Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

CHỦ NGHĨA DUY VẬT NHÂN BẢN PHOIƠBẮC & VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI SỰ RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC MÁC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (254.5 KB, 18 trang )

ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC



TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC


Đề tài:
CHỦ NGHĨA DUY VẬT NHÂN BẢN
PHOIƠBẮC & VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI
VỚI SỰ RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC MÁC




Thực hiện: Trương Huỳnh Phạm Tân
STT: 88
Nhóm: 6
Lớp: đêm 1
Khóa: 22
Giảng viên phụ trách: TS. Bùi Văn Mưa






TP.HCM, Tháng 12/2012
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc GVPT: TS.
Bùi Văn Mưa


vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Mác

Trương Huỳnh Phạm Tân – 7701221003 1
Nhóm 6 - Đ1 - K22
PHẦN A: LỜI MỞ ĐẦU
Triết học cổ điển Đức đã tiếp tục phát huy truyền thống duy lý của
Phương Tây, khôi phục lại quan niệm coi triết học là khoa học của mọi khoa học.
Các triết gia ra sức xây dựng các hệ thống triết học vạn năng, bao trùm mọi lĩnh
vực hoạt động của con người để làm cơ sở cho những hoạt động đó. Triết học cổ
điển Đức đã đóng góp vào di sản văn hóa nhân loại nhiều lý luận có giá trị.
Trong đó tiêu biểu là triết gia L.Phoiơbắc (viết đầy đủ là Lútvích
Phoiơbắc) xuất thân trong một gia đình luật sư nổi tiếng và quan điểm của ông
coi triết học mới phải là triết học về chính con người, có sứ mạng mang lại cho
con người một cuộc sống hạnh phúc thật sự trên trần gian mà L.Phoiơbắc lấy con
người làm đối tượng nghiên cứu của triết học. Theo ông, chỉ khi nào xuất phát từ
con người thì vấn đề về quan hệ giữa tư duy và tồn tại mới được giải quyết một
cách đúng đắn và có ý nghĩa thật sự. Triết học mới mà L.Phoiơbắc đã xây dựng
là triết học duy vật nhân bản.
Và những tư tưởng triết học của L.Phoiơbắc có ảnh hưởng lớn đến sự hình
thành quan điểm triết học của C.Mác và Ph.Ăngghen. Hai ông đã dựa trên hệ
thống triết học này để xây dựng thế giới quan duy vật biện chứng của mình.
C.Mác và Ph.Ăngghen tuy vẫn thừa nhận rằng để tiến đến chủ nghĩa duy vật mới
– chủ nghĩa duy vật biện chứng, họ đã phải đi qua chủ nghĩa duy vật của
L.Phoiơbắc; rằng chủ nghĩa duy vật của ông có ý nghĩa to lớn trong việc giải
phóng tư tưởng, nó là sự kết hợp, sự kế thừa của nhiều tư tưởng duy vật tiến bộ
Tây Âu, nhưng sự phê phán nó là điều cần thiết, vì trong nội dung tư tưởng của
nó còn chứa nhiều thiếu sót căn bản.
Vì vậy, để hiểu rõ hơn về chủ nghĩa duy vật nhân bản L.Phoiơbắc ta hãy
đi sâu, tìm hiểu những quan niệm cơ bản trong tư tưởng triết học này qua giáo
trình triết học, website, tạp chí… từ đó rút ra được những giá trị và hạn chế của

nó. Đồng thời giúp ta hiểu được tiền đề lý luận của tư tưởng triết học duy vật
nhân bản L.Phoiơbắc trong việc ra đời triết học Mác nói riêng, chủ nghĩa Mác
nói chung.

Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc GVPT: TS.
Bùi Văn Mưa
vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Mác

Trương Huỳnh Phạm Tân – 7701221003 2
Nhóm 6 - Đ1 - K22
PHẦN B: NỘI DUNG
Chương 1: Tổng quan về chủ nghĩa duy vật nhân bản L.Phoiơbắc
1.1. Những nét chính về L.Phoiơbắc:
Lútvích Phoiơbắc (L.Phoiơbắc) sinh năm 1804 và mất năm 1872, ông sinh
ra trong một gia đình luật sư nổi tiếng, đã từng tham gia phái Hêghen trẻ, là nhà
triết học duy vật lỗi lạc trong nền triết học cổ điển Đức, bậc tiền bối của Mác.
Người có công lao to lớn đấu tranh chống lại chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo, phục
hồi và phát triển chủ nghĩa duy vật trong thời kỳ chuẩn bị cách mạng tư sản Đức
năm 1848.
Các tác phẩm của ông như: “Phê phán triết học Hêghen”, “Bản chất của
đạo cơ đốc”, “Luận cương sơ bộ về cải cách triết học”, “Cơ sở của triết học
tương lai”, “Bản chất của tôn giáo”… đã làm sống lại chủ nghĩa duy vật thế kỷ
XVII – XVIII và làm sinh động thế giới quan duy vật khoa học lúc bấy giờ. Ông
là đại biểu cuối cùng của một trào lưu triết học đặc sắc, người đã viết chương
cuối hùng tráng trên cơ sở của chủ nghĩa duy vật và vô thần để kết thúc bản giao
hưởng “triết học cổ điển Đức”. Chủ nghĩa duy vật của L.Phoiơbắc là chủ nghĩa
duy vật nhân bản và nó đã đóng góp to lớn vào cuộc đấu tranh chống lại việc giải
thích duy tâm, nhị nguyên luận, thậm chí cả chủ nghĩa duy tâm tầm thường về
vấn đề con người. Ông là người khôi phục vị trí xứng đáng cho chủ nghĩa duy vật
trước Mác.

1.2. Nội dung triết học nhân bản của L.Phoiơbắc:
1.2.1. Quan niệm về giới tự nhiên và con người:
Dựa trên truyền thống duy vật, về bản thể luận L.Phoiơbắc cho rằng: giới
tự nhiên vật chất có trước ý thức và quyết định ý thức, ý thức không tự nó tồn tại
được vì nó chỉ là sản phẩm của một dạng vật chất, tồn tại vô cùng đa dạng, phong
phú và tự nó; không gian, thời gian và vận động là thuộc tính cố hữu, là phương
thức tồn tại của vất chất – giới tự nhiên. Nếu như Cantơ quan niệm không gian và
thời gian là hình thức "tiên nhiên" thì Phoiơbắc lại quan niệm không gian và thời
gian tồn tại khách quan, không có vật chất tồn tại vận động bên ngoài không gian
và thời gian. Bản thân giới tự nhiên bị chi phối bởi mối liên hệ nhân quả nên
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc GVPT: TS.
Bùi Văn Mưa
vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Mác

Trương Huỳnh Phạm Tân – 7701221003 3
Nhóm 6 - Đ1 - K22
không ngừng vận động, phát triển trong không gian, thời gian, theo các quy luật
khách quan nội tại; sự tồn tại khách quan của các quy luật tự nhiên, của quan hệ
nhân quả; thừa nhận sự vận động và phát triển của giới tự nhiên diễn ra một cách
khách quan sẽ dẫn đến sự ra đời của đời sống sinh học mà cao hơn là con người
và đời sống xã hội của con người; con người muốn hiểu giới tự nhiên phải xuất
phát từ chính bản thân mình, thông qua cảm giác và tư duy của chính mình – một
đóa hoa rực rỡ của giới tự nhiên, để nhận thức giới tự nhiên, tức tất cả những gì
không phải là siêu nhiên. Giới tự nhiên không phụ thuộc vào bất kỳ ai, vào bất kỳ
triết học nào. Ông đã kịch liệt chống lại triết học duy tâm và tôn giáo nói chung,
chủ nghĩa duy tâm của Hêghen nói riêng.
L.Phoiơbắc cho rằng không thể tách con người ra khỏi giới tự nhiên, vì
con người là sản phẩm tất yếu cao nhất của giới tự nhiên, còn giới tự nhiên là cơ
sở không thể thiếu của đời sống con người. Con người dựa vào giới tự nhiên để
thỏa mãn mọi nhu cầu cần thiết như ăn, mặc, ở, sinh đẻ… Còn những cái đó đã

ảnh hưởng đến tâm tư, tình cảm, đam mê, khát vọng, suy nghĩ, hiểu biết của mỗi
con người, mà xét đến cùng, chúng làm cho người này không giống người kia.
Do đó, theo L.Phoiơbắc, con người vừa mang bản tính cá nhân, và con người –
cá nhân cũng mang bản tính cộng đồng, có bản chất nằm trong tình yêu.
- Do mang bản tính cá nhân, mà mỗi con người là một cá thể, sinh học đặc
biệt có lý trí, có ý chí, có trái tim…của riêng mình để nhận thức, để khát vọng
đam mê, để rung động cảm xúc… Đó là con người đang tồn tại bằng xương bằng
thịt, đang sống, đang làm việc, đang yêu, đang nhận thức như mỗi chúng ta, chứ
không phải con người trong ý tưởng – con người trừu tượng. Với bản tính đó,
mỗi con người tiềm tàng một năng lực sáng tạo kỳ vĩ, năng lực này bắt nguồn từ
trong cá tính cá nhân của mỗi con người, chứ không phải xuất phát từ thượng đế.
- Do mang bản tính cộng đồng, mà mỗi con người cá nhân bị ràng buộc
với những người khác. Hạnh phúc của mỗi cá nhân không là hạnh phúc đơn độc
của mỗi con người mà là hạnh phúc được kiếm tìm trong sự hòa hợp với mọi
người, trong cộng đồng. Với bản tính đó, mỗi con người tiềm tàng một tình yêu
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc GVPT: TS.
Bùi Văn Mưa
vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Mác

Trương Huỳnh Phạm Tân – 7701221003 4
Nhóm 6 - Đ1 - K22
mênh mông dành cho con người, tình yêu cũng tuôn trào từ bản tính cộng đồng
của con người chứ không phải bắt nguồn từ Thượng đế.
- Bản tính vừa cá nhân vừa cộng đồng của con người, theo L.Phoiơbắc, là
cơ sở của tính ích kỷ hợp lý – thống nhất tính ích kỷ cá nhân với tính ích kỷ cộng
đồng xã hội. Tính ích kỷ hợp lý đòi hỏi các quyền lợi riêng tư của mỗi cá nhân
con người phải phù hợp hài hòa với quyền lợi chung của cộng đồng xã hội.
L.Phoiơbắc cho rằng, tình yêu giữa con người với nhau vừa là phương tiện vừa là
mục đích của sự hòa hợp xã hội, và hơn thế nữa nó còn là động lực của tiến bộ xã
hội, bởi vì nó là sự thể hiện rõ nhất bản chất người trong mỗi con người.

L.Phoiơbắc quan niệm rằng: Chúng ta sẽ không thể là con người nếu chúng ta
không biết yêu; và một đứa trẻ chỉ có thể trở thành người lớn khi nó biết yêu;
tình yêu phụ nữ là tình yêu phổ quát, ai không yêu phụ nữ người đó không yêu
con người. Tuy nhiên, trong “biển trời” mênh mông của tình yêu thì, tình yêu của
người đàn ông dành cho người đàn bà là tình yêu đích thực. Đối với L.Phoiơbắc,
con người và tình yêu chỉ là một, chúng không thể tách rời nhau. L.Phoiơbắc coi
bản chất con người là tổng thể các nhu cầu, khả năng, khát vọng, ham muốn…
Bản chất đó chỉ thật sự sống động khi mỗi cá nhân con người được sống trong sự
thỏa mãn nhu cầu tự nhiên và sự chan hòa với nhau trong cộng đồng xã hội. Theo
L.Phoiơbắc, con người thật sự luôn hành động một cách tự do theo tình cảm đam
mê, theo nhu cầu lợi ích, theo tình yêu khát vọng… của mình. Nhưng cái tự do
đó không tách rời ra khỏi sự bó buộc, không nằm ngoài mối quan hệ với các sự
vật tự nhiên hay cộng đồng nhân loại. Trong hạnh phúc có cả tự do và tất yếu.
Vươn đến hạnh phúc là biến hành động tất yếu thành hành động tự do. Con người
chỉ đạt được tự do khi nhu cầu được đảm bảo, khả năng được thực hiện, khát
vọng ham muốn được tuôn tràn…, nghĩa là bản chất người được thể hiện. Đời
sống hạnh phúc chỉ có được khi hành động tự do của con người thống nhất với
những điều kiện sống của họ. Vì vậy, muốn sống hạnh phúc, con người cần phải
cải tạo điều kiện sống sao cho phù hợp với bản tính của mình.


Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc GVPT: TS.
Bùi Văn Mưa
vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Mác

Trương Huỳnh Phạm Tân – 7701221003 5
Nhóm 6 - Đ1 - K22
1.2.2. Quan niệm về nhận thức:
Khi đứng vững trên quan điểm duy vật về khả năng con người nhận thức
được và nhận thức ngày càng đầy đủ thế giới, L.Phoiơbắc cho rằng, giới tự nhiên

và con người chứ không phải lý tính lôgích trừu tượng hay Thượng đế là khách
thể của nhận thức. Chủ thể nhận thức cũng không phải là lý tính logic trừu tượng
mà là con người sống động, tồn tại trong thực tế, có cảm giác và lý trí. Còn
Hêghen cho rằng Thượng đế sáng tạo ra giới tự nhiên và các tinh thần hữu hạn
khác, trong đó có tư duy con người. L.Phoiơbắc phê phán hệ thống duy tâm
khách quan của Hêghen ở chỗ Hêghen coi đối tượng tư duy không có gì khác với
bản chất của tư duy. Từ đó ông khẳng định, đối tượng nhận thức nói chung và
triết học nói riêng là giới tự nhiên và con người. Ông kêu gọi: Hãy quan sát giới
tự nhiên đi, hãy quan sát con người đi! Bạn sẽ thấy ở đấy, trước mắt bạn, những
bí mật của triết học. L.Phoiơbắc cho rằng, chủ thể nhận thức không phải trừu
tượng mà là con người cụ thể, con người có khả năng nhận thức được giới tự
nhiên.
L.Phoiơbắc có quan điểm duy vật về cảm giác. Khi đấu tranh chống lại
việc tuyệt đối hóa vai trò của tư duy trừu tượng, ông không hạ thấp nó. Với ông,
tư duy trừu tượng có vai trò gắn kết những tri thức rời rạc do cảm giác đem lại.
Cảm tính trực quan là nguồn gốc của tư duy lý luận, còn tư duy lý luận xử lý tài
liệu cảm tính để khám phá ra chân lý. Chân lý là sự phù hợp giữa tư tưởng trong
chủ thể với đối tượng được tư tưởng – khách thể. Nhờ vào năng lực của cảm giác
và lý trí mà con người có khả năng nhận thức đầy đủ giới tự nhiên, nhưng đó là
một quá trình lâu dài, thông qua các cá nhân và các thế hệ khác nhau. Nếu một
người không nhận thức được thế giới thì tất cả mọi thế hệ nối tiếp có thể nhận
thức được thế giới khách quan vô tận.
Đối với ông, thực tiễn là hoạt động bản năng mang tính thấp hèn, do đó nó
cần được loại ra khỏi nhận thức, trục xuất ra khỏi hệ thống triết học. Bản thân
ông cũng không hiểu chính hoạt động khoa học cũng là hoạt động thực tiễn,
không thấy vai trò của thực tiễn đối với đời sống xã hội.

Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc GVPT: TS.
Bùi Văn Mưa
vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Mác


Trương Huỳnh Phạm Tân – 7701221003 6
Nhóm 6 - Đ1 - K22
1.2.3. Quan niệm về tôn giáo:
L.Phoiơbắc cho rằng, tôn giáo không đơn giản là những ảo tưởng phi lý,
hoang đường mà còn là những mơ ước, khát vọng đời thường của con người. Sự
bất lực trong nhận thức, sự sợ hãi, đau khổ, khó khăn triền miên, niềm khao khát
mơ ước vươn lên trong cuộc sống đầy đau khổ bất hạnh, đầy bế tắc buồn thương
của con người đã sản sinh ra các tôn giáo. Tôn giáo chỉ là sự tha hóa bản chất của
con người. Ông kịch liệt phê phán tôn giáo và đã cố gắng chỉ ra nguồn gốc nhận
thức của tôn giáo. Còn Thượng đế chỉ là tập hợp những giá trị, mơ ước, khát
vọng mà con người muốn có. Vì vậy, giá trị, mơ ước, khát vọng của con người
như thế nào thì Thượng đế như thế nấy. Thượng đế là nhân cách cá nhân được
thần thánh hóa. Tuy nhiên, ông chưa thấy được nguồn gốc xã hội của tôn giáo.
Như vậy, theo L.Phoiơbắc, tôn giáo là sản phẩm tất yếu của tâm lý và nhận thức
của con người; không phải Thượng đế sinh ra con người mà chính con người đã
sinh ra Thượng đế.
L.Phoiơbắc cho rằng, tôn giáo và niềm tin vào Thượng đế đã chia cắt thế
giới cùng con người thành thế giới trần tục và thế giới thiên đường, tôn giáo làm
tha hóa con người để dễ dàng thống trị nó. Tôn giáo không chỉ kìm hãm mà còn
tước đi ở con người tính năng động sáng tạo, sự tự do và năng lực độc lập phán
xét. Ông đòi hỏi phải lựa chọn: hoặc là tôn giáo - tín ngưỡng – thượng đế, hoặc
là khoa học nhân bản – tình yêu – con người.
Dù L.Phoiơbắc đã phê phán mạnh mẽ tôn giáo, đặc biệt là Cơ đốc giáo;
nhưng càng phê phán tôn giáo ông càng nhận thức được rằng nếu thiếu tôn giáo,
con người sẽ khó sống, bởi vì con người cần có niềm tin để an ủi mình (dù là giả
tạo) trước cuộc đời đầy bất hạnh, đau khổ. Vì vậy, ông ra sức xây dựng một thứ
tôn giáo mới thay cho Cơ đốc giáo. Đó là tôn giáo của tình yêu vĩnh cữu phổ quát
giữa con người (trước hết là tình yêu nam nữ) dựa trên tính nhân bản mà trong đó
vai trò của Thượng đế được giao cho chính con người đảm trách. Trong tôn giáo

mới đó, tình yêu vừa là cơ sở, vừa là cứu cánh của con người để con người thật
sự sống đúng như bản tính của mình, nhằm biến trần gian thành thiên đàng trên
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc GVPT: TS.
Bùi Văn Mưa
vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Mác

Trương Huỳnh Phạm Tân – 7701221003 7
Nhóm 6 - Đ1 - K22
mặt đất. Chủ nghĩa nhân bản của ông thể hiện ở chỗ, ông muốn xây dựng một tôn
giáo mới trên cơ sở tình yêu của con người.
1.2.4. Quan niệm về chính trị - xã hội:
Cuối thế kỷ XVIII, dù chủ nghĩa tư bản đã được thiết lập ở một số nước
Châu Âu như Anh, Pháp, Ý… nhưng ở nước Đức vẫn duy trì chế độ phong kiến
lạc hậu và phân quyền với nhà nước Phổ mạnh mẽ. Nước phổ ngoan cố tăng
cường quyền lực để duy trì chế độ quân chủ phong kiến thối nát và cản trở đất
nước phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa. Giai cấp tư sản Đức, ít về số
lượng lại bị phân tán, yếu về kinh tế, nhược về chính trị nhưng có đời sống tư
tưởng tinh thần rất phong phú… Họ muốn làm một cuộc cách mạng mà lực bất
tòng tâm. Còn quần chúng nhân dân đang chịu sự áp bức bóc lột nặng nề muốn
thực hiện một hành động cách mạng nhưng không có lực lượng lãnh đạo. Giai
cấp tư sản cũng như tầng lớp trí thức Đức không đủ sức làm cách mạng trong
hiện thực, vì vậy, họ đã làm cách mạng trong tư tưởng. L.Phoiơbắc cũng không
ngoại lệ, ông rất căm ghét nhà nước quân chủ Phổ phong kiến. Ông gọi nó là chế
độ vô đạo đức và muốn thay nó bằng chế độ cộng hòa tư sản. Chủ nghĩa duy vật
nhân bản của L.Phoiơbắc thể hiện ở chỗ, ông cũng muốn xây dựng một xã hội
mới – xã hội cộng đồng chung – trên cơ sở tình yêu của con người. Đồng thời,
ông ủng hộ chủ nghĩa vị kỷ thông minh. Cũng trên cơ sở của chủ nghĩa duy vật
nhân bản, L.Phoiơbắc cho rằng, con người nên có của riêng nhưng phải có ở mức
độ vừa phải.
Chương 2: Những giá trị, hạn chế và vai trò của chủ nghĩa duy vật

L.Phoiơbắc đối với triết học Mác
2.1. Giá trị của chủ nghĩa duy vật nhân bản L.Phoiơbắc:
Triết học L.Phoiơbắc đã khôi phục truyền thống duy vật thế kỷ XVIII
trong hoàn cảnh chủ nghĩa duy tâm thống trị đời sống tinh thần ở phương Tây và
phát triển chủ nghĩa duy vật thêm một bước.



Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc GVPT: TS.
Bùi Văn Mưa
vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Mác

Trương Huỳnh Phạm Tân – 7701221003 8
Nhóm 6 - Đ1 - K22
2.1.1. Về quan niệm giới tự nhiên và con người:
Trong quan niệm về giới tự nhiên, quan điểm duy vật của ông là ông đã
khẳng định vật chất có trước và quyết định ý thức. Ông đã phủ định lại quan
điểm duy tâm của Hêghen.
Con người là vấn đề trung tâm trong triết học của L.Phoiơbắc và về cơ
bản ông giải quyết vấn đề này một cách duy vật. Vì vậy, triết học của ông được
gọi là triết học nhân bản. Ông đúng khi cho rằng, sự sống và bản thân con người
đều là kết quả của quá trình tiến hóa tự nhiên lâu dài của chính giới tự nhiên. Con
người trong triết học L.Phoiơbắc là con người có ngôn ngữ, tư duy, tình yêu, nổi
buồn, có hoài bão, ước mơ, có đạo đức và tình cảm tôn giáo, có những nhu cầu
sinh học.
- Quan điểm của L.Phoiơbắc về con người là một trong những thành tựu
của triết học trước Mác. Nhận xét về công lao của L.Phoiơbắc trong việc nghiên
cứu vấn đề con người, C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng, L.Phoiơbắc đã làm cho
chủ nghĩa duy vật được đồng nhất với chủ nghĩa nhân đạo.
- Nguyên lý nhân bản được L.Phoiơbắc vận dụng vào học thuyết luân lý

của mình, L.Phoiơbắc đã mở cửa cho tình yêu, cho cái thiện đi vào suy tư của
ông về văn hoá và con người.
2.1.2. Về quan niệm nhận thức:
Ông có quan điểm duy vật khi đã khẳng định con người nhận thức được
và nhận thức ngày càng đầy đủ thế giới.
2.1.3. Về quan niệm tôn giáo:
L.Phoiơbắc đã chỉ ra tôn giáo là sản phẩm tất yếu của tâm lý và nhận thức
của con người; Không phải Thượng đế sinh ra con người mà chính con người đã
sinh ra Thượng đế.
2.1.4. Về quan niệm chính trị - xã hội:
Ông muốn xây dựng một xã hội mới – xã hội cộng đồng chung – trên cơ
sở tình yêu của con người. Tư tưởng nhân đạo của ông mặc dù không thành hiện
thực nhưng thể hiện giá trị nhân văn cao cả.
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc GVPT: TS.
Bùi Văn Mưa
vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Mác

Trương Huỳnh Phạm Tân – 7701221003 9
Nhóm 6 - Đ1 - K22
2.2. Hạn chế của chủ nghĩa duy vật nhân bản L.Phoiơbắc:
2.2.1. Về quan niệm giới tự nhiên và con người:
Ở đây, L.Phoiơbắc chưa khắc phục được hạn chế duy vật siêu hình, coi
vật chất như là một cái gì thuần nhất. Tuy thừa nhận vật chất vận động nhưng
chưa lý giải được nguồn gốc, động lực, hình thức của vận động.
Chủ nghĩa duy vật nhân bản của ông chưa thoát khỏi quan điểm duy tâm,
đã tuyệt đối hóa tình yêu, coi tình yêu là bản chất con người mà không chú ý mặt
lịch sử - xã hội, không thấy điều kiện chính trị - xã hội mà con người phải sống
trong đó. Quan niệm về con người của ông rất trừu tượng, bởi vì nó không mang
tính lịch sử , tính giai cấp, tính dân tộc. L. Phoiơbắc mới thấy con người sinh
học, con người có tính loài, ông chưa nhìn thấy con người xã hội, con người giai

cấp. Khi phê phán cách hiểu trừu tượng về con người của L.Phoiơbắc, Ph.
Ăngghen viết: “Về hình thức, ông là một người hiện thực chủ nghĩa, ông lấy con
người làm xuất phát điểm, song ông hoàn toàn không nói đến thế giới trong đó
con người ấy sống, vì vậy, con người mà ông nói, luôn luôn là con người trừu
tượng“
Thông qua vai trò thực tiễn, C. Mác đã chứng minh tính lịch sử - xã hội
quy định bản chất con người: “L.Phoiơbắc hòa tan bản chất tôn giáo vào trong
bản chất con người. Nhưng bản chất con người không phải là một cái trừu tượng
cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là
tổng hòa của những quan hệ xã hội”. Luận đề này thể hiện tính chất duy vật triệt
để trong quan niệm của C.Mác về con người và lịch sử, chống lại những tư tưởng
duy tâm siêu hình về xã hội và con người trong các hệ thống triết học khác trong
lịch sử, nhất là triết học của L.Phoiơbắc.
Về đạo đức con người, L.Phoiơbắc đồng nhất quan hệ đạo đức trong mọi
giai đoạn lịch sử, mọi thời đại khác nhau. Ph.Ăngghen cho rằng: “những vết tích
cuối cùng của các tính chất cách mạng trong triết học của ông đều biến mất hết
và chỉ còn lại cái điệp khúc cũ kỹ: Hãy yêu nhau đi, hãy ôm nhau đi, không cần
phân biệt nam nữ và đẳng cấp. Thật là giấc mơ thiên hạ thuận hòa… Học thuyết
của L.Phoiơbắc về đạo đức thì cũng giống như tất cả những học thuyết trước đó.
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc GVPT: TS.
Bùi Văn Mưa
vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Mác

Trương Huỳnh Phạm Tân – 7701221003 10
Nhóm 6 - Đ1 - K22
Nó được gọt giũa cho thích hợp với mọi thời kỳ, mọi dân tộc, mọi hoàn cảnh, và
chính vì thế mà không bao giờ nó có thể đem áp dụng được ở đâu cả”.
2.2.2. Về quan niệm nhận thức:
Khuyết điểm của chủ nghĩa duy vật của L.Phoiơbắc là sự vật, hiện thực,
cái cảm giác chỉ được nhận thức dưới hình thức khách thể hay hình thức trực

quan, chứ không được nhận thức là hoạt động cảm giác của con người hay thực
tiễn, không được nhận thức về mặt chủ quan. Thành thử mặt năng động được chủ
nghĩa duy tâm phát triển, đối lập với chủ nghĩa duy vật, nhưng chỉ phát triển một
cách trừu tượng, vì chủ nghĩa duy tâm dĩ nhiên là không hiểu hoạt động hiện
thực, cảm giác được, đúng như là hoạt động hiện thực, cảm giác được.
L.Phoiơbắc muốn xem xét những khách thể cảm giác được, thực sự khác biệt với
những khách thể của tư tưởng, nhưng ông không xem xét bản thân hoạt động của
con người, như là hoạt động khách quan. Bởi thế, trong "Bản chất Đạo cơ đốc",
ông chỉ coi hoạt động lý luận là hoạt động đích thực của con người, còn thực tiễn
thì chỉ được ông xem xét và xác định trong hình thức biểu hiện Do Thái bẩn thỉu
của nó mà thôi. Vì vậy, ông không hiểu được ý nghĩa của hoạt động thực tiễn.
C.Mác viết: “Khuyết điểm chủ yếu của toàn bộ chủ nghĩa duy vật từ trước
đến nay, - kể cả chủ nghĩa duy vật của L.Phoiơbắc, - là sự vật, hiện thực, cái cảm
giác được, chỉ được nhận thức dưới hình thức khách thể hay hình thức trực quan,
chứ không được nhận thức là hoạt động cảm giác của con người, là thực tiễn,
không được nhận thức về mặt chủ quan”.
Nhìn chung, ông đứng trên lập trường duy vật để giải quyết vấn đề nhận
thức nhưng ông chưa thoát khỏi hạn chế của chủ nghĩa duy vật trước đó là chưa
hiểu được quá trình phát triển biện chứng của nhận thức, chưa thấy vai trò của
thực tiễn đối với nhận thức. Cho nên, quan điểm nhận thức của L.Phoiơbắc vẫn
nằm trong khuôn khổ của những phương pháp suy nghĩ siêu hình.
2.2.3. Về quan niệm tôn giáo:
Trong quan niệm về tôn giáo, L.Phoiơbắc đã kịch liệt phê phán tôn giáo
đặc biệt là Cơ đốc giáo nhưng cuối cùng ông lại ra sức xây dựng tôn giáo mới
thay cho tôn giáo cũ ông đã phê phán. Ở đây, ta thấy có sự không nhất quán với
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc GVPT: TS.
Bùi Văn Mưa
vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Mác

Trương Huỳnh Phạm Tân – 7701221003 11

Nhóm 6 - Đ1 - K22
nhau trong quan niệm của ông. Những quan điểm trên đây của Phoiơbắc về cơ
bản vạch ra được nguồn gốc tâm lý con người đối với tôn giáo. Tuy nhiên, ông
chưa chỉ rõ nguồn gốc thực sự của tôn giáo, chưa đề cập đến những cơ sở kinh tế
- xã hội của vấn đề. Khi chỉ ra tôn giáo cũng là sản phẩm của các điều kiện kinh
tế - xã hội trong từng thời kỳ lịch sử, C. Mác vạch ra nguồn gốc và bản chất của
tôn giáo trong mối quan hệ với đời sống hiện thực và nhu cầu tinh thần, tình cảm
của con người. C. Mác vạch ra nguồn gốc và bản chất của tôn giáo trong mối
quan hệ với đời sống hiện thực và nhu cầu tinh thần, tình cảm của con người.
C.Mác viết: “Sự nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu hiện của sự nghèo nàn hiện
thực, vừa là sự phản kháng chống sự nghèo nàn hiện thực ấy. Tôn giáo là tiếng
thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, cũng
giống như nó là tinh thần của những trật tự không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc
phiện của nhân dân”.
Những hạn chế của nguyên tắc nhân bản trong thế giới quan của
L.Phoiơbắc còn thể hiện rõ trong việc nghiên cứu tôn giáo. Ở lĩnh vực này, ông
lại rơi vào lập trường duy tâm thể hiện trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo.
Ph.Ăngghen viết: “Lời khẳng định của L.Phoiơbắc cho rằng “các thời đại
của loài người chỉ khác nhau bởi những thay đổi về phương diện tôn giáo” là
hoàn toàn sai. Chỉ có thể nói đến những bước ngoặt lịch sử lớn có kèm theo
những sự thay đổi về tôn giáo”. Trong quan niệm về tự nhiên, L.Phoiơbắc là nhà
duy vật; còn trong quan niệm về xã hội ông lại thể hiện quan điểm duy tâm. Ông
khẳng định những thời kỳ lịch sử loài người sở dĩ khác nhau chỉ do những thay
đổi các hình thức tôn giáo; thay thế tôn giáo cũ bằng tôn giáo mới sẽ làm cho xã
hội tiến lên. Ở đây, L.Phoiơbắc chưa thấy được vai trò của thực tiễn xã hội quyết
định sự vận động phát triển của xã hội loài người.
*Tóm lại về những hạn chế của chủ nghĩa duy vật nhân bản
L.Phoiơbắc: Trong quan hệ đối với triết học của Hêghen, ông có thái độ phủ
định sạch trơn, không thấy được thành tựu quý giá của Hêghen là phép biện
chứng để kế thừa và phát triển. Ông hiểu tính quy luật, tính tất yếu, tính nhân

quả… một cách siêu hình. Cho nên chủ nghĩa duy vật nhân bản của ông mang
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc GVPT: TS.
Bùi Văn Mưa
vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Mác

Trương Huỳnh Phạm Tân – 7701221003 12
Nhóm 6 - Đ1 - K22
nặng tính siêu hình. Ph.Ăngghen đã chỉ ra tính không triệt để trong triết học của
L.Phoiơbắc “nhưng cái triết học bay lượn trên tất cả các khoa học riêng biệt và
tổng hợp các khoa học ấy lại thành khoa học của các khoa học thì, đối với
L.Phoiơbắc vẫn là một hàng rào không thể vượt qua được, một vật thiêng liêng
bất khả xâm phạm, mà với tư cách là nhà triết học, ông cũng dừng lại ở nửa
đường, nửa dưới là duy vật nhưng nửa trên là duy tâm”. Những hạn chế trong
triết học của ông biểu hiện như:
- Một là, do phủ nhận hệ thống duy tâm của triết học Hêghen nên ông phủ
nhận luôn phép biện chứng; hơn nữa, ông hiểu phép biện chứng rất hời hợt –
phép biện chứng không phải là sự độc thoại của một nhà tư tưởng với bản thân
mình mà là sự đối thoại giữa Tôi và Anh…
- Hai là, do đứng trên quan điểm nhân đạo chung chung mà quan niệm về
con người rất trừu tượng, phi lịch sử; ông chỉ quan tâm đến mặt tự nhiên – sinh
học mà không chú ý mặt xã hội và điều kiện chính trị - xã hội của con người;
tuyệt đối hóa và coi tình yêu là bản chất con người.
- Ba là, do bỏ qua hoạt động thực tiễn nên L.Phoiơbắc coi nhận thức là
một quá trình tĩnh tại, thụ động của chủ thể tiếp nhận hình ảnh của khách thể mà
không phải là quá trình mang tính thực tiễn năng động, sáng tạo thế giới của con
người – chủ thể nhận thức. L.Phoiơbắc không chỉ không thấy được vai trò của
thực tiễn đối với nhận thức mà ông cũng không thấy được vai trò to lớn của thực
tiễn đối với sự hoàn thiện con người, thúc đẩy phát triển sản xuất nói riêng, xã
hội nói chung. Vì không thấy trong thực tiễn động lực phát triển xã hội nên ông
cố đi tìm nó trong tình yêu. Do không xuất phát từ quan điểm thực tiễn mà trong

lĩnh vực xã hội, L.Phoiơbắc cũng như mọi tư tưởng trước Mác đều sa vào chủ
nghĩa duy tâm quá đề cao sức mạnh tinh thần, trước hết là giáo dục, đạo đức,
pháp luật… mà không thấy được vai trò của nền sản xuất vật chất đối với sự tồn
tại và phát triển của xã hội.


Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc GVPT: TS.
Bùi Văn Mưa
vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Mác

Trương Huỳnh Phạm Tân – 7701221003 13
Nhóm 6 - Đ1 - K22
2.3 Vai trò của chủ nghĩa duy vật nhân bản L.Phoiơbắc đối với triết học
Mác:
Ph.Ăngghen đã đánh giá cao vai trò của L.Phoiơbắc trong cuộc đấu tranh
chống lại chủ nghĩa duy tâm, phục hồi và phát triển chủ nghĩa duy vật.
Ph.Ăngghen coi tác phẩm “Bản chất đạo Cơ đốc” có tác dụng giải phóng và đưa
một cách không úp mở chủ nghĩa duy vật trở lại ngôi vua. Tư tưởng duy vật của
L.Phoiơbắc có ảnh hưởng to lớn đối với thế giới quan triết học của Mác và
Ph.Ăngghen lúc bấy giờ và “là khâu trung gian” giữa triết học của Hêghen và
triết học của hai ông. Khi chỉ ra vai trò to lớn đó của L.Phoiơbắc trong cuộc đấu
tranh chống lại chủ nghĩa duy tâm, phục hồi và phát triển chủ nghĩa duy vật,
Ph.Ăngghen cũng khẳng định rằng L.Phoiơbắc chưa vượt khỏi những hạn chế
lịch sử của chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVIII. Ph.Ăngghen đã chỉ ra ba hạn chế lớn
như sau: thứ nhất, chủ nghĩa duy vật của thế kỷ đó chủ yếu là có tính chất máy
móc; thứ hai, chủ nghĩa duy vật đó có đặc trưng siêu hình, có nghĩa là không biện
chứng, và thứ ba, chủ nghĩa duy vật đó không triệt để, duy tâm trong cách hiểu
về các hiện tượng xã hội.
Trong quan hệ với triết học của Hêghen, Ph.Ăngghen cho rằng,
L.Phoiơbắc có công lao phê phán chủ nghĩa Hêghen, song thiếu sót lớn của

L.Phoiơbắc trong vấn đề này là không biết kế thừa hạt nhân hợp lý của triết học
Hêghen là phép biện chứng. “L.Phoiơbắc đã đập tan hệ thống Hêghen và chỉ đơn
giản gạt nó ra một bên thôi. Song chỉ tuyên bố một triết học nào đó là sai lầm thì
chưa có nghĩa là thắng được nó”. Ph.Ăngghen cũng đòi hỏi “phải tiêu diệt hình
thức của nó bằng phê bình, nhưng cứu lấy nội dung mới mà nó đã đạt được”.
Nhưng ưu điểm mà chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc đã đem đến là một ý
nghĩa khoa học thực sự cho phép biện chứng nói riêng, cho triết học Mác nói
chung. Xét ở khía cạnh này thì không thể từ chối công lao của Phoiơbắc:
“Phoiơbắc là nhà tư tưởng duy nhất mà chúng ta nhận thấy có thái độ nghiêm
túc, phê phán đối với phép biện chứng của Hêghen; chỉ có ông mới có những
phát hiện chân chính trong lĩnh vực ấy và nói chung đã thực sự khắc phục triết
học cũ. Tầm vĩ đại của cái mà Phoiơbắc đã làm, tính giản dị khiêm tốn của ông
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc GVPT: TS.
Bùi Văn Mưa
vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Mác

Trương Huỳnh Phạm Tân – 7701221003 14
Nhóm 6 - Đ1 - K22
khi ông phát biểu trước thế giới tương phản một cách lạ lùng với cái mà người ta
nhận thấy về phương diện này ở những nhà phê phán”
Những tư tưởng triết học duy vật và vô thần của L.Phoiơbắc tạo tiền đề lý
luận quan trọng cho bước chuyển của C.Mác và Ph.Ăngghen từ chủ nghĩa duy
tâm sang chủ nghĩa duy vật, từ lập trường dân chủ cách mạng sang lập trường
cộng sản.
*Tóm lại về giá trị của chủ nghĩa duy vật nhân bản L.Phoiơbắc: triết
học duy vật nhân bản của L.Phoiơbắc là cống hiến vĩ đại của ông cho kho tàng
triết học cổ điển Đức nói chung và nhân loại nói riêng. Tuy chưa triệt để nhưng
ông đã giải quyết được vấn đề con người và nhận thức bằng quan điểm duy vật.
Tư tưởng triết học của ông sau này được C.Mác và Ph.Ăngghen kế thừa có phê
phán để cho ra đời chủ nghĩa duy vật biện chứng hoàn thiện nhất.




Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc GVPT: TS.
Bùi Văn Mưa
vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Mác

Trương Huỳnh Phạm Tân – 7701221003 15
Nhóm 6 - Đ1 - K22
PHẦN C: KẾT LUẬN
Triết học L.Phoiơbắc đã khôi phục được truyền thống duy vật thế kỷ
XVIII trong hoàn cảnh chủ nghĩa duy tâm thống trị đời sống tinh thần ở Phương
Tây, và phát triển chủ nghĩa duy vật thêm một bước. Ông đã trình bày sáng rõ
nhiều quan điểm duy vật; ông phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa duy tâm và Cơ đốc
giáo; ông biết đặt con người vào đúng tâm điểm phân tích triết học. Triết học của
ông chất chứa đầy tính duy vật khả tri và nhân bản, nó là một cội nguồn tư tưởng
của triết học Mác.
Triết học của L.Phoiơbắc không sâu, còn nhiều quan niệm siêu hình,
phiến diện trong lý giải đối tượng triết học, trong việc phân tích bản chất con
người, trong việc tìm hiểu thực tiễn và xác định vai trò của nó trong nhận thức và
cuộc sống… Đặc biệt, trong việc xác định nguồn gốc, động lực phát triển và
phương tiện cải tạo xã hội, quan điểm của L.Phoiơbắc còn đầy tính duy tâm. Thái
độ đối với tôn giáo của ông không nhất quán…Ông phủ nhận hoàn toàn hệ thống
duy tâm của triết học Hêghen nên ông phủ nhận luôn phép biện chứng. Ông đứng
trên quan điểm nhân đạo chung chung mà quan niệm về con người rất trừu
tượng, phi lịch sử. L.Phoiơbắc không nhận ra vai trò to lớn của thực tiễn trong
nhận thức, trong xã hội…nên sa vào chủ nghĩa duy tâm.
Mặc dù còn những hạn chế siêu hình trong quan điểm về tự nhiên, duy
tâm trong quan điểm về xã hội, chưa có quan điểm duy vật triệt để về con người
nhưng L.Phoiơbắc đã có công lao trong việc khôi phục và phát triển chủ nghĩa

duy vật chống lại quan điểm duy tâm và tôn giáo; vì thế, quan điểm duy vật của
ông cùng với tư tưởng biện chứng của I.Cantơ và phép biện chứng của Hêghen
trở thành tiền đề lý luận hình thành triết học Mác - Lênin.
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc GVPT: TS.
Bùi Văn Mưa
vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Mác

Trương Huỳnh Phạm Tân – 7701221003 16
Nhóm 6 - Đ1 - K22
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình Triết Học – Phần I – Đại cương về lịch sử triết học – TS.
Bùi Văn Mưa.
2. Giáo trình Triết Học - Phần II – Các chuyên đề về triết học Mác-
Lenin – TS. Bùi Văn Mưa.
3. Lútvích Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức –
Ph.Ăngghen.
4. Bản thảo kinh tế triết học năm 1844 – C.Mác.
5. Phoiơbắc sự đối lập giữa quan điểm duy vật chủ nghĩa và quan điểm
duy tâm chủ nghĩa – Nhà xuất bản sự thật.
6. www.google.com

Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc GVPT: TS.
Bùi Văn Mưa
vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Mác

Trương Huỳnh Phạm Tân – 7701221003 17
Nhóm 6 - Đ1 - K22
MỤC LỤC


PHẦN A: LỜI MỞ ĐẦU 1

PHẦN B: NỘI DUNG 2

Chương 1: Tổng quan về chủ nghĩa duy vật nhân bản L.Phoiơbắc 2

1.1. Những nét chính về L.Phoiơbắc: 2

1.2. Nội dung triết học nhân bản của L.Phoiơbắc: 2

1.2.1. Quan niệm về giới tự nhiên và con người: 2

1.2.2. Quan niệm về nhận thức: 5

1.2.3. Quan niệm về tôn giáo: 6

1.2.4. Quan niệm về chính trị - xã hội: 7

Chương 2: Những giá trị, hạn chế và vai trò của chủ nghĩa duy vật L.Phoiơbắc
đối với triết học Mác 7

2.1. Giá trị của chủ nghĩa duy vật nhân bản L.Phoiơbắc: 7

2.1.1. Về quan niệm giới tự nhiên và con người: 8

2.1.2. Về quan niệm nhận thức: 8

2.1.3. Về quan niệm tôn giáo: 8

2.1.4. Về quan niệm chính trị - xã hội: 8


2.2. Hạn chế của chủ nghĩa duy vật nhân bản L.Phoiơbắc: 9

2.2.1. Về quan niệm giới tự nhiên và con người: 9

2.2.2. Về quan niệm nhận thức: 10

2.2.3. Về quan niệm tôn giáo: 10

2.3 Vai trò của chủ nghĩa duy vật nhân bản L.Phoiơbắc đối với triết học Mác: 13

PHẦN C: KẾT LUẬN 15

TÀI LIỆU THAM KHẢO 16



×