Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Tiểu luận môn triết học SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA TRIẾT HỌC DUY VẬT VÀ TRIẾT HỌC DUY TÂM Ở HY LẠP THỜI CỔ ĐẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.8 KB, 16 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
Viện Đào Tạo Sau Đại Học

TIỂU LUẬN MÔN TRIẾT HỌC
Đề tài:
" SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA TRIẾT HỌC DUY VẬT
VÀ TRIẾT HỌC DUY TÂM Ở HY LẠP THỜI CỔ ĐẠI "

Học viên thực hiện: Nguyễn Thị Bích Thủy
STT: 103
Nhóm 5 - Lớp Đêm 1 - Khóa 23
Giảng viên phụ trách: TS. Bùi Văn Mưa
TP.HCM, tháng 12/2014
LỜI MỞ ĐẦU
Triết học là môn khoa học nghiên cứu những quy luật chung nhất của thế
giới. Triết học ra đời từ rất lâu đời qua một quá trình lịch sử lâu dài. Lịch sử triết
học đó là một vấn đề rất quan trọng của triết học. Khi chúng ta nghiên cứu lịch sử
triết học nói chung thì vấn đề cơ bản nhất của lịch sử triết học đó là cuộc đấu tranh
giữa Chủ nghĩa duy vật và Chủ nghĩa duy tâm. Vấn đề này được xem là sợi chỉ đỏ
xuyên suốt chiều dài lịch sử triết học. Cuộc đấu tranh này cũng chính là sự phản ánh
cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội đã phân chia thành các giai cấp đối kháng.
Là một trong những cái nôi của nền văn minh nhân loại thời cổ đại với những
thành tựu rực rỡ về cả kinh tế, văn hóa xã hội, triết học Hy Lạp thời kỳ này cũng
được đánh giá là đỉnh cao cực thịnh tạo tiền đề phát triển cho một nền triết học cận
hiện đại sau này. Triết học Hy Lạp cổ đại đã đặt ra hầu hết các vấn đề triết học và có
sự phân chia và đối lập rõ ràng giữa các trào lưu, trường phái duy vật và duy tâm,
biện chứng và siêu hình, vô thần và hữu thần. Thông qua việc tìm hiểu và nghiên
cứu về đề tài “Sự tương đồng và khác biệt giữa Chủ nghĩa triết học duy vật và Chủ
nghĩa triết học duy tâm của triết học Hy Lạp cổ đại”, chúng ta sẽ thấy được rõ hơn
sự phân chia và đối lập giữa các trường phái này.
Để thực hiện bài tiểu luận này, nhóm 5 đã dựa vào:


1. Tài liệu dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên
nghành triết học của trường Đại học Kinh tế Tp. HCM do Thầy Bùi Văn Mưa (Chủ
biên) - 2011
2. Đại cương lịch sử triết học, NXB Tổng hợp Tp. HCM – Nguyễn Ngọc Thu -2003
3. Lịch sử triết học, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội – Nguyễn Hữu Vui -2002
4. Triết học II, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội – 1993
5. Tổng hợp từ một số website
I. HOÀN CẢNH RA ĐỜI, ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ
1. Hoàn cảnh lịch sử:
I.1 Về tự nhiên:
Hy Lạp là một quốc gia rộng lớn có khí hậu ôn hòa bao gồm miền Nam bán
đảo Ban Căng (Balcans), miền ven biển phía Tây Tiểu Á và nhiều hòn đảo ở miền
Egee. Hy Lạp được chia làm ba khu vực: Bắc, Nam và Trung bộ.
Trung bộ có nhiều dãy núi ngang dọc và những đồng bằng trú phú, có thành
phố lớn như Athen. Nam bộ là bán đảo Pelopongnedơ với nhiều đồng bằng rộng lớn
phì nhiêu thuận lợi cho việc trồng trọt. Vùng bờ biển phía Đông của bán đảo Balcan
khúc khuỷu nhiều vịnh, hải cảng thuận lợi cho nghành hàng hải phát triển. Các đảo
trên biển Egiê (Egée) là nơi trung chuyển cho việc đi lại, buôn bán giữa Hy Lạp với
các nước ở Tiểu Á và Bắc Phi. Vùng ven biển Tiểu Á là đầu mối giao thương giữa
Hy Lạp và các nước phương Đông. Với điều kiện tự nhiên thuận lợi như vậy nên Hy
Lạp cổ đại sớm trở thành một quốc gia chiếm hữu nô lệ có một nền công thương
nghiệp phát triển, một nền văn hóa tinh thần phong phú đa dạng. Nơi có nhiều triết
gia mà triết lý của họ trở nên bất hủ.
I.2 Về kinh tế
Hy Lạp cổ đại nằm ở một vị trí vô cùng thuận lợi về khí hậu, đất đai, biển cả
và lòng nhiệt thành của con người là những tài vật, tài lực vô giá để cho tư duy bay
bổng, mở rộng các mối bang giao và phát triển kinh tế.
Thế kỷ VIII – VI BC, đây là thời kỳ quan trọng nhất trong lịch sử Hy Lạp cổ
đại là thời kỳ nhân loại chuyển từ thời đại đồ đồng sang thời đại đồ sắt. Lúc bấy giờ,
đồ sắt được dùng phổ biến, năng suất lao động tăng nhanh, sản phẩm dồi dào, chế độ

sở hữu tư nhân được củng cố. Sự phát triển này đã kéo theo phân công lao động
trong nông nghiệp, giữa nghành trồng trọt và ngành chăn nuôi. Sự phát triển mạnh
mẽ của công nghiệp, thủ công nghiệp từ cuối thế kỷ VIII BC là lực đẩy quan trọng
cho trao đổi, buôn bán, giao lưu với các vùng lân cận. Engels đã nhận xét: “Phải có
những khả năng của chế độ nô lệ mới xây dựng được một quy mô phân công lao
động lớn lao hơn trong công nghiệp và nông nghiệp, mới xây dựng được đất nước
Hy Lạp giàu có. Nếu không có chế độ nô lệ thì cũng không có quốc gia Hy Lạp,
không có khoa học và công nghiệp Hy Lạp”.
I.3 Về chính trị - xã hội:
Từ điều kiện kinh tế đã dẫn đến sự hình thành chính trị - xã hội, xã hội phân
hóa ra làm hai giai cấp xung đột nhau là chủ nô và nô lệ. Lao động bị phân hóa
thành lao động chân tay và lao động trí óc. Đất nước bị chia phân thành nhiều nước
nhỏ. Mỗi nước lấy một thành phố làm trung tâm. Trong đó, Sparte và Athen là hai
thành phố cổ hùng mạnh nhất, nòng cốt cho lịch sử Hy Lạp cổ đại.
Thành bang Athen nằm ở vùng đồng bằng thuộc Trung bộ Hy Lạp, có điều
kiện đại lý thuận lợi nên đã trở thành một trung tâm kinh tế, văn hóa của Hy Lạp cổ
đại và là cái nôi của triết học Châu Âu. Tương ứng với sự phát triển kinh tế, văn hóa
là thiết chế nhà nước chủ nô dân chủ Athen.
Thành Sparte nằm ở vùng bình nguyên, đất đai rất thích hợp với sự phát triển
nông nghiệp. Chủ nô quý tộc thực hiện theo lối cha truyền con nối. Chính vì thế
Sparte đã xây dựng một thiết chế nhà nước quân chủ, thực hiện sự áp bức rất tàn
khốc đối với nô lệ.
Do sự tranh giành quyền bá chủ Hy Lạp, nên hai thành phố trên tiến hành
cuộc chiến tranh khốc liệt kéo dài hàng chục năm và cuối cùng dẫn đến sự thất bại
của thành Athen. Cuộc chiến tàn khốc đã lưu lại sự suy yếu nghiêm trọng về kinh tế,
chính trị và quân sự của đất nước Hy Lạp. Chiến tranh, nghèo đói đã nảy sinh các
cuộc nổi dậy của tầng lớp nô lệ. Nhưng lại thất bại vì họ xuất phát từ nhiều bộ lạc
khác nhau, không có ngôn ngữ chung, không có quyền hạn, không được tham gia
vào các hoạt động xã hội, chính trị. Chớp lấy thời cơ, Vua Philíp ở Bắc Hy Lạp đã
đem quân xâm chiếm toàn bộ bán đảo Hy Lạp thế kỷ thứ II BC, Hy Lạp một lần nữa

lại rơi vào tay của đế quốc La Mã. Tuy đế quốc La Mã chinh phục được Hy Lạp,
nhưng lại bị Hy Lạp chinh phục về văn hóa.
Engels đã nhận xét “không có cơ sở văn minh Hy Lạp và đế quốc La Mã thì
không có Châu Âu hiện đại được”. Vì điều kiện kinh tế, nhu cầu buôn bán, trao đổi
hàng hóa mà các chuyến vượt biển đến với các nước phương Đông trở nên thường
xuyên. Chính vì thế tầm nhìn của họ cũng được mở rộng, những thành tựu văn hòa
của Ai Cập, Babilon đã làm cho người Hy Lạp ngạc nhiên. Tất cả các lĩnh vực,
những yếu tố của nước bạn đều được Hy Lạp đón nhận. “Những người Hy Lạp mãi
mãi là đứa trẻ nếu không hiểu biết gì về Ai Cập”.
Trong thời đại này Hy Lạp đã xây dựng được một nền văn minh vô cùng xán
lạn với những thành tựu rực rỡ thuộc các lĩnh vực khác nhau. Chúng là cơ sở hình
thành nên nền văn minh phương Tây hiện đại.
2. Sự phát triển của triết học Hy Lạp thời cổ đại
Triết học Hy Lạp cổ đại ra đời trong bối cảnh diễn ra sự chuyển biến lâu dài
và sâu sắc các quan hệ xã hội. Đó là sự ra đời của xã hội có giai cấp đầu tiên trong
lịch sử – chế độ chiếm hữu nô lệ.
Chế độ chiếm hữu nô lệ đã tạo cơ sở cho sự phân hóa lao động và đề cao đề
cao lao động trí óc, coi thường lao động chân tay. Điều này thúc đẩy sự hình thành
tầng lớp trí thức biết xây dựng và sử dụng hiệu quả tư duy lý luận để nghiên cứu
triết học và khoa học. Triết học và khoa học đã ra đời và phát triển mạnh mẽ. Triết
học Hy Lạp cổ đại rất đa dạng; song nhìn chung, chúng thể hiện rõ khuynh hướng
nhất nguyên (chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy tâm) hay khuynh hướng nhị nguyên
một cách rõ ràng vá khá nhất quán.
Triết học Hy Lạp cổ đại gắn liền với lịch sử ra đời của nền chính trị Hy Lạp
cổ đại (mà đỉnh cao của nó là nền dân chủ Athen) và phản ánh lịch sử của đất nước
này. Do vậy, nó trải qua ba giai đoạn: giai đoạn hình thành, giai đoạn cực thịnh và
giai đoạn suy tàn.
Giai đoạn hình thành (thế kỷ VI tr. CN): đây là thời kỳ chế độ chiếm hữu nô
lệ mới hình thành,Do sự phát triển của sản xuất, thế giới quan cũ có tính chất tôn
giáo, thần thoại dần dần nhường chỗ cho những hiểu biết khoa học về con người, về

vũ trụ. Trên cơ sở đó, triết học với tư cách là một khoa học bao quát mọi tri thức
(khoa học của khoa học) ra đời.
Giai đoạn cực thịnh: (bắt đầu từ thế kỷ thứ V. tr.CN): Đây là thời kỳ chế độ
chiếm hữu nô lệ phát triển đến hình thức cao và cũng là thời kỳ phồn vinh của triết
học Hy Lạp cổ đại. Thời kỳ này, đối tượng nghiên cứu của triết học được rộng sang
các vấn đề về kết cấu của vật chất, nhận thức luận và đời sống chính trị. Trong đó,
kết cấu của vật chất là vấn đề trung tâm của nhiều trướng phái triết học.
Giai đoạn suy tàn (từ thế kỷ thứ II TCN): Đây là thời kỳ khủng hoảng và suy
vong của chế độ chiếm hữu nô lệ ở Hy Lạp. Cùng với sự suy tàn đó, nền văn hóa mà
nó sản sinh ra cũng suy tàn theo. Chiến tranh, bạo lực, khó khăn ngập tràn đã đưa
các nhà triết học giai đoạn này rời xa các vấn đề siêu hình,phổ quát để đi vào các
vấn đề thuộc về đời sống tình cảm, nội tâm, ham muốn, dục vọng;
Để lại dấu ân sâu đậm nhất trong lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại chính là cuộc
đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm ở giai đoạn cực thịnh. Chủ
nghĩa duy vật được hình thành từ trường phái Mi-lê, trường phái Hêraclít, trải qua
trường phái đa nguyên và đạt được đỉnh cao trong trường phái nguyên tử luận. Chủ
nghĩa duy tâm được hình thành trong trong trường phái Pythago, trải qua trường
phái duy lý Êle, phái Ngụy biện và đạt được đỉnh cao trong trường phái duy tâm
khách quan của Platông. Arítốt đã cố gắng khắc phục sự đối lập giữa hai khuynh
hướng nhất nguyên duy vật và nhất nguyên duy tâm, tiến hành phê phán và tổng kết
triết học và khoa học thời này. Do vậy, ông đã đưa triết học Hy Lạp cổ đại lên đỉnh
cao cực thịnh và trở thành “bộ óc bách khoa toàn thư” vĩ đại nhất trong nền triết học
và khoa học Hy Lạp cổ đại.
II. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT VÀ CHỦ NGHĨA DUY
TÂM TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
1. Chủ nghĩa duy vật:
1.1Trường phái Mi-lê:
Milê là một vùng đất nổi tiếng của Hy Lạp nằm chạy dài trên miền duyên hải
Tiểu Á, giữa các huyết mạch giao thông, là một trung tâm thương mại hàng hải lớn.
Sự giao thương kinh tế, trao đổi văn hóa đã mở rộng tầm nhìn của con người, kích

thích phát triển khoa học, văn hóa, nghệ thuật và từ đây trường phái triết học Milê ra
đời. Thales, Anaximandros, Anaximenes (thế kỷ 6 TCN) là ba nhà triết học tiêu biểu
lập nên trường phái triết học Milê. Từ quan sát của mình, Thales cho rằng nước,
Anaximenes thì cho là không khí là các vật thể xác định có tính vô tận, tồn tại vĩnh
viễn có tuần hoàn. Còn Anaximandros thì cho rằng apeiron là một chất vô định hình
chứa trong mình những mặt đối lập luôn vận động, đấu tranh với nhau sinh ra rồi lại
hủy diệt hình thể, tính chất khác nhau của vạn vật.
Đóng góp quan trọng nhất của trường phái này là họ đã đưa ra cái bản
nguyên để lý giải sự tồn tại trong tính thống nhất của vạn vật trong thế giới, đặt nền
móng cho sụ hình thành các khái niệm triết học để các triết gia sau này tiếp tục bổ
sung và làm phong phú thêm các khái niệm đó như khái niệm chất, không gian, sự
đấu tranh giữa các mặt đối lập…v…v….
1.2Trường phái Hêraclite (540 – 575 BC)
Do Hêracrít sáng lập và xây dựng vào thế kỷ thứ 6 TCN. Ông đã thể hiện rõ
các tư tưởng biện chứng chất phác thời cổ Hy Lạp thông qua các phỏng đoán thiên
tài về quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mắt đối lập. Ông coi bản nguyên của
thế giới là vật chất là lửa. Vạn vật (kể cả linh hồn) được sinh ra từ lửa, tồn tại đến
khi mất đi lại quay về lửa. Vũ trụ là ngọn lửa vĩnh hằng không ngừng bùng cháy và
lụi tàn theo cái logos (quy luật) nội tại của chính mình. Ngọn lửa vũ trụ sản sinh ra
sự vật vật chất, hiện tượng tinh thần và tạo ra các linh hồn. Ông xem vạn vật trong
thế giới vừa tồn tại vừa không tồn tại, luôn luôn vận động và nàm trong quá trình
sinh thành - biến đổi chuyển hóa, “không ai tắm được hai lần trên cùng một dòng
sông”. Thế giới vật chất chứa trong mình các mặt đối lập luôn thống nhất và đấu
tranh với nhau. Vạn vật “vừa đa dạng vừa thống nhất” vừa mang tính hài hòa vừa
xung đột. Ngoài ra, khi nhận thức thế giới, theo quy luật của logos, ông cho rằng
nhận thức bắt đầu từ cảm tính. Sau đó, sử dụng tư duy, lý tính để nhận thức thấu
suốt hơn. Nhưng do tùy thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh khác nhau nên quá trình tìm
đến chân lý chỉ là tương đối.
1.3Trường phái đa nguyên Empêđốc - Anaxogoras:
Vượt qua quan niệm đơn nguyên sơ khai của các trường phái Miles và

Hêraclite, Empêđốc (490 – 430 TCN) và Anaxagoras (500 – 428 TCN) xây dựng
quan niệm đa nguyên về bản chất thế giới vật chất đa dạng.
Empêđốc thừa nhận khởi nguyên của thế giối là bốn yếu tố độc lập, bất biến:
đất, nước, lửa và không khí. Dưới sự tác động của hai loại lực tình yêu và hận thù
mà chúng được kết hợp lại hình thành lên vạn vật đa dạng hay bị chia tách ra làm
cho vạn vật bị mất đi. Và vũ trụ tồn tại, phát triển qua bốn giai đoạn vận động, biến
đổi tuần hoàn của tình yêu và hận thù.
Amaxogoras cho rằng cơ sở đầu tiên của tất cả mọi sự vật là “những hạt
giống” cực nhỏ, có thể phân chia vấn vô tận. Dù “mỗi cái chứa mọi cái”, nhưng
“mầm nào sinh ra giống nấy”, vật chất chỉ bị quy định bởi tính chất hạt giống của
chính nó.
Như vậy, trường phái đa nguyên là một sự tìm tòi mới của CNDV nhằm khắc
phục hạn chế của quan điểm duy vật đơn nguyên để lý giải tính thống nhất trong sự
đa dạng của thế giới.
1.4Trường phái nguyên tử luận Lơxíp – Đêmôcrít:
Trường phái này là đỉnh cao của triết học duy vật Hy Lạp cổ đại được thể
hiện trong trường phái nguyên tử luận thế kỷ V-II BC. Lơxíp là người sáng lập và
Đêmôcrít là người thừa kế và phát triển.
Theo trường phái này, nguyên tử và chân không cùng tồn tại và là căn
nguyên của các sự vật, hiện tượng. Nguyên tử vận động trong chân không kết tụ lại
hình thành nên sự vật và khi chúng tách rời nhau thì sự vật tan rã, biến mất.
Đêmôcrít đã kế thừa và phát triển các quan niệm này thành một hệ thống chặt chẽ
đưa triết học duy vật Hy Lạp lên đỉnh cao, làm cho nó đủ sức đương đầu chống lại
các trào lưu duy tâm đang thịnh hành cùng thời.
2. Chủ nghĩa duy tâm:
2.1Trường phái Pythagore:
Là một nhà toán học uyên bác, tư tưởng triết học của ông luôn gắn liền với
các con số. Ông cho rằng con số là bản chất của vạn vật trong thế giới. Mỗi con số
khác nhau, theo thứ tự của nó tương ứng với một sự vật. Trật tự của vạn vật trong tự
nhiên được xắp đặt theo trật tự các con số (trật tự thần thánh). Nếu cãi lại quy luật

này, điều ác trong xã hội nhất định sẽ xảy ra. Ông cũng thừa nhận linh hồn là bất tử,
độc lập với thể xác và bị chi phối bởi luật luân hồi. Mục đích của cuộc sống là giải
thoát linh hồn ra khỏi ràng buộc thể xác. Chức năng của linh hồn là nhận thức chân
lý bằng hình thức chiêm nghiệm tâm linh. Trường phái Pythagore đã đặc nền móng
ban đầu cho trào lưu duy tâm thời cổ đại của triết học Hy Lạp.
2.2Trường phái Elée:
Trường phái Elée (V – IV BC) do Xénophane thành lập theo chủ nghĩa duy
vật, nhưng sau đó Parménide phát triển theo chủ nghĩa duy tâm và được Zeno nhiệt
thành bảo vệ và phát huy.
Chịu ảnh hưởng bởi Thales, Xénophane cho rằng mọi cái đều từ đất mà ra, và
cuối cùng trở về với đất. Cùng với nước, đất tạo nên sự sống của muôn loài.
Parménide lại cho rằng “tồn tại” là bản chất chung thể hiện tính thống nhất của vạn
vật trong thế giới. “Tồn tại” là một phạm trù triết học mang tính khái quát cao, và
được nhận thức bởi tư duy lý tính. Zeno là người bảo vệ nhiệt thành trường phái Êlê.
Ông đưa ra các apôri để chứng minh rằng không thể dùng trực quan cảm tính để
nhận thức sự vật mà phải dùng tư duy trừu tương. Tuy nhiên, sai lầm của ông là ở
chỗ tuyệt đối hóa và tách tính gián đoạn ra khỏi tính liên tục của vận động.
2.3Trường phái duy tâm khách quan:
Trường phái này thể hiện lập trường chính trị của tầng lớp chủ nô quý tộc bảo
thủ chống lại nền dân chủ Athen hệ thống triết học duy vật của trường phái nguyên
tử luận. Được xây dựng bởi Socrate và được hoàn thiện bởi Platon. Khác với những
nhà triết học khác, Xôcrát không nghiên cứu về giới tự nhiên mà ông dành phần lớn
nghiên cứu về con người, đạo đức. Platôn xuất thân trong một gia đình chủ nô quý
tộc ở Athen. Ông đã xây dựng chủ nghĩa duy tâm khách quan với nội dung chính là
thuyết ý niệm, với giá trị bên trong là phép biện chứng của khái niệm và nhiều tư
tưởng sâu sắc về đạo đức, chính trị, xã hội,…
III. SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA CHỦ NGHĨA DUY VẬT
VÀ CHỦ NGHĨA DUY TÂM
1. Sự tương đồng:
Tuy là hai trường phái triết học khác nhau, Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm

vẫn có một số các đặc điểm tương đồng như sau:
- Cả hai trường phái đều đi sâu vào những vấn đề bản thể luận, nhận thức luận để
phát triển khoa học tự nhiên.
- Thể hiện thế giới quan, ý thức hệ và phương pháp luận của giai cấp chủ nô thống
trị nhằm bảo vệ quyền lợi cho mình và duy trì trật tự xã hội, coi thường giai cấp
nô lệ.
- Có sự gắn bó chặt chẽ triết học với khoa học tự nhiên để tổng hợp mọi hiểu biết
về các lĩnh vực khác nhau “xây dựng bức tranh về thế giới như một hình ảnh
thống nhất mọi sự vật, hiện tượng xảy ra trong nó” mang tính biện chứng chất
phác biến triết học thành “khoa học của các khoa học”.
- Giải quyết các vấn đề về bản thổ và nhận thức luận triết học là những vấn đề của
mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.
- Quan niệm về triết học còn nhiều hạn chế mang tính trực quan, tự phát, ngây thơ.
- Coi trọng vấn đề con người, tìm cách mang lại cho con người cuộc sống hạnh
phúc.
2. Sự khác biệt:
Ngay từ khi ra đời, triết học Hy Lạp cổ đại đã xảy ra cuộc đấu tranh mạnh mẽ
giữa Chủ nghĩa duy vật và Chủ nghĩa duy tâm mà tiêu biểu và điển hình hơn cả là
cuộc đấu tranh giữa trường phái duy vât của Đêmôcrít và duy tâm của Platon.
Đêmôcrít (460-370 TCN) là “một trong những nhà duy vật lớn”, vĩ đại nhất
của dòng triết học duy vật Hy Lạp thời cổ đại. Chủ nghĩa duy vật của Đêmôcrít là
thế giới quan của bộ phận giai cấp chủ nô dân chủ tiến bộ thời kỳ này. Platon (427-
347 TCN) là người đầu tiên xây dựng hệ thống hoàn chỉnh của chủ nghĩa duy tâm
khách quan, đại diện cho thế giới quan của bộ phận giai cấp chủ nô quý tộc phản
động.
Với thuyết nguyên tử, Đêmôcrít đã lý luận rằng hai thực thể đầu tiên nguyên tử
và chân không là cơ sở đầu tiên của thế giới cấu thành lên vũ trụ. Nguyên tử là
những hạt vật chất cực nhỏ, không nhìn thấy được, không màu sắc, không âm thanh,
không mùi vị, không thể phân chia được luôn vận động. Nguyên tử đồng nhất về
chất nhưng khác nhau về hình dạng, kích thước, vị trí, trật tự. Vật thể được hình

thành do nhiều nguyên tử kết hợp lại và khi nó phân rã lại trở về nguyên tử. Chân
không thì không có kích thước và hình dáng, vô tận và duy nhất. Nguyên tử tồn tại
trong chân không, vận động, kết hợp và phân rã. Đêmôcrít khẳng định bản chất thế
giới là vật chất – nguyên tử vận động trong chân không theo luật nhân quả; vũ trụ
vật chất là vô hạn và đa dạng, không được sáng tạo và không bị hủy diệt. Ngược lại,
bằng thuyết ý niệm của mình, Platon đã lý giải sự sinh thành thế giới sự vật. Ông
cho rằng ý niệm là nguồn gốc sản sinh ra thế giới, coi ý niệm là tồn tại chân thực và
vĩnh cửu, còn vật chất là không tồn tại. Ý niệm là cái có trước, là nguyên nhân, bản
chất khuôn mẫu của sự vật. Sự vật là cái có sau, là bản sao cùa ý niệm. Vì thế, bất cứ
sự vật nào cũng xuất hiện từ ý niệm và có quan hệ ràng buộc với ý niệm. Đối với
Platon, vũ trụ không tồn tại thực mà do thần Tạo hóa quyết định bằng cách mô
phỏng theo thế giới ý niệm.
Về vấn đề linh hồn, cũng bằng thuyết nguyên tử của mình, Đêmôcrít cho rằng
sinh vật sống đầu tiên được hình thành từ những vật thể ẩm ướt dưới tác động của
nhiệt độ. Sự tiến hòa dần dần từ môi trường nước bùn, nước, trên cạn và sau đó là
thành con người. Sinh vật mang linh hồn cũng được tạo thành từ các nguyên tử hình
cầu, nhẹ, nóng và chuyển động nhanh. Linh hồn không tồn tại mãi mãi, nó sẽ bị tan
rã trở lại thành các nguyên tử dạng lửa khi sinh vật chết đi. Trái lại, đồi với Platon
thì linh hồn là cái bất tử, tồn tại mãi mãi và độc lập với thể xác. Linh hồn bất tử do
Thượng đế tạo ra từ lâu, chỉ tạm thời trú ngụ trong thể xác con người. Nó có thể
thoát ra và nhập lại vào một thế xác khác tạo ra con người mới hoàn chỉnh bao gồm
cả linh hồn và thể xác.
Bên cạnh học thuyết nguyên tử, Đêmôcrít còn xây dựng nhận thức luận của
riêng mình. Ông đặt ra và giải quyết một cách duy vật vấn đề đối tương của nhận
thức tức là thế giới vật chất xung quanh con người tác động vào con người hình
thành lên nhân thức. Có hai dạng nhận thức: nhận thức mờ tối do sự tác động trực
tiếp của các giác quan đem lại (nhận thức cảm tính) và nhận thức sáng suốt do tư
duy, suy đoán từ các dữ liệu mà giai đoạn nhận thức mờ tối đem đến (nhận thức lý
tính) và đặt vấn đề về mối quan hệ giữa hai dạng nhận thức này. Nhận thức mờ tối
chưa đem lại chân lý vì nó chỉ cho biết được dáng vẻ bề ngoài của sự vật. Để khám

phá được bên trong sự vật phải cần đến nhận thức sáng suốt. Hay nói theo một cách
khác thì nhận thức cảm tính là tiền đề của nhận thức lý tính. Ngược lại, Platon coi sự
nhận thức của con người không phải là sự phản ánh thế giới vật chất mà là sự hồi
tưởng lại những gì mà linh hồn bất tử đã lãng quên trong thế giới ý niệm mà nó đã
biết. Linh hồn bất tử biết hết mọi điều trong thế giới ý niệm. Và khi nó được thức
tính, mâu thuẫn giữa các ý kiến khác nhau đã tạo ra nhận thức chân lý. Như vậy,
nhận thức lý tính có trước nhận thức cảm tính và sinh ra nhận thức cảm tính. Nhận
thức lý tính cho chúng ta tri thức xác thực còn nhận thức cảm tính không bao giờ đạt
tới tri thức chân thực.
Về vấn đề đạo đức, Đêmôcrít đã rất thực tế với những định nghĩa về đạo đức
theo cách riêng của mình. Đạo đức của Đêmôcrít là sống đúng mực, ôn hòa, không
gây tổn hại cho mình và những người xung quanh. Ông đề cao những hành vi vị
nghĩa cao thượng, phản đối lối sống trục lợi bất lương. Đối với ông, con người dù ở
bất cứ tầng lớp nào cũng tìm thấy hạnh phúc khi lương tâm của họ trong sáng, tâm
hồn của họ tự do và tinh thần của họ thanh thản. Còn đạo đức của Platon hướng tới
là hành vi hướng thiện của sự thông thái và lòng dũng cảm. Con người chỉ có thể
tìm được hạnh phúc cho riêng mình trong thế giới ý niệm, ở trên trời sau khi chết.
Là một thứ đạo đức duy tâm, ông phân biệt rõ ràng khái niệm về đạo đức giữa các
giai cấp trong xã hội. Nô lệ không phải là con người, chỉ là động vật biết nói nên
không thề có đạo đức. Đạo đức chỉ có được ở một số ít người ưu tú như các tầng lớp
nhà triết học, quý tộc thanh cao.
Quan niệm về chính trị - xã hội: do xuất thân từ tầng lớp chủ nô dân chủ,
Đêmôcrít đứng trên lập trường ủng hộ chế độ dân chủ để bảo vệ quyền lợi của tầng
lớp mình, bảo vệ chế độ dân chủ chủ nô. Ông kịch liệt phản đối phái chủ nô quý tộc
nhưng cũng như các nhà tư tưởng khác ông vẫn cho rằng nô lệ phải phục tùng, tuân
theo mệnh lệnh của người chủ. Ông đề cao Nhà nước cộng hòa dân cử, là nền tảng,
trụ cột của xã hội. Nhà nước đóng vai trò duy trì trật tự và điều hành xã hội, hoạt
động theo các chuẩn mực đạo đức và pháp lý.
Khác với Đêmôcrít, Platon đứng trên lập trường của phái chủ nô quý tộc
chống lại chế độ dân chủ tiến bộ của xã hội. Ông đặc biệt miệt thị nô lệ, coi họ chỉ là

những “động vật biết nói”, không có đạo đức, không được tham gia vào chính trị.
Do linh hồn gồm ba bộ phận: cảm giác, ý chí và lý trí bất tử (lý tính) cấu thành nên
trong xã hội cũng có ba hạng người tương ứng,làm ba việc: thợ thủ công, thương gia
sản xuất; chiến binh chiến đấu và triết gia lãnh đạo. Nhà nước của chế độ sở hữu tư
nhân được hình thành để đảm bảo cho sự phân công trên được thực hiện. Tuy nhiên,
sự bất bình đẳng giữa các tầng lớp này đã làm cho nhà nước bị tha hóa, băng hoại
đời sống đạo đức, phá hoại tính hài hòa của xã hội. Vì vậy, theo Platon, chế độ xã
hội cộng hòa quý tộc do một vị vua là nhà triết học tài ba lãnh đạo là Nhà nước lý
tưởng nhất. Trong đó, quyền thống trị tuyệt đối thuộc về giai cấp thống trị.
KẾT LUẬN:
Mặc dù là hai trường phái khác nhau, nhưng chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa
duy tâm triết học Hy Lạp thời cổ đại vẫn có những nét tương đồng trong những
điểm trái ngược nhau. Điều đó được thể hiện rõ nét qua việc nghiên cứu về bản
nguyên thế giới cho ra đời các thuyết khác nhau, về quan điểm chính trị, quản lý nhà
nước, vai trò của các tầng lớp giai cấp trong xã hội cũng như cách nhìn nhận về vấn
đề nhận thức, đạo đức, linh hồn con người.
Với phần lớn những quan điểm, cách nhìn nhận vấn đề khác biệt nhau, xuyên
suốt trong chiều dài lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại, hai trường phái triết học duy vật
và duy tâm đã cùng nhau hình thành, phát triển và đấu tranh mạnh mẽ. Do trình độ
khoa học – kỹ thuật thời cổ đại còn hạn chế, triết học vẫn còn mang nhiều tính thô
sơ, chất phác nhưng Đêmôcrít, đại diện cho chủ nghĩa duy vật Hy Lạp cổ đại và
Platon, đại diện cho chủ nghĩa duy tâm Hy Lạp cổ đại đã đưa hai phương pháp luận
đối lập nhau này lên một đỉnh cao mới tạo tiền đề cho sự phát triển của các trường
phái triết học sau này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Tài liệu dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên nghành triết
học của trường Đại học Kinh tế Tp. HCM do Thầy Bùi Văn Mưa (Chủ biên) - 2011
2. Đại cương lịch sử triết học, NXB Tổng hợp Tp. HCM – Nguyễn Ngọc Thu -2003
3. Lịch sử triết học, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội – Nguyễn Hữu Vui -2002
4. Triết học II, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội – 1993

5. Tổng hợp từ một số website
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 2
I.HOÀN CẢNH RA ĐỜI, ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ 3
1.Hoàn cảnh lịch sử: 3
I.1Về tự nhiên: 3
I.2Về kinh tế 3
I.3Về chính trị - xã hội: 4
2.Sự phát triển của triết học Hy Lạp thời cổ đại 5
II.KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT VÀ CHỦ NGHĨA DUY
TÂM TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI 7
1.Chủ nghĩa duy vật: 7
1.1Trường phái Mi-lê: 7
1.2Trường phái Hêraclite (540 – 575 BC) 7
1.3Trường phái đa nguyên Empêđốc - Anaxogoras: 8
1.4Trường phái nguyên tử luận Lơxíp – Đêmôcrít: 9
2.Chủ nghĩa duy tâm: 9
2.1Trường phái Pythagore: 9
2.2Trường phái Elée: 9
2.3Trường phái duy tâm khách quan: 10
III.SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA CHỦ NGHĨA DUY VẬT VÀ
CHỦ NGHĨA DUY TÂM 10
1.Sự tương đồng: 10
2.Sự khác biệt: 11
KẾT LUẬN: 14
TÀI LIỆU THAM KHẢO: 15

×