Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Tiểu luận triết CHỦ NGHĨA DUY VẬT NHÂN BẢN CỦA PHOIƠBẮC VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI TRIẾT HỌC MÁC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (225.18 KB, 19 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HỒ CHÍ MINH
  
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

Đề tài 11:
CHỦ NGHĨA DUY VẬT NHÂN BẢN CỦA
PHOIƠBẮC VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI
TRIẾT HỌC MÁC
TP Hồ Chí Minh
Tháng 12/ 2014
GVPT : TS. Bùi Văn Mưa
Học viên: Phùng Viết Đức
STT : 18 - Nhóm : 6
Lớp : QTKD Đ1 - Khóa: 23
Mục lục
I. Tổng quan

1
1. Giới thiệu

1
2. Nội dung đề tài

1
II. Những nội dung cơ bản của chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc

2
1. Triết học cổ điển Đức

2


1.1. Hoàn cảnh ra đời

2
1.2. Những đặc điểm chính của triết học cổ điển Đức

2
2. Triết học Phoiơbắc

4
2.1. Sự phê phán triết học Hêghen. Chủ nghĩa duy vật nhân bản của
Phoiơbắc

4
2.2. Quan diểm về giới tự nhiên và con người

5
2.3. Quan điểm của Phoiơbắc về tôn giáo và cuộc đấu tranh chống tôn
giáo

8
2.4. Kết luận về triết học Phoiơbắc

10
2.5. Luận cương về Phoiơbắc của Mác

11
3.Sự ảnh hưởng của triết học Phoiơbắc đối với sự hình thành triết học Mác

13
III. Kết luận


15
IV. Tài liệu tham khảo

16
Tiểu luận Triết học
I. TỔNG QUAN
1. Giới thiệu
Triết học cổ điển Đức là giai đoạn phát triển mới về chất trong lịch sử tư tưởng Tây Âu
và thế giới cuối thế kỷ18- đầu thế kỷ 19. Đây là đỉnh cao của thời kỳ triết học cổ điển
phương Tây, đồng thời có ảnh hưởng to lớn tới triết học hiện đại.
Phoiơbắc là đại diện vĩ đại cuối cùng của triết học cổ điển Đức. Người có công lao to lớn
đấu tranh chống lại chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo, phục hồi và phát triển chủ nghĩa duy vật
trong thời kỳ chuẩn bị cách mạng tư sản Đức (1848).
Triết học Mác – Lênin ra đời từ nửa cuối thế kỷ XIX và phát triển cho đến ngày nay. Từ
khi ra đời, triết học Mác – Lênin đã tạo ra một cuộc cách mạng trong lịch sử triết học và
trở thành thế giới quan, phương pháp luận của hoạt động nhận thức cũng như hoạt động
thực tiễn của con người.
Để xây dựng học thuyết của mình ngang tầm với trí tuệ nhân loại, Các Mác và
Ph.Ăngghen đã kế thừa những thành tựu trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Triết học Đức
với hai nhà triết học tiêu biểu Hêghen và Phoiơbắc là nguồn gốc trực tiếp của triết học
Mác.
Vì vậy đề tài này sẽ làm rõ vai trò của Triết học Phoiơbắc đối với sự hình thành và phát
triển của Triết học Mác.
2. Nội dung đề tài
Phần nội dung của đề tài sẽ bao gồm các vấn đề về Triết học cổ điển Đức và những quan
điểm duy vật của Triết học Phoiơbắc và vai trò của chúng đối với sự hình thành và phát
triển của Triết học Mác.
Phùng Viết Đức – MSHV: 7701220188 4
Tiểu luận Triết học

II. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA
DUY VẬT NHÂN BẢN PHOIƠBẮC
1. Triết học cổ điển Đức
1.1. Hoàn cảnh ra đời
Đến cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản đã được thiết lập ở một số nước
Tây Âu như Italia, Anh, Pháp, đem lại một nền sản xuất chưa từng có trong lịch sử, tỏ ra
ưu việt hơn hẳn so với tất cả các chế độ trước đó.
Trong khi ở nhiều nước Tây Âu đang có những thay đổi nhảy vọt như vậy, thì nước Đức
cho đến đầu thế kỷ XIX vẫn là một quốc gia phong kiến lạc hậu. Liên bang Đức chỉ tồn
tại về hình thức, thực chất đất nước còn phân chia thành nhiều tiểu vương quốc nhỏ tách
biệt nhau. Tình trạng đó gây nhiều trở ngại đối với sự phát triển của đất nước. Triều đình
vua Phổ Phiđrích Vinhem (1770-1840) vẫn ngoan cố tăng cường quyền lực và duy trì chế
độ phong kiến thối nát,cản trở đất nước phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa. Cả
đất nước bao trùm bầu không khí bất bình của đông đảo quần chúng. Như Ph.Ăngghen
nhận xét, có thể coi đây là một trong những thời kỳ yếu hèn nhất trong lịch sử nước Đức.
1.2. Những đặc điểm chính của triết học cổ điển Đức
Tuy lạc hậu về kinh tế và chính trị, nước Đức thời kỳ này đạt được sự phát triển chưa
từng có về triết học, văn hoá nghệ thuật. Giờ đây cần có cách nhìn mới về hiện tượng tự
nhiên và tiến trình lịch sử nhân loại, cần có quan niệm mới về khả năng và hoạt động của
con người. Và triết học cổ điển Đức ra đời nhằm đáp ứng với sứ mạng lịch sử đó của
không chỉ riêng nước Đức, mà cả phương Tây nói chung cho nên nó có những đặc điểm
chính sau :
- Thứ nhất đây là thế giới quan và ý thức hệ của giai cấp tư sản Đức cuối thế kỷ
XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX. Hầu hết các đại biểu của nó như Cantơ, Hêghen ,
Phùng Viết Đức – MSHV: 7701220188 5
Tiểu luận Triết học
đều xuất thân từ những tầng lớp thượng lưu trong xã hội. Nhận thấy sự trì trệ của
xã hội Đức phong kiến thời đó, được sự cổ vũ của giai cấp tư sản nhiều nước nhất
là cách mạng tư sản Pháp (1789-1794), họ thể hiện nguyện vọng tiến bộ của giai
cấp tư sản đấu tranh vì một trật tự xã hội mới ở Đức, nhằm đem lại sự thịnh vượng

phồn vinh và thống nhất cho đất nước. Và nói chung trong thế giới quan của các
nhà triết học cổ điển Đức thể hiện khá rõ mâu thuẫn giữa tính cách mạng và khoa
học về tư tưởng với sự bảo thủ, cải lương về lập trường chính trị- xã hội.
- Đặc điểm thứ hai của nó là đặc biệt đề cao vai trò tích cực của hoạt động con
người, thực hiện bước ngoặt trong lịch sử triết học phương Tây từ chỗ chủ yếu bàn
về những vấn đề bản thể luận đến chỗ coi con người như một chủ thể hoạt động
là nền tảng và điểm xuất phát của mọi vấn đề triết học.
- Đặc điểm thứ ba của triết học cổ điển Đức là nó dựa trên một cách nhìn biện
chứng về thế giới hiện thực. Các nhà triết học cổ điển Đức những tư tưởng biện
chứng trong các di sản triết học truyền thống từ thời cổ đại, xây dựng phép biện
chứng trở thành một phương pháp luận triết học trong việc nghiên cứu các hiện
tượng tự nhiên và xã hội. Dù dưới hình thức duy tâm, triết học cổ điển Đức đó đưa
lại cho chúng ta phương pháp tư duy biện chứng, một phương pháp tư duy mà sau
này, khi được Các Mác và Ăngghen cải tạo thì nó trở thành "linh hồn của chủ
nghĩa Mác"
Với cách nhìn biện chứng bao quát toàn bộ hiện thực nhiều nhà triết học cổ điển Đức có
ý đồ hệ thống hoá toàn bộ những tri thức và thành tựu mà nhân loại đạt được từ trước tới
giờ. Và đây là đặc điểm thứ tư của triêt học cổ điển Đức. Tiếp thu những tinh hoa của
siêu hình học thế kỷ XVII trong việc phát triển tư duy lý luận và hệ thống hóa toàn bộ tri
thức con người, các triết học từ Cantơ tới Hêghen đều có ý đồ xây dựng một hệ thống
triết học vạn năng của mình làm nền tảng cho toàn bộ thế giới quan con người, khôi phục
lại quan niệm coi triết học là khoa học của mọi khoa học.
Và Phoiơbắc là đại diện vĩ đại cuối cùng của triết học cổ điển Đức. Người có công lao to
lớn đấu tranh chống lại chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo, phục hồi và phát triển chủ nghĩa duy
vật trong thời kỳ chuẩn bị cách mạng tư sản Đức (1848).
Phùng Viết Đức – MSHV: 7701220188 6
Tiểu luận Triết học
2. Triết học Phoiơbắc
Lútvích Phoiơbắc (28/7/1804 – 13/9/1872) là một đại biểu lỗi lạc của nền triết học cổ
điển Đức, nhà duy vật lớn nhất của triết học thời kỳ trước Mác, nhà vô thần, bậc tiền bối

của triết học Mác. Ông sinh năm 1804 trong một gia đình luật sư nổi tiếng ở Đức. Anh
của ông, Karl Wilhelm Feuerbach, là một nhà toán học. Cháu của ông, Anselm, là một
hoạ sĩ. Ông đã theo học ở trường đại học tổng hợp Beclin, tham gia phái Hêghen trẻ. Về
sau ông tách khỏi phái này, trở thành người phê phán hệ thống của Hêghen, xây dựng hệ
thống triết học duy vật riêng của mình. Các tác phẩm triết học lớn của ông là "Những
nguyên lý cơ bản của triết học tương lai" (l843); "Bản chất của cơ đốc giáo", "lịch sử triết
học". Trong các tác phẩm này Phoiơbắc luận chứng cho những quan điểm duy vật của
ông.
2.1. Sự phê phán triết học Hêghen. Chủ nghĩa duy vật nhân bản của
Phoiơbắc
Sau khi Hêghen qua đời, những người theo học thuyết Hêghen đã phân hoá thành hai
nhóm là " Hêghen trẻ" và " Hêghen già". Phái Hêghen già thì bám lấy mặt bảo thủ của hệ
thống Hêghen, bảo vệ chế độ nhà nước Phổ đã lỗi thời về mặt lịch sử. Trái lại phái
Hêghen trẻ lại phát triển triết học Hêghen về phía lập trường giai cấp tư sản cấp tiến, dân
chủ, đòi cải cách nhà nước Phổ theo hướng tư sản. Họ nắm lấy tinh thần của phép biện
chứng trong triết học Hêghen. Trong nhóm " Hêghen trẻ" có cả Phoiơbắc, Mác và
Ăngghen.
Thời trẻ, Phoiơbắc gia nhập phái Hêghen trẻ, tin rằng tôn giáo, các khái niệm của tinh
thần tuyệt đối thống trị thế giới hiện thực. Về sau, chịu ảnh hưởng của các nhà khai sáng
Pháp thế kỷ XVIII Phoiơbắc quay sang phê phán Hêghen, ngày càng ngả sang lập trường
duy vật. Hạn chế cơ bản nhất của triết học Hêghen, theo Phoiơbắc, là sự đồng nhất giữa
tư duy và tồn tại, là quan điểm duy tâm trong việc giải quyết mối quan hệ giữa con người
và tự nhiên, coi toàn bộ thế giới hiện thực chỉ là hiện thân của tinh thần tuyệt đối được
hiểu như một lực lượng siêu tự nhiên. Phoiơbắc vạch ra sự liên kết chặt chẽ giữa chủ
nghĩa duy tâm và thần học nhằm nô dịch con người (coi ý niệm tuyệt đối tha hoá thành
Phùng Viết Đức – MSHV: 7701220188 7
Tiểu luận Triết học
giới tự nhiên cũng giống như quan niệm Chúa trời tạo ra thế giới). Phoiơbắc chỉ ra rằng
Hêghen chỉ khác thần học ở chỗ ông đã sử dụng một hình thức khác để diễn đạt tư tưởng
của mình, tức là ông đã biến lịch sử thần học thành cái gọi là tư duy logic mà thôi. Vì

vậy, Phoiơbắc cho rằng: "Triết học Hêghen là chỗ ẩn náu cuối cùng của thần học mối
quan hệ giữa tư duy và tồn tại như sau: tồn tại - chủ thể, tư duy - thuộc tính."
2.2. Quan điểm về giới tự nhiên và con người
Dựa trên truyền thống duy vật, PhoiơBắc cho rằng : giới tự nhiên vật chất có trước ý
thức, tồn tại vô cùng đa dạng, phong phú và tự nó; không gian, thời gian và vận động là
thuộc tính cố hữu, là phương thức tồn tại của vật chất – giới tự nhiên; bản thân giới tự
nhiên bị chi phối bởi mối liên hệ nhân quả nên không ngừng vận động, phát triển trong
không gian, thời gian, theo các quy luật khách quan nội tại; trong những điều kiện nhất
định; quá trình phát triển của giới tự nhiên sẽ dẫn đến sự ra đời của đời sống sinh học mà
cao hơn là con người và đời sống xã hội của con người. Con người muốn hiểu giới tự
nhiên phải xuất phát từ chính bản thân mình, thông qua cảm giác và tư duy của chính
mình – một đoá hoa rực rỡ của giới tự nhiên, để nhận thức giới tự nhiên, tức tất cả nhừng
gì không phải là siêu nhiên…
Đối lập với triết học Hêghen, Phoiơbắc cho rằng con người không phải là nô lệ của
thượng đế hay tinh thần tuyệt đối mà là sản phẩm cao nhất của tự nhiên; con người là
biểu hiện của sự phát triển hoàn thiện nhất của giới tự nhiên. Vì vậy, nhận thức con người
là nền tảng và chìa khoá để nhận thức thế giới. Phoiơbắc nói rằng, phải giải quyết vấn đề
quan hệ tư duy - tồn tại trên lập trường duy vật. Tư duy là chức năng của một dạng vật
chất có tổ chức cao là cơ thể người. Bản thân con người cụ thể là sự thống nhất giữa thể
xác của anh ta với tư duy là chức năng của cơ thể đó, giữa cấu trúc và chức năng, giữa
giải phẫu và sinh lý. Coi con người là sự thể hiện hoàn hảo mối quan hệ tư duy - tồn tại,
Phoiơbắc khẳng định chỉ có thể giải quyết vấn đề vật chất - tinh thần trong nhân bản học,
quy các vấn đề triết học thành các vấn đề quan hệ giữa các ngành khoa học nghiên cứu
giải phẫu và sinh lý, cấu trúc và chức năng. Chân lý, theo Phoiơbắc, không phải là chủ
Phùng Viết Đức – MSHV: 7701220188 8
Tiểu luận Triết học
nghĩa duy vật hay chủ nghĩa duy tâm chân lý chỉ có thể là nhân bản học, tức học thuyết
về con người.
Vậy con người là gì? Phoiơbắc cho rằng đó là những con người bằng xương, bằng thịt
đang sống và làm việc, là chính bản thân chúng ta chứ không phải là con người trong trí

tưởng tượng. Hơn tất các sự vật hiện tượng khác trong giới tự nhiên, con người là một
thực thể sinh vật có cảm giác, biết tư duy, có ham muốn, có hoài bão, khát vọng, là một
bộ phận của tự nhiên mà xét theo bản chất là có tình thương yêu. Theo PhoiơBắc, con
người vừa mang bản tính cá nhân và bản tính cộng đồng.
- Do mang bản tính cá nhân mà mỗi con người là một cá thể sinh học đặc biệt có lý
trí, có ý chí, có trái tim… của riêng mình để nhận thức, để khát vọng đam mê, để
rung động cảm xúc…Đó là con người đang tồn tại bằng xương bằng thịt, đang
sống, đang làm việc, đang yêu, đang nhận thức như mỗi chúng ta, chứ không phải
con người trong ý tưởng – con người trừu tượng. Với bản tính đó, mỗi con người
tiềm tàng một năng lực sáng tạo kì vĩ, năng lực này bắt nguồn từ trong cá tính cá
nhân của mỗi con người, chứ không phải xuất phát từ Thượng đế.
- Do mang bản tính cộng đồng mà mỗi con người cá nhân bị ràng buộc với những
người khác. Hạnh phúc của mỗi cá nhân không là hạnh phúc đơn độc của mỗi con
người mà là hạnh phúc được kiếm tìm trong sự hoà hợp với mọi người, trong cộng
đồng. Với bản tính đó, mỗi con người tiềm tàng một tình yêu mênh mông dành
cho con người, tình yêu cũng tuôn trào từ bản tính cộng đồng của con người chứ
không phải bắt nguồn từ Thượng đế. Phoiơbắc cho rằng tình yêu giữa con người
với nhau vừa là phương tiện vừa là mục đích của sự hoà hợp xã hội, và hơn thế
nữa nó còn là động lực tiến bộ xã hội, bởi vì nó là sự thể hiện rõ nhất bản chất
người trong mỗi con người. Phoiơbắc quan niệm rằng : Chúng ta sẽ không thể là
con người nếu không biết yêu, và một đứa trẻ chỉ trở thành người lớn khi nó biết
yêu; tình yêu phụ nữ là tình yêu phổ quát, ai không yêu phụ nữ người đó không
yêu con người. Tuy nhiên, trong “biển trời” mênh mông của tình yêu thì tình yêu
Phùng Viết Đức – MSHV: 7701220188 9
Tiểu luận Triết học
của người đàn ông dành cho người đàn bà là tình yêu đích thực. Đối với Phoiơbắc,
con người và tình yêu chỉ là một, chúng không thể tách rời nhau.
Con người trong triết học Phoiơbắc là con người cụ thể bằng xương, bằng thịt. Bản chất
con người là tổng thể những khát vọng, khả năng, nhu cầu của anh ta. Phoiơbắc cũng
nhận thấy ảnh hưởng to lớn của môi trường, điều kiện sống, hoàn cảnh đối với tư duy và

ý thức con người. Ông quả quyết rằng trong cung điện người ta suy nghĩ khác trong lều
tranh. Rằng nếu cơ thể một người đói chất thì trong đầu óc và trái tim anh ta cũng không
có chất cho đạo đức và các quan niệm khác. Tuy nhiên, hạn chế của Phoiơbắc ở đây là
ông chưa thấy con người xã hội, không thấy rằng con người được tạo nên và bị chi phối
bởi các quan hệ xã hội như thế nào. Ông chỉ xét con người về mặt sinh học mà thôi (là
một bộ phận của tự nhiên, tách rời các điều kiện kinh tế - xã hội và lịch sử).
Khi nghiên cứu và đánh giá sự phê phán của Phoiơbắc đối với Hêghen cũng như học
thuyết của ông về con người chúng ta có thể rút ra mấy nhận xét sau:
- Thứ nhất, Phoiơbắc phê phán Hêghen trên lập trường nhân bản học duy vật, phê
phán ý niệm tuyệt đối của Hêghen nhưng đồng thời lại phủ nhận luôn cả phương
pháp tư duy biện chứng của Hêghen. Phoiơbắc tuyên bố: "phép biện chứng không
phải là sự độc thoại của một nhà tư tưởng với chính bản thân mình, mà là sự đối
thoại giữa Tôi và Anh". Phương pháp biện chứng trên thực tế đã bị Phoiơbắc tầm
thường hoá, quy thành mối quan hệ giao tiếp thông thường giữa mọi người trong
xã hội. Đây là hạn chế cơ bản của Phoiơbắc trong việc phê phán và đánh giá triết
học Hêghen.
- Thứ hai, con người được Phoiơbắc hiểu theo nghĩa cá thể (individium): Mỗi người
đều có những nét riêng biệt mà không ai có, vì vậy bản chất của con người rất da
dạng. "tất cả chúng ta là những con người, nhưng mỗi con người lại là một người
khác"
Quan niệm trên đây của Phoiơbắc về con người có điểm hợp lý ở chỗ nó được xây dựng
trên nền tảng duy vật. Hơn nữa nó đề cao tính cá thể của con người, nhấn mạnh sự năng
động và sáng tạo cá nhân của con người cũng như những lợi ích, nhu cầu cá nhân của con
Phùng Viết Đức – MSHV: 7701220188 10
Tiểu luận Triết học
người. Tuy nhiên, hạn chế của Phoiơbắc là ở chỗ ông không nhận thấy bản chất xã hội
của con người, cũng như vai trò của hoạt động thực tiễn con người trong nhận thức và cải
tạo thế giới. Ông không coi trọng một thực tế là mỗi người tuy là cá thể nhưng lại sinh ra
trong một hoàn cảnh xã hội nhất định; thuộc một tầng lớp hoặc giai cấp nhất định, thuộc
một dân tộc và một thời đại lịch sử nhất định. Vì vậy, theo nhận xét của Ăngghen, con

người của Phoiơbắc là con người phi lịch sử, phi giai cấp và vì vậy, cực kỳ trừu tượng.
Rốt cuộc quan niệm của Phoiơbắc về con người, kể cả xét theo khía cạnh cá thể được coi
là điểm mạnh nhất ở ông, cũng phải nhường bước cho một số nhà tâm sinh lý học đương
thời và sau ông như Freud, ở khía cạnh xã hội, khía cạnh mà Phoiơbắc hầu như không đề
cập đến, về sau được Mác nghiên cứu.
2.3. Quan niệm của Phoiơbắc về tôn giáo và cuộc đấu tranh chống tôn giáo.
Cụ thể hoá những quan niệm trên đây về con người, Phoiơbắc phân tích các vấn đề tôn
giáo.
Tôn giáo, theo ông, là sản phẩm tất yếu của tâm lý cá nhân và bản chất con người. Người
ta ai cũng sợ chết, cần có niềm tin và an ủi. Bản chất của thần học, do vậy, chứa đựng
trong nhân bản học, là sản phẩm của sự tưởng tượng phong phú của con người. Tôn giáo
thể hiện sự mềm yếu, bất lực của con người đối với các vấn đề xã hội.Tôn giáo chỉ là sự
tha hoá bản chất của con người. Còn Thượng để chỉ là tập hợp những giá trị, mơ ước,
khát vọng mà con người muốn có. Vì vậy, giá trị, mơ ước, khát vọng của con người như
thế nào thì Thượng đế như thế nấy.Thượng đế chỉ là nhân cách cá nhân được thần thánh
hoá. Như vậy, theo Phoiơbắc, tôn giáo là sản phẩm tất yếu của tâm lý và nhận thức của
con người. Không phải Thượng đế sinh ra con người mà chính con người đã sinh ra
Thượng đế. Tôn giáo không chỉ kìm hãm mà còn tước đi ở con người tính năng động
sáng tạo, sự tự do và năng lực độc lập phán xét. Ông đòi hỏi phải lựa chọn : hoặc là tôn
giáo – tín ngưỡng – thượng đế, hoặc là khoa học nhân bản – tình yêu – con người.
Tôn giáo thực chất là sự thể hiện bản chất của con người dưới hình thức thần bí.
Phoiơbắc nói: "Tư tưởng và dụng ý của con người như thế nào thì chúa của con người
như thế. Giá trị của chúa không vượt quá giá trị con người. Ý thức của Chúa là tự ý thức
Phùng Viết Đức – MSHV: 7701220188 11
Tiểu luận Triết học
của con người, nhận thức của chúa là tự nhận thức của con người". Thực ra "bản chất
thần thánh không là cái gì khác, mà là bản chất của con người, nhưng đã được tinh chế,
khách quan hoá, tách rời với con người hiện thực bằng xương, bằng thịt".
Tóm lại, tôn giáo là bản chất của con người đã bị tha hoá. "Thánh thần của con người có
trong tinh thần và trái tim của anh ta". (L.Phoiơbắc: tuyển tập triết học. Matxcơva 1957.

Tập 2. Trang 42 - 43- Tiếng Nga).
Những quan niệm trên đây của Phoiơbắc về cơ bản đã chỉ ra nguồn gốc tâm lý, tình cảm
và tâm linh của con người đối với tôn giáo, đồng thời cho thấy nội dung nhân bản trong
các quan niệm thần thánh nhưng chưa đề cập đến những cơ sở kinh tế chính trị- xã hội và
văn hoá của vấn đề.
Đây cũng là hạn chế chung của các nhà tư tưởng trước Mác trong việc lý giải nguồn gốc
và bản chất của tôn giáo.
Tuy phê phán kịch liệt tôn giáo, nhưng Phoiơbắc thực tế chỉ phê phán Cơ đốc giáo. Còn
tôn giáo nói chung, theo ông, vẫn là điều cần thiết đối với đời sống con người. Cho nên
thay vào Cơ đốc giáo, con người "cần một tôn giáo mới", vì chỉ có tín ngưỡng, niềm tin
mới an ủi được chúng ta khỏi những nỗi bất hạnh trong cuộc đời con người. Mặc dù sự
an ủi trên là giả dối nhưng chúng ta không thể làm gì khác và phải chấp nhận sự dối trá
đó. Đúng như Ăngghen nhận xét rằng "Phoiơbắc hoàn toàn không muốn xoá bỏ tôn giáo,
ông muốn hoàn thiện tôn giáo. Ngay cả triết học cũng phải hòa vào tôn giáo. Thứ tôn
giáo mà Phoiơbắc đề cao hiểu theo nghĩa của ông là tôn giáo tình yêu, là quan hệ thân
thiện giữa người và người. Tôn giáo tình yêu của Phoiơbắc dựa trên triết học nhân bản
của ông. Ông cho rằng nó phản ánh được cái gì đó vĩnh hằng trong con người. Vì vậy, nó
cần thiết phải tồn tại chừng nào xã hội loài người còn tồn tại. Và phải hình thành nên tình
cảm tôn giáo.
Mặc dù còn nhiều hạn chế nhưng Phoiơbắc là nhà duy vật vĩ đại trong triết học cổ điển
Đức. Mác đánh giá cao vai trò của Phoiơbắc, coi ông là người không úp mở tuyên bố địa
vị thống trị của chủ nghĩa duy vật (trong tác phẩm Lútvích Phoiơbắc và sự cáo chung ).
Phùng Viết Đức – MSHV: 7701220188 12
Tiểu luận Triết học
Mác và Ăngghen tự coi mình là môn đồ của Phoiơbắc, giá trị tư tưởng đó của triết học
Phoiơbắc là điều không thể phủ nhận được.
2.4. Kết luận về triết học Phoiơbắc
Phoiơbắc là nhà triết học duy vật vì ông khẳng định vật chất là tính thứ nhất; ý thức, tư
duy là tính thứ hai. Song là nhà duy vật nhân bản, ông coi con người là sản phẩm cao
nhất của giới tự nhiên, vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại là vấn đề bản chất của con

người, vì thế, đây là đối tượng duy nhất, phổ biến và cao nhất của triết học. Chủ nghĩa
duy vật nhân bản của Phoiơbắc là đóng góp to lớn vào cuộc đấu tranh chống lại việc giải
thích duy tâm, nhị nguyên luận, thậm chí cả chủ nghĩa duy tâm tầm thường về vấn đề con
người. Song, nguyên lý nhân bản học của Phoiơbắc không triệt để, vì ông hiểu con người
chỉ là những cá nhân trừu tượng, là thực thể thuần tuý tự nhiên - sinh vật. Ông không thấy
được mặt xã hội của con người trong hoạt động biến đổi hiện thực.
Triết học của Phoiơbắc không sâu, còn nhiều quan niệm siêu hình, phiến diện trong lý
giải đối tượng triết học, trong việc phân tích bản chất con người, trong việc tìm hiểu thực
tiễn và xác định vài trò của nó trong nhận thức và cuộc sống… Đặc biệt trong việc xác
định nguồn gốc, động lực phát triển và phương tiện cải tạo xã hội. Quan điểm của
Phoiơbắc còn đầy tính duy tâm, thái độ đối với tôn giáo của ông không nhất quán.
Trong quan hệ đối với triết học của Hêghen, ông có thái độ phủ định sạch trơn, không
thấy được thành tựu quý giá của Hêghen là phép biện chứng để kế thừa và phát triển.
Ông hiểu tính quy luật, tính tất yếu, tính nhân quả một cách siêu hình. Cho nên chủ
nghĩa duy vật nhân bản của ông còn mang nặng tính siêu hình.
Trong lý luận nhận thức, Phoiơbắc đã tiếp tục truyền thống cảm giác luận duy vật, chống
lại thuyết không thể biết và lối tư biện trừu tượng. Ông không phủ nhận vai trò của tư duy
trong nhận thức, nhưng ông không thấy được vai trò của thực tiễn trong nhận thức. Vì
không thấy thực tiễn trong động lực phát triển xã hội nên ông cố đi tìm nó trong tình yêu.
Do không xuất phát từ quan điểm thực tiễn mà trong lĩnh vực xã hội Phoiơbắc cũng như
mọi nhà tư tưởng trước Mác đều sa vào chủ nghĩa duy tâm, quá đề cao sức mạnh tinh
Phùng Viết Đức – MSHV: 7701220188 13
Tiểu luận Triết học
thần, trước hết là giáo dục, đạo đức, pháp luật… mà không thấy vai trò của nền sản xuất
vật chất đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội. Do đó chủ nghĩa duy vật nhân bản của
Phoiơbắc chưa thoát khỏi tính trực quan của chủ nghĩa duy vật trước Mác.
Những hạn chế của nguyên tắc nhân bản trong thế giới quan của Phoiơbắc còn thể hiện rõ
trong việc nghiên cứu tôn giáo và đạo đức. Ở lĩnh vực này, ông lại rơi vào lập trường duy
tâm thể hiện trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo và ý định đưa ra những nguyên tắc đạo
đức chung cho mọi dân tộc, mọi thời đại lịch sử.

2.5. Luận cương về Phoiơbắc của Mác
1- Khuyết điểm chủ yếu của toàn bộ chủ nghĩa duy vật từ trước đến nay - kể cả
chủ nghĩa duy vật của Phoi-ơ-bắc - là sự vật, hiện thực, cái cảm giác được, chỉ
được nhận thức dưới hình thức khách thể hay hình thức trực quan, chứ không
được nhận thức là hoạt động cảm giác của con người, là thực tiễn, không được
nhận thức về mặt chủ quan. Thành thử mặt năng động đuợc chủ nghĩa duy tâm phát
triển, đối lập với chủ nghĩa duy vật, nhưng chỉ phát triển một cách trừu tượng, vì
chủ nghĩa duy tâm dĩ nhiên là không hiểu hoạt động hiện thực, cảm giác được, đúng
như là hoạt động hiện thực, cảm giác được. Phoi-ơ-bắc muốn xem xét những khách
thể cảm giác được, thực sự khác biệt với những khách thể của tư tưởng, nhưng ông
không xem xét bản thân hoạt động của con người, như là hoạt động khách quan.
Bởi thế, trong "Bản chất đạo Cơ Đốc", ông chỉ coi hoạt động lý luận là hoạt động
đích thực của con người, còn thực tiễn thì chỉ được ông xem xét và xác định trong
hình thức biểu hiện Do Thái bẩn thỉu của nó mà thôi. Vì vậy, ông không hiểu được
ý nghĩa của hoạt động "cách mạng", của hoạt động "thực tiễn - phê phán".
2- Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới chân lý khách quan
không, hoàn toàn không phải là một vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực
tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý, nghĩa là
chứng minh tính hiện thực và sức mạnh, tính trần tục của tư duy của mình.
Sự tranh cãi về tính hiện thực hay tính không hiện thực của tư duy tách rời
thực tiễn, là một vấn đề kinh viện thuần túy.
3- Cái học thuyết duy vật chủ nghĩa cho rằng con người là sản phẩm của những
hoàn cảnh và của giáo dục, rằng do đó con người đã biến đổi là sản phẩm
của những hoàn cảnh khác và của một nền giáo dục đã thay đổi, - cái học
thuyết ấy quên rằng chính những con người làm thay đổi hoàn cảnh và bản
thân nhà giáo dục cũng cần phải được giáo dục. Bởi vậy, học thuyết đó tất
Phùng Viết Đức – MSHV: 7701220188 14
Tiểu luận Triết học
phải đi đến chỗ chia xã hội thành hai bộ phận trong đó có một bộ phận đứng
lên trên xã hội (chẳng hạn như ở Rô-bớc Ô-oen).

Sự phù hợp giữa sự thay đổi của hoàn cảnh với hoạt động của con người, chỉ
có thể được quan niệm và được hiểu một cách hợp lý khi coi đó là thực tiễn
cách mạng.
4- Phoi-ơ-bắc xuất phát từ sự thực là sự tự tha hoá về mặt tôn giáo, từ sự phân
đôi thế giới thành thế giới tôn giáo, thế giới tưởng tượng, và thế giới hiện
thực. Công việc của ông là hoà tan thế giới tôn giáo vào cơ sở trần tục của
nó. Ông không thấy rằng, sau khi làm xong việc ấy rồi thì còn điều chủ yếu
vẫn chưa làm được. Cụ thể là cơ sở trần tục tự tách khỏi bản thân nó để lên
ở trên mây thành một vương quốc độc lập lập, điều đó chỉ có thể giải
thích được bằng sự tự chia cắt và sự tự mâu thuẫn của cơ sở trần tục ấy.
Do đó, trước hết phải hiểu bản thân cơ sở trần tục ấy trong mâu thuẫn của nó
và sau đó cách mạng hoá nó trong thực tiễn bằng cách xoá bỏ mâu thuẫn đó.
Do đó, một khi người ta đã phát hiện ra, chẳng hạn, rằng gia đình trần tục
là cái bí mật của gia đình thần thánh thì chính gia đình trần tục là cái mà
người ta phải phê phán về mặt lý luận và cách mạng hoá trong thực tiễn.
5- Phoi-ơ-bắc không hài lòng với tư duy trừu tượng, đã nhờ đến trực quan của
cảm giác; nhưng ông không coi tính cảm giác là hoạt động thực tiễn của
cảm giác con người.
6- Phoi-ơ-bắc hòa tan bản chất tôn giáo và bản chất con người. Nhưng bản
chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng
biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những
quan hệ xã hội.
Không phê phán bản chất hiện thực đó, nên Phoi-ơ-bắc buộc phải:
- Không nói đến quá trình lịch sử và xem xét tình cảm tôn giáo [Gemut] một
cách biệt lập và giả định một cá nhân con người trừu tượng, cô lập.
- Do đó, ở Phoi-ơ-bắc bản chất con người chỉ có thể được hiểu là "loài", là
tính phổ biến nội tại, câm, gắn bó một cách thuần túy tự nhiên đông đảo cá nhân
lại với nhau.
7- Vì thế, ở Phoiơbắc bản chất con người chỉ có được hiểu là loài, là tính phổ
biến nội tại, câm, gắn bó một cách thuần tuý tự nhiên đông đảo cá nhân lại

với nhau.
Phùng Viết Đức – MSHV: 7701220188 15
Tiểu luận Triết học
8- Đời sống xã hội, về thực chất, là có tính chất thực tiễn. Tất cả những sự
thần bí đang đưa lý luận đến chủ nghĩa thần bí, đều được giải đáp một
cách hợp lý trong thực tiễn của con người và trong sự hiểu biết thực tiễn
ấy.
9- Điểm cao nhất mà chủ nghĩa duy vật trực quan, tức là chủ nghĩa duy vật
không quan niệm tính cảm giác là hoạt động thực tiễn, vươn tới được là sự
trực quan về những cá nhân riêng biệt trong "xã hội công dân".
10- Quan điểm của chủ nghĩa duy vật cũ là xã hội "công dân"; quan điểm của chủ
nghĩa duy vật mới là xã hội loài người, hay loài người xã hội hoá.
11- Các nhà triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song
vấn đề là cải tạo thế giới.
3. Sự ảnh hưởng của triết học Phoiơbắc đối với sự hình thành triết học Mác
Các Mác và Ph.Ăngghen đã từng là những người theo học triết học Hêghen và nghiên
cứu triết học Phoiơbắc. Qua đó, hai ông đã nhận thấy: Tuy học thuyết triết học của
Hêghen mang quan điểm của chủ nghĩa duy tâm nhưng chứa đựng cái “hạt nhân hợp lý”
của phép biện chứng. Còn học thuyết triết học Phoiơbắc tuy còn mang nặng quan niệm
siêu hình nhưng nội dung lại thấm nhuần quan điểm duy vật. Các Mác và Ph.Ăngghen đã
kế thừa “hạt nhân hợp lý” của Hêghen và cải tạo, lột bỏ cái vỏ thần bí để xây dựng nên lí
luận mới của phép biện chứng. Hai ông đã kế thừa chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc, khắc
phục tính siêu hình và những hạn chế lịch sử khác của nó để xây dựng nên lí luận mới
của chủ nghĩa duy vật. Từ đó tạo ra cơ sở để hai ông xây dựng nên học thuyết triết học
mới, trong đó chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng thống nhất một cách hữu cơ.
Năm 1845 - 1846, Các Mác và Ph. Ăngghen viết chung tác phẩm "Hệ tư tưởng Đức".
Thông qua việc phê phán các trào lưu triết học đương thời ở nước Đức hai ông đã trình
bày quan niệm duy vật lịch sử một cách hệ thống. Nội dung của tác phẩm đã trình bày rõ
những quan điểm với tư cách là luận điểm xuất phát như: "Tiền đề đầu tiên của toàn bộ
lịch sử nhân loại dĩ nhiên là sự tồn tại của những cá nhân con người sống, đó là những

con người hiện thực mà sản xuất vật chất là hành vi lịch sử đầu tiên của họ" và quan
điểm: "Quan điểm duy vật lịch sử khi xem xét lịch sử xã hội phải xuất phát từ con
Phùng Viết Đức – MSHV: 7701220188 16
Tiểu luận Triết học
người". Trong tác phẩm này cũng đã trình bày rõ hệ thống quy luật vận động và phát triển
của xã hội loài người.
Trong thời gian này Các Mác viết tác phẩm: "Luận cương về Phoiơbắc" (8/1845) nêu rõ
quan điểm xuyên suốt đó là: vai trò quyết định của thực tiễn đối với đời sống xã hội.
Đồng thời cũng đưa ra quan điểm về bản chất của con người: "Trong tính hiện thực của
nó, bản chất con người là tổng hòa của các quan hệ xã hội".
Với tác phẩm "Luận cương về Phoiơbắc" và nhất là tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” quan
niệm duy vật lịch sử đã hình thành. Quan niệm đó tạo cơ sở lý luận khoa học vững chắc
cho sự phát triển tư tưởng cộng sản chủ nghĩa. Tuy vậy trong hệ tư tưởng Đức, học thuyết
về chủ nghĩa cộng sản được hai ông trình bày như là một hệ quả trực tiếp của quan niệm
duy vật lịch sử cho nên chủ nghĩa cộng sản chưa được diễn đạt thành luận điểm cụ thể.
Song, một điều quan trọng là Các Mác và Ăngghen đã xây dựng phương pháp tiếp cận
khoa học để nhận thức chủ nghĩa cộng sản.
III. KẾT LUẬN
Phùng Viết Đức – MSHV: 7701220188 17
Tiểu luận Triết học
Triết học của Hêghen và triết học của Phoiơbắc là hai nguồn gốc trực tiếp về lý luận của
triết học Mác.
Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã kế thừa hạt nhân hợp lý trong triết học Hêghen là
phép biện chứng, cải tạo nó trên tinh thần của chủ nghĩa duy vật, biến nó thành phép biện
chứng duy vật như là học thuyết khoa học về các quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội
và tư duy. Cũng chính nhờ chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc đã giúp Mác và Ăngghen
đoạn tuyệt với chủ nghĩa duy tâm của Hêghen và phái Hêghen trẻ. Mác và Ăngghen đã
cải tạo chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc phát triển lên một hình thức mới cao nhất đó là
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam, tập 1, NXB Khoa học xã hội, HN, 2002.
Phùng Viết Đức – MSHV: 7701220188 18
Tiểu luận Triết học
2. Triết Học phần 1 : Đại cương về lịch sử triết học – Khoa lý luận chính trị tiểu ban
triết học trường đại học kinh tế thành phố Hồ Chí Minh. Ts Bùi Văn Mưa ( chủ
biên )
3. Giáo trình triết học Mác - Lênin ( Hội đồng trung ương chỉ đạo biên soạn giáo
trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh), NXB
CTQG, H, 1999.
4. Giáo trình triết học Mác - Lênin ( Bộ Giáo dục và Đào tạo), NXB CTQG, H, 2002.
Phùng Viết Đức – MSHV: 7701220188 19

×