ chuyên môn thường xuyên có buổi sinh
hoạt chuyên đề về phương pháp giảng dạy, để qua đó giáo viên có điều kiện để tích
lũy kinh nghiệm.
PHẦN ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC CÁC CẤP



- 23 -


























DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ chính trị, chiến tranh cách mạng
Việt Nam 1945 – 1975 thắng lợi và bài học, NXBCTQG,2000.
2. Chuyên san của Tạp chí cộng sản, "Hồ sơ Sự kiện". Số 28 - 29 ngày 25/1/2008.
- 24 -
3. Chuyên đề Bồi dưỡng thường xuyên Hè 2010, Tư liệu sơ đồ giảng dạy môn Lịch
sử, ĐHSP Huế
4.Trần Bá Đệ(chủ biên), Một số chuyên đề lịch sử Việt Nam, NXBĐHQGHN,2002.
5. Lê Mậu Hãn( chủ biên) Đại cương lịch sử Việt nam tập III, NXB GD,2002.
6. Hội giáo dục lịch sử, Đổi mới việc dạy học lịch sử lấy học sinh là trung tâm,
NXBCTQG
7. Phan Ngọc Liên ( chủ biên), Lịch sử 12 , NXB GD,2008.
8. Phan Ngọc Liên (chủ biên), Thiết kế bài giảng lịch sử ở trường THPT,
NXBĐHQGHN,1999.
9.Phan Ngọc Liên ( chủ biên), Tài liệu "Bồi dưỡng giáo viên" thực hiện chương
trình, sách giáo khoa lớp 12 môn Lịch sử,NXBGD,2008.
10.Phan Ngọc Liên – Trần Văn Trị, “Phương pháp dạy học lịch sử”,NXBGD,1999 .
11. Trịnh Đình Tùng (chủ biên), Để làm tốt bài thi môn Lịch sử,
NXBĐHQGTPHCM,2008.

- 25 -

×