Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

SKKN MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP DUY TRÌ SĨ SỐ HỌC SINH LỚP 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.02 KB, 17 trang )

MỤC LỤC
Trang
A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài 1
II. Mục đích và phương pháp nghiên cứu 1
1. Mục đích 1
2. Phương pháp 2
III . Giới hạn của đề tài 2
IV . Kế hoạch thực hiện 2
B. PHẦN NỘI DUNG
I . Cơ sở lý luận 3
II. Cơ sở thực tiễn 4
III. Thực trạng và những mâu thuẫn 4
1.Thuận lợi……………………………………………………………………….4
2.Khó khăn……………………………………………………………………….4
IV . Các biện pháp giải quyết vấn đề 4
1. Xác định nguyên nhân, lập kế hoạch dạy học sinh yếu kém………………….4
2. Biện pháp dạy học bằng tình thương………………………………………….5
3. Biện pháp giao việc cho học sinh yếu kém 6
4. Biện pháp thư giãn (vui chơi) trong các tiết học 7
5. Tạo môi trường giáo dục tốt 8
6. Biện pháp tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp ………………………… 9
7. Phong trào “Giúp bạn vượt khó ”…………………………………………… 9
8. Phối hợp với phụ huynh học sinh …………………………………………….10
V . Hiệu quả áp dụng 11
C. KẾT LUẬN
I . Ý nghĩa của đề tài đối với công tác 13
II . Khả năng áp dụng 13
III . Bài học kinh nghiệm 13
Tài liệu tham khảo 15
A. PHẦN MỞ ĐẦU


I. Lý do chọn đề tài:
Hiện nay, việc duy trì sĩ số, đảm bảo chuyên cần ở trường tiểu học đóng một
vai trò rất quan trọng trong việc học tập của học sinh nói riêng và trong việc
thực hiện phổ cập giáo dục nói chung. Nó là nền tảng giúp các em lĩnh hội kiến
thức một cách đầy đủ và mang lại kết quả học tập tốt. Nhưng hiện nay, một số
học sinh trong địa phương thuộc con em gia đình lao động nghèo, một số từ nơi
khác đến thị xã Hồng Ngự tạm trú, đa phần là làm thuê, vì cuộc sống mưu sinh
họ gửi con em vào Trường Tiểu học An Thạnh 1 để học. Chính vì mãi lo cho
kinh tế gia đình một số phụ huynh ít quan tâm đến việc học tập của các em. Nên
việc các em nghỉ học, bỏ học trong thời gian nhiều ngày ảnh hưởng đến việc tiếp
thu bài và kết quả học tập là điều không tránh khỏi.
Trong những năm gần đây tình trạng học sinh bỏ học ngày càng phổ biến.
Cấp học càng cao tỷ lệ học sinh bỏ học càng lớn. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn
đến tình trạng học sinh bỏ học nhưng trong đó nguyên nhân chính là các em học
tập yếu kém nên không thích đi học, không thích đến trường.
Xã hội ngày càng phát triển, thì yêu cầu về giáo dục cũng được nâng cao. Đòi
hỏi trong xã hội ai cũng được học hành, được tiếp thu được kiến thức kĩ năng, kĩ
xảo từ nhà trường để phục vụ cuộc sống sau này. Chúng ta ngày đêm đang ra
sức phổ cập giáo dục ở các cấp học. Nhưng trên thực tế có biết bao nhiêu học
sinh bỏ học giữa chừng. Biết bao nhiêu trẻ em không biết đọc, biết viết hoặc đọc
viết không thông thạo mà đã nghỉ học. Tất cả đều là sản phẩm của nhà trường,
do không quan tâm đến học sinh, không có biện pháp để giúp đỡ học sinh yếu
kém.
Vì thế, qua nhiều năm công tác bản thân tôi luôn suy nghĩ “Biện pháp để duy
trì sĩ số và đảm bảo chuyên cần học sinh bậc tiểu học ”. Do đó tôi quyết định
chọn đề tài này.
II. Mục đích và phương pháp nghiên cứu:
1. Mục đích :
- Nhằm đánh giá lại môi trường giáo dục, chất lượng giảng dạy học sinh yếu
kém ở các trường tiểu học trong những năm qua và hiện nay.

2
- Tìm ra những nguyên nhân tại sao việc học sinh chán học và hiện tượng
học sinh có nguy cơ bỏ học vì học yếu vẫn còn.
- Đưa ra một số giải pháp trong việc đổi mới phương pháp giúp đỡ học sinh
yếu kém học tập có tiến bộ hơn, tạo môi trường học thân thiện gần gũi giúp học
sinh ham thích học tập, thích đi học nhiều hơn.
2. Phương pháp :
- Phương pháp lấy tư liệu.
- Phương pháp học mà chơi, chơi mà học.
- Phương pháp đàm thoạ.
- Phương pháp xử lý thông tin.
- Phương pháp thực nghiệm.
- Phương pháp cải tiến.
III. Giới hạn của đề tài:
- Học sinh khối 5 thuộc Trường Tiểu học An Thạnh 1. Đội ngũ thầy (cô)
cùng cô tổng phụ trách. Phụ huynh học sinh khối 5 của tường.
IV. Kế hoạch thực hiện:
- Chọn đề tài.
- Lập đề cương nghiên cứu.
- Đọc, thu thập đề tài, viết đề tài.
- Thu nhập thực tế.
- Hoàn thành sáng kiến.

3
B. PHẦN NỘI DUNG
I.C ơ s ở lý lu ậ n:
Đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi học sinh tiểu học : Học sinh tiểu học lứa 6 đến
11 tuổi các em rất nghịch hiếu động, chưa làm chủ được bản thân, chưa nhận
thức được điều gì là đúng và điều gì là sai, hay bắt chước và chịu tác động của
mọi việc xảy ra xung quanh mình. Khả năng tiếp thu kiến thức nhanh hay chậm

của từng nhóm đối tượng học sinh cũng khác nhau. Ở các em ý thức học tập
chưa có, chưa hiểu rõ mục đích của việc học. Các em đi học phần lớn là do sự
bắt buộc của gia đình, chỉ một phần nhỏ là ham thích đi học (vì đi học được thầy
(cô) khen, được điểm 10, được chơi cùng bạn vv…). Do đó ý thức tự giác học
tập của các em chưa có (với những em đi học vì sự bắt buộc của gia đình) nên
các em thiếu sự cần cù, sự cố gắng vượt qua khó khăn để học tập dễ sinh ra lười
biếng, ham chơi và dẫn đến học yếu, chán học và bỏ học…
Ở lứa tuổi học sinh tiểu học tính tò mò phát triển, các em thường ham thích
cái mới, cái lạ. Dễ nhàm chán trong các hoạt động kéo dài, không thay đổi hình
thức. Nếu chúng ta những người làm công tác giáo dục biết quan tâm tạo sự ham
thích cho các em trong học tập, trong các hoạt động ở trường, lớp thì mới có
động lực thúc đẩy việc học, nâng cao được khả năng tiếp thu, và thực hành các
kĩ năng, kĩ xảo mà chúng ta cung cấp cho các em. Từ đó các em học tập có tiến
bộ.
Ở lứa tuổi học sinh tiểu học tâm sinh lý các em rất hiếu động, hay bắt chước,
dễ thích nghi với môi trường sinh hoạt ở trường, lớp. Đây là điều kiện tốt để
giáo viên tạo sự hứng thú cho các em. Nếu hàng ngày khi đến trường các em
được thầy cô ân cần chỉ bảo. Trong học tập các em được hoạt động nhóm, được
làm thí nghiệm, chơi các trò chơi học tập thì các em sẽ ham học hơn và thích đi
học hơn.
II. Cơ sở thực tiễn:
Từ những thực trạng trên , là một giáo viên tôi suy nghĩ mình cần phải làm gì
để duy trì và tìm mọi biện pháp chặn đứng việc nghỉ học, bỏ học của các em và
4
để làm tròn trách nhiệm giáo viên chủ nhiệm lớp, đối với ngành Giáo dục và
Ban Giám Hiệu trường giao cho.
Hiện nay nhiều trường hay nhồi nhét kiến thức cho học sinh bằng các hình
thức học thêm, học hai buổi Đưa ra rất nhiều phương pháp giảng dạy mà quên
đi việc bồi lấp lỗ hổng kiến thức cho học sinh yếu.
Sự ham thích học tập ở học sinh chủ yếu hình thành thông qua các hoạt động

thực tế như hoạt động giao lưu, tập thể và nhóm ; Qua sự tác động của môi
trường cơ sở vật chất như trường, lớp, qua thái độ của thầy cô, bạn bè. Do đó
trong nhà trường chúng ta phải tìm ra những giải pháp thích hợp để giáo dục đối
với từng đối tượng trẻ em, định hướng đúng đắn cho trẻ trong các hoạt động
giáo dục, dạy học và vui chơi của trẻ một cách phù hợp nhất, tạo một bầu không
khí, một môi trường thật thân thiện để mỗi học sinh thấy vui thích và trông đợi
được đến trường. Xem trường lớp như ngôi nhà thứ hai của mình. Chúng ta
không thể áp dụng cách thức giáo dục giống như THCS hay THPT cho học sinh
tiểu học. Trong mỗi giai đoạn phát triển khác nhau của học sinh chúng ta cũng
không thể áp dụng một cách cứng nhắc, dập khuôn hình mẫu phát triển của học
sinh trong giai đoạn đó mà còn tuỳ thuộc vào tố chất, năng lực, thể lực của học
sinh đó cũng như những tác động của gia đình và xã hội của mỗi một cá nhân
học sinh mà ta có những cách thức giáo dục thích hợp nhất cho chúng để chúng
có thể phát triển một cách hài hoà trong học tập, nhận thức và hành vi khi chúng
tham gia vào các mối quan hệ với cộng đồng xã hội trong tương lai.
III. Thực trạng và những mâu thuẫn:
1.Thuận lợi:
- Đa số các em đều ngoan hiền, ham học và viết chữ rõ ràng, sạch sẽ.
- Học sinh có đầy đủ sách vở và đồ dùng học tập.
- Ban giám hiệu quan tâm sâu sát về cơ sở vật chất, trang bị đầy đủ thiết bị
dạy học phù hợp cho lớp.
2.Khó khăn:
- Một số em lười biếng, không thích học.
5
- Vài em học yếu, không chịu đến trường học phụ đạo.
- Một vài em cha mẹ nghèo, mồ côi cha mẹ, thiếu quan tâm, không người
đôn đốc, chăm sóc học tập.
- Gia đình không quan tâm, giáo dục cho các em thấy được lợi ích của việc đi
học và đi học đều.
IV. Các biện pháp giải quyết vấn đề :

1. Xác định nguyên nhân, lập kế hoạch dạy học sinh yếu kém:
Ngay từ đầu năm học giáo viên thống kê được số lượng học sinh yếu kém
và có nguy cơ trở thành học sinh yếu kém ở lớp mình. Phải tìm ra những nguyên
nhân dẫn đến sự yếu kém đó ở học sinh. Phân loại học sinh yếu kém theo những
nguyên nhân chủ yếu và có kế hoạch giúp đỡ thích hợp với từng loại. VD: Học
sinh yếu kém vì mất kiến thức căn bản từ lớp dưới… học sinh yếu kém vì ham
chơi với bạn xấu, ham chơi game… học sinh học yếu vì hoàn cảnh gia đình.
Từ đó giáo viên có kế hoạch giảng dạy thích hợp, giải quyết sự yếu kém của
học sinh từ những nguyên nhân trên. VD: Học sinh yếu vì mất kiến thức từ lớp
dưới thì tổ chức phụ đạo cho các em lấy lại kiến thức, học sinh yếu vì ham chơi
thì quản lí các em tốt hơn tổ chức các hình thức vui chơi để các em ham thích
học tập… học sinh học yếu vì hoàn cảnh gia đình thì giáo viên phối hợp với phụ
huynh để tìm biện pháp tháo gỡ… Giáo viên cần xác định được mức độ học sinh
yếu kém, như các em yếu môn gì ?… kiến thức gì ?… Tốt nhất giáo viên cần có
một bộ hồ sơ để theo dõi từng em học sinh yếu ở lớp mình… biện pháp đã đề ra,
sự chuyển biến của học sinh theo từng tháng…
2. Biện pháp dạy học bằng tình thương:
Đối với học sinh yếu kém thông thường giáo viên luôn có ác cảm. Vì các
em mà giáo viên phải bỏ công sức nhiều hơn, thành tích lớp bị hạ thấp, danh
hiệu thi đua bị cắt… cho nên khi kèm cặp học sinh yếu tại lớp mình giáo viên
thường bực bội có thái độ không tốt như la mắng, nói nặng nói nhẹ thậm chí
nhiều giáo viên còn gõ đầu, nhéo tai các em… Như vậy thì học sinh không thể
nào học được, mỗi lần thầy cô lại gần là sợ bị ăn đòn nên học yếu lại càng học
yếu…
6
Một số giáo viên hiện nay về biện pháp giáo dục còn mang ảnh hưởng cách
giáo dục xưa nghiêm khắc với học sinh. Để giúp đỡ học sinh yếu kém giáo viên
phải biết sử dụng lời nói, cử chỉ, tổ chức các hoạt động dẫn dắt các em vào bài
học, giúp các em yêu mến bạn bè, trường lớp, thầy cô Giáo viên muốn học sinh
ham thích học thì trong tiết dạy điều cần thiết là phải thể hiện được tác phong sư

phạm mẫu mực, gần gũi, ân cần với học sinh. Tôn trọng và đối xử công bằng với
học sinh.
Trong giảng dạy giáo viên lưu ý lời nói phải nhẹ nhàng, giữa giáo viên và
học sinh luôn có sự ăn ý nhịp nhàng, khi giảng bài giáo viên phải luôn quan sát
học sinh trong lớp, đặc biệt những em học yếu hay nghịch ngợm. Mỗi lần học
sinh có ý kiến nếu trả lời sai thì phải giúp học sinh hiểu cái sai, không nên để
cho học sinh ngồi xuống mà không biết mình sai điểm nào, đừng để học sinh bị
mất mặt trước mặt bạn bè, làm trò cười cho lớp học. Không sử dụng thước làm
công cụ đánh đập học sinh, sử dụng thước nhẹ nhàng tránh việc gõ thước quá
mạnh làm học sinh giật mình. Biết động viên, khích lệ học sinh dù các em chưa
thật sự tiến bộ hay tiến bộ rất chậm. Giáo viên biết sử dụng năng khiếu của mình
làm tiết học thêm sinh động. Ví dụ: Tìm những câu truyện vui kể cho các em,
hay pha một vài câu hài hước để học sinh cảm thấy thoải mái Một tiết học mà
học sinh hoạt động vui vẻ, có tiếng cười sẽ có hiệu quả hơn những tiết học mà
học sinh quá nghiêm túc.
Để các em yếu mạnh dạn hơn thì giáo viên phải biết yêu thương, gần gũi, tạo
sự thân tình để các em hòa đồng vào môi trường học tập ở trường lớp. Để từ đó
các em có ấn tượng tốt với trường lớp, thầy cô mà ham thích học tập.
Giáo viên phải biết gần gũi tâm sự, với trò chuyện với những học sinh yếu
đặc biệt những em nhút nhát. Hỏi các em về chuyện gia đình, về chuyện học
hành, để các em cảm thấy thân thiện với giáo viên hơn và qua đó giáo viên sẽ
hiểu được nguyên nhân vì sao các em học yếu, hiểu về tâm tư tình cảm, hoàn
cảnh các em để có biện pháp dục tốt hơn.
Ví dụ : Nhà em ở đâu? Bố mẹ làm gì ? Hôm nay ai chở em đi học? Hôm nay
em có hiểu bài không? Có cần cô giúp gì không vv
7
Nhiều khi chỉ một câu nói, một cử chỉ của thầy cô mà thay đổi cả cuộc đời
các em. Làm cho các em thấy thầy cô luôn quan tâm đến mình, không ghét bỏ
mình và các em thêm gần gũi, yêu mến thầy cô, tự tin vào bản thân mình (Như
một lời khen hay một lời khuyến kích, động viên, một cử chỉ thân mật). Đối với

những em còn thiếu tự tin thì giáo viên nên tìm lấy một ưu điểm nào đó của các
em để khen ngợi động viên. Hãy luôn khen học sinh, cố tìm ưu điểm dù nhỏ
nhất để khen.
Ngoài ra cuối học kì cần phải tổ chức khen thưởng cho các em học yếu mà
học tập có tiến bộ. Nhằm động viên các em có thêm hứng thú trong học tập,
tránh tình trạng chỉ khen thưởng cho học sinh khá giỏi
3. Biện pháp giao việc cho học sinh yếu kém:
Để học sinh yếu kém học tập có kết quả chúng ta cần cho học sinh thấy các
em luôn được thầy cô tin tưởng, thương yêu, được làm việc có ích cho trường,
lớp thầy cô bằng cách giao việc cho các em làm.
Giáo viên thường xuyên tìm những việc nhỏ, thích hợp hàng ngày ở lớp để
giao các em làm. Đặc biệt những học sinh yếu lại có tính nhút nhát, rụt rè để các
em mạnh dạn, gần gũi thầy cô hơn. Và các em này sẽ rất vui, rất tự hào và cảm
thấy mình đã làm việc có ích và từ đó học tập được tốt hơn.
Ví dụ : Nhờ các em cắt dán khẩu hiệu trong những ngày đại hội, thông báo
họp sao đỏ…. Nhờ tưới cây, khiêng bàn ghế, chuyển thông báo vv…Làm cho
các em thêm gần gũi với thầy cô và cảm thấy mình được thầy cô tin tưởng giao
phó nhiệm vụ trước lớp từ đó các em có thêm chút tự tin vào bản thân mình, gần
gũi trường, lớp hơn. Ham học và cố gắng học tập hơn
Đặc biệt là những học sinh học yếu vì ham chơi, vì không chịu học thì chúng
ta cần làm cho các em này yêu thích trường lớp, rồi mới yêu thích học tập.
VD: Có một học sinh cá biệt lớp 5 : học lực yếu, đến trường lại hay đánh
bạn, nghịch ngợm là học sinh lưu ban nhiều năm. Giáo viên chủ nhiệm liền
phân cho em đó làm sao đỏ. (nói rằng đây là nhiệm vụ rất quan trọng muốn làm
tốt thì phải cố gắng thể mình thật tốt). Chỉ trong vòng vài ngày em đó không còn
nghịch phá nữa. Đến trường ăn mặc gọn gàng và làm công tác sao đỏ rất tích
cực. Và trong vòng một tháng học lực của em đó đã chuyển biến từ học yếu
8
chuyển lên trung bình và cuối năm đã trở thành học sinh khá. Đó là do khi được
phân công làm sao đỏ em đó thấy mình được tôn trọng và cố gắng xứng đáng

với sự tôn trọng đó, xứng đáng với nhiệm vụ được giao nên đã tự giác sửa mình
tốt hơn, cố gắng học tập tốt để các bạn, thầy cô tôn trọng mình hơn.
Trong giảng dạy ở lớp cũng vậy giáo viên cũng phải biết giao cho các em
học yếu bài tập ở lớp cũng như về nhà, (nhằm giúp các em lấy lại kiến thức đã
mất) lưu ý là ở mức độ vừa phải tránh ngay lúc đầu đưa ra một lượng kiến thức
quá lớn khiến các em thấy việc học quá nặng nề. Do đó giao bài về nhà cho các
em thì lần đầu bài tập nên ít và dễ sau đó nâng dần số lượng và độ khó lên. Khi
giao việc giáo viên phải biết được việc đó các em làm được không quá sức, và
phải kiểm tra thường xuyên việc thực hiện ở các em. Tránh các trường hợp học
sinh nhờ bố mẹ hay bạn bè làm giúp, phải khen ngợi khi em hoàn thành công
việc Tránh không kiểm tra công việc đã giao
4. Biện pháp thư giãn (vui chơi) trong các tiết học:
Trong học tập có rất nhiều môn học khô khan, nặng về kiến thức như toán,
tập làm văn, chính tả vv…Đối với học sinh thường không có hứng thú học
những môn này (trừ những em giỏi thì ham học vì có điểm cao). Như vậy để tạo
được sự hứng thú, ham thích việc học ở học sinh yếu giáo viên cần tăng cường
các trò chơi, hình thức học tập sinh động trong tiết học. Khi tổ chức một trò chơi
thì học sinh yếu sẽ tham gia hết mình và qua trò chơi giáo viên giúp học sinh
nắm được kiến thức, hiểu được bài hơn. Ngoài các trò chơi giáo viên cần tổ chức
các hình thức học tập sinh động khác để giúp học sinh yếu có hứng thú trong
học tập như đóng kịch, phỏng vấn… Trong các tiết ôn, tiết rèn giáo viên đều
phải tổ chức giờ học sinh động, vui tươi như vậy mới mang được hiệu quả cao.
Nhiều hình thức học tập sinh động khi tổ chức không nên cầu kì quá dẫn đến
mất thời gian, tốn kém… giáo viên nên chọn các hình thức học tập đơn giản
nhưng mang hiệu quả cao…
Trong thời gian chuyển tiết giữa các môn học giáo viên cần phải dành từ 5-7
phút cho học sinh vui chơi (chơi trò chơi, múa hát, kể chuyện, đóng kịch, thi
đố…). Để tạo cho học sinh những giây phút thư giãn giữa các tiết học, tạo cho
các em sự hưng phấn, thoải mái trở lại sau giờ học căng thẳng…
9

Để tổ chức trò chơi và các hình thức học tập sinh động khác giáo viên lưu ý
phải để cho học sinh yếu kém tham gia phải biết được trong hình thức học tập
đó học sinh yếu có thể tham gia ở phần nào.
5. Tạo môi trường giáo dục tốt:
Với trường lớp khang trang như hiện nay, đội ngũ GV nhiệt tình, sự quan
tâm của BGH, sân chơi rộng rãi thoáng mát đó là một thuận lợi rất lớn để xây
dựng một môi trường sư phạm tốt cho học sinh vui chơi, học tập. Phải tùy hoàn
cảnh cụ thể, tạo khung cảnh giáo dục tốt làm cho học sinh ngồi trong lớp học
thấy vui tươi, thích thú không nặng nề, sợ sệt. Tôi luôn lưu ý xem tài sản của
trường, chăm sóc trường lớp như nhà của mình để cùng nhau lao động, làm vệ
sinh, trang trí trường lớp
Giờ ra chơi, tôi tổ chức hướng dẫn các em vui chơi tập thể, đọc sách báo để
tạo sự gắn bó thương yêu trong học sinh và sự gần gủi thân mật giữa học sinh
với giáo viên nhà trường. Trong chương trình kế hoạch hàng tháng tôi tổ chức
những buổi vui học cuối tuần trong tiết sinh hoạt sao nhi đồng, sinh hoạt chủ
điểm với hình thức đố vui, ôn tập, hái hoa, thể dục thể thao Các hoạt động
ngoại khóa như tham quan, thi kể chuyện, thời trang, vẽ tranh, hát …. Trong
những năm qua, bằng hình thức này tôi đã tạo cho các em sự vui thích, tìm tòi
tham gia tích cực cho phong trào của lớp của trường, của thị xã, tỉnh tổ chức. Vì
vậy cứ đến ngày cuối tuần là các em rất buồn vì sắp phải xa không khí học tập,
hứng thú ấy và mong gặp nhau trong những tuần học tới, kể cho nhau nghe
những gì vui nhất mà các em đã tham gia và chứng kiến .
Tôi cũng thường xuyên quan tâm đến hoàn cảnh sống của một số em học
sinh nghèo nhằm tìm ra phương pháp khắc phục khó khăn. kêu gọi học trong
trường quyên góp hoặc trích từ quỹ vì bạn nghèo mua dụng cụ học tập, quần áo
giúp các em tiếp tục đến trường. Liên lạc, trực tiếp trao đổi với phụ huynh học
sinh về việc học tập, tâm tư, tình cảm của các em. Từ đó động viên khuyến
khích phụ huynh học sinh có hướng khắc phục cho con em đến trường đều đặn
(đối với những gia đình ít quan tâm đến việc học tập của con cái hoặc có ý định
cho con nghỉ học).

10
Giáo dục riêng đối với những trường hợp học sinh trốn học, nghỉ học không
phép, hay liên tục nghỉ học nhiều ngày và báo về để gia đình kịp thời nắm rõ có
biện pháp kết hợp với nhà trường quản lý các em.
6. Biện pháp tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp :
Để giúp đỡ học sinh yếu kém ngoài các tiết học chính khóa, giáo viên cần
thông qua các tiết hoạt động ngoài giờ lên lớp. Như tiết sinh hoạt lớp các hoạt
động ngoài trời…
Trong tiết sinh hoạt lớp giáo viên có thể tổ chức tuyên dương các em học
yếu (dù đó là những tiến bộ nhỏ nhất) nhằm làm cho các em có thêm hứng thú
trong học tập và để cho các em thấy mọi nổ lực các em luôn được giáo viên và
bạn bè đánh giá cao.
Giáo viên chủ nhiệm cần phối hợp với tổng phụ trách đội tổ chức các hội thi
giữa các lớp để giúp các em lấy lại kiến thức… Chú ý nội dung thi chỉ dành cho
học sinh yếu và câu hỏi đơn giản các em có thể trả lời được. Tránh các cuộc thi
chỉ có các em giỏi tham gia. VD : Như thi về kiến thức tiểu học, an toàn giao
thông, phòng tránh bệnh tật… Qua cuộc thi giúp các em ôn lại kiến thức và giúp
cho các em yếu ham học hơn. Phối hợp với tổng phụ trách tuyên dương các em
yếu kém có tiến bộ qua buổi chào cờ…
Hoặc giáo viên có thể tổ chức cho lớp mình hoạt động đọc lập. Giáo viên có
thể soạn một số câu hỏi (Nội dung câu hỏi là các kiến thức các em chưa nắm
bắt được) giao cho các em yếu đại diện cho các tổ về học và tìm hiểu để hôm
sau lên thi…Và khi nhận trách nhiệm này các em yếu sẽ cố gắng học để và tìm
hiểu để hôm sau lên thi đua với các bạn. Một khi có hình thức thi đua trong các
hoạt động sẽ luôn kích thích các em cố gắng và làm những việc hàng ngày các
em không làm được… VD: trong lớp 3 một số em chưa thuộc bảng nhân, giáo
viên giao cho các em đó về học để hôm sau thi với các tổ khác. Tất nhiên khi
được giao các em đó sẽ cố gắng về học để thi được tốt hơn…
7. Phong trào “Giúp bạn vượt khó ”:
Trong lớp có một vài em học sinh vì hoàn cảnh gia đình quá khó khăn, thiếu

điều kiện học tập, thiếu tình yêu thương của bố mẹ, làm cho các em buồn nản,
tủi thân mà không muốn đến lớp. Cụ thể, trong 2 năm gần đây phong trào “Giúp
11
bạn vượt khó ”luôn được sự quan tâm rất nhiều, ngay từ đầu năm tôi lên kế
hoạch và phát động trong 2 đợt chính đó là đợt đầu năm học và đợt tết Nguyên
Đán. Kêu gọi các em làm kế hoạch nhỏ, tiết kiệm tiền, quà bánh hàng ngày đóng
góp lại mua tập, bút, áo quần, sách vở v v… Mục đích giáo dục các em tinh
thần tương thân tương ái giúp bạn có điều kiện học tập tiến bộ, vơi đi những khó
khăn mà các em phải gánh chịu. Món quà dù nhiều hay ít nhưng đó là nguồn an
ủi, động viên rất lớn đối với các em có hoàn cảnh khó khăn giúp các em vui vẻ
và thích đi học hơn.
Bên cạnh đó, trong kỳ họp phụ huynh học sinh tôi đã động viên những phụ
huynh có điều kiện kinh tế gây quỹ phụ huynh học sinh giúp đỡ những học sinh
nghèo, bất hạnh để các em được đến trường. Đồng thời tôi đã mạnh dạn đề bạc
với Ban Giám Hiệu, Ban chấp hành Công đoàn, Hội Khuyến Học chăm lo : quần
áo, đồ dùng học tập, quà tết,…cho các em học sinh có hoàn cảnh khó khăn trong
cuộc sống và tích cực trong học tập.
Ngoài ra, hàng tuần trong giờ sinh hoạt lớp tôi nhắc nhở học sinh không nghỉ
học với những lý do không chính đáng như đi ăn cưới, giỗ ,…. Tôi tổng kết
ngày nghỉ của các em từ các lớp phân tích cho các em thấy nghỉ học như thế nào
là chính đáng và không chính đáng, và việc nghỉ học của mình làm ảnh hưởng
đến lớp, thầy cô bạn bè phiền lòng như thế nào, đến kết quả học tập và hạnh
kiểm của bản thân. Vì vậy, mà các em có bệnh ít vẫn cố gắng đến lớp chứ không
dám nghỉ học.
Đối với các em bị khuyết tật (khó khăn nói, khó khăn nghe, khó khăn về vận
động, khó khăn về nhìn, …) tôi giáo dục học sinh không chế nhạo bạn, mà phải
tìm mọi cách để giúp đỡ bạn, để các bạn đó vui vẻ không mặc cảm về bệnh tật
của mình mà hòa nhập với tập thể lớp không bỏ học, đi học đều bằng cách lồng
ghép những câu chuyện kể liên quan trong các môn đạo đức hay giáo dục quyền
trẻ em qua các buổi sinh hoạt chủ điểm.

8. Phối hợp với phụ huynh học sinh:
Học sinh học giỏi hay yếu trước hết phụ thuộc vào rất nhiều từ phía gia đình,
gia đình thiếu sự quan tâm trong việc giáo dục, chăm lo việc học hành của con
em mình. Thêm vào đó, những tác động xấu của môi trường xã hội đã lôi kéo
12
các em như ham chơi, đua đòi, nghe bạn bè xấu rủ rê, dẫn đến lơ là việc học
hành, không có kiến thức căn bản gây nên chán nản, bỏ học. Một gia đình êm
ấm, hòa thuận, cha mẹ biết chăm lo cho con cái, tạo điều kiện thuận lợi để con
em học hành, biết giáo dục con ích lợi của việc học thì học sinh sẽ học tốt hơn.
Ví dụ: Một học sinh làm hư viết, không có viết đến trường, học sinh đó sẽ sợ đi
học vì không có viết không chép bài, làm bài được, có thể sợ thầy, cô phạt. Nếu
cha mẹ kịp thời mua viết cho con, yêu cầu con cẩn thận hơn thì học sinh đó sẽ
vui vẻ đi học. Nếu bố mẹ la mắng hoặc không mua viết thì sẽ làm cho em đó đi
học với tâm trạng lo sợ thầy cô la và có thể trốn học. Từ đó trở thành học sinh
yếu kém
Vậy nhà trường cần biết phối hợp với phụ huynh trong việc tạo sự ham thích
cho học sinh khi đến trường. Hiện nay một số phụ huynh không biết cách giáo
dục con cái, thường đánh đập, la mắng khi con em mình mắc phải một lỗi lầm
nào đó ở trường lớp (như bị điểm kém, đánh nhau với bạn), làm cho các em sợ
sệt, ức chế khả năng học tập, lao động ở các em, giảm đi niềm ham thích học
tập. Do đó giáo viên chủ nhiệm cần trao đổi, hướng dẫn phụ huynh nên tạo điều
kiện tốt để cho để con em mình đến trường (bảo đảm thời gian đến trường, sắm
dụng cụ học tập, giúp con học ở nhà, cùng vui chơi học tập với con em mình,
nhắc nhở con cái giờ học…), khi giáo dục con em nên nhẹ nhàng, cần cho các
em hiểu việc đó đúng sai thay vì la mắng trừng phạt.
Việc quan tâm đến bạn bè của con em cũng rất quan trọng. Chơi với bạn xấu
trước sau gì các em cũng nhiễm thói xấu. Phụ huynh chú ý đến những thời gian
rảnh rỗi của con em mình, cần biết các em đi đâu, chơi chỗ nào. Đừng cho các
em quá nhiều thời gian tự do một mình mà cha mẹ không biết. Cần liên lạc với
giáo viên để biết tình hình của con em mình, như có đến trường không? Có đi

lao động không? Có hành vi gì cần sửa chữa vv
Khi học sinh yếu kém phụ huynh cần giúp con em lấy lại niềm tin học tập
nhận thức được học là một hoạt động đầy hứng thú. Cần có sự ham thích mới
học tốt được. Giúp con em thấy được từ những bài học trên lớp con sẽ học được
rất nhiều điều thú vị mà đều là những tri thức có lợi cho bản thân. Cần giúp trẻ
vượt qua khó khăn để lấy lại kiến thức đã mất, động viên con khi bị điểm kém
13
thì cũng không nên quá chán nản, mà nên tìm ra nguyên nhân để lần sau cố gắng
làm bài tốt hơn.
Giáo viên thường xuyên thông tin cho phụ huynh có con em học yếu kém để
phụ huynh biết. Trao đổi các biện pháp giúp học sinh học ở nhà.
V. Hiệu quả áp dụng:
Qua việc thực hiện các biện pháp trên để giúp đỡ học sinh yếu kém. Kết quả
cho thấy học sinh ham học hơn, học tập có tiến bộ, năng động trong học tập
cũng như sinh hoạt vui chơi. Số lượng học sinh bỏ học giữa chừng vì học yếu, vì
chán học không có. Từ đầu năm học số học sinh yếu kém môn tiếng việt là
17.2%, môn toán là 8.3% thì cuối học kì một vừa qua đã giảm xuống môn tiếng
việt còn 3.1%, môn toán 3.4%.
Tóm lại, cần tạo được môi trường thân thiện trong nhà trường. Sự gắn bó mật
thiết giữa thầy với trò, giữa học sinh với học sinh, tạo được không khí vui vẻ
học tập, vui chơi trong suốt thời gian ở trường thì chắc chắn các em sẽ đến lớp
đến trường đều đặn, bằng sự tự giác, tích cực và sẽ cảm thấy tiếc nuối khi phải
bỏ học, nghỉ học.
14
C. KẾT LUẬN
I. Ý nghĩa của đề tài đối với công tác:
Để duy trì và đảm bảo sĩ số đạt kết quả tốt, mỗi giáo viên chúng ta nói chung
và đối với riêng tôi là thực hiện phương châm “Tất cả vì học sinh thân yêu” và
“trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Tôi luôn tìm tòi biện pháp thích hợp
mang lại hiệu quả cao nhất cho từng năm học. Bản thân tôi luôn coi trọng những

biện pháp đã trình bày ở trên.
II. Khả năng áp dụng:
Với đề tài này ta có thể áp dụng cho tất cả các khối lớp học sinh bậc tiểu học.
Tôi tin rằng những phương pháp đã thực hiện trong hiện tại và tương lai tỉ lệ
duy trì sĩ số của Trường Tiểu học An Thạnh 1 ngày càng được nâng cao.
III. Bài học kinh nghiệm, hướng phát triển:
Muốn duy trì sĩ số, giáo viên chủ nhiệm cần phải :
- Phải nhiệt tình, năng nổ, phải luôn tự bồi dưỡng nâng cao tay nghề để cải
tiến phương pháp giảng dạy lôi cuốn học sinh, được sự tin tưởng của phụ huynh
học sinh.
- Phải kết hợp chặt chẽ với gia đình học sinh, với Đoàn thể, với địa phương,
tạo những điều kiện , môi trường giáo dục tốt.
- Phải tạo sự đoàn kết, yêu thương giúp đỡ của học sinh trong lớp qua các
phong trào. Tạo cho các em động cơ ham học, trong việc uốn nắn các em, giáo
viên chủ nhiệm phải luôn giữ thái độ bình tĩnh, không nóng vội, không dùng lời
lẽ nặng nề với các em, hòa hợp với các em, xem học sinh là con đẻ của mình,
chia sẻ vui buồn, cùng lắng nghe ý kiến học sinh để có biện pháp giáo dục phù
hợp .
- Học sinh lớp 5 trong độ tuổi biết tự ái, giận hờn, thích đựơc động viên khen
thưởng, giáo viên không nên dùng hình phạt, đánh mắng làm cho các em sợ sệt
không ham thích đến lớp, phải tạo cho các em một niềm tin để các em an tâm
học tập và xem giáo viên chủ nhiệm là người tin cậy.
- Nên tổ chức vui chơi tập thể trong các giờ ra chơi, giờ sinh hoạt lớp để tạo
sự gắn bó thương yêu trong học sinh và giáo viên. Trong chương trình giảng dạy
nên tổ chức những buổi vui học, học vui dưới hình thức ôn tập.
15
Việc chuyên cần học tập cuả học sinh đã quyết định sự tiến bộ của các em,
hơn nữa các em học sinh lớp 5, nếu để các em nghỉ học một hai lần với lý do
không cần thiết lắm thì các em sẽ thích nghỉ học đi chơi hơn là đến lớp bởi nhiều
lý do: Sợ bị phạt, sợ bị chế giễu. Giáo viên nên giải thích tai hại của việc đi học

không đều và việc bỏ học giúp các em dần dần có thói quen ham thích đi học mà
không thích ở nhà.
Tóm lại, nếu giáo viên chủ nhiệm tạo được sự mật thiết giữa thầy với trò,
giữa học sinh với học sinh, thầy trò tạo được sự vui vẻ học tập trong suốt thời
gian ở lớp thì chắc chắn các em sẽ đến lớp đều đặn, bằng sự tự nguyện và sẽ
cảm thấy tiếc nuối khi phải bỏ học, nghỉ học, và vai trò của chúng ta đã hoàn
thành vậy.

Hội đồng xét duyệt của trường An Thạnh, ngày 27 tháng 04 năm
2012
Xếp loại:……. Người viết
CTHĐ



16
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 . Chương trình giáo dục phổ thông cấp Tiểu học _ NXBGD_Xuất bản 2006
2 . Giáo trình cao đẳng sư phạm _GS.TS. Diệp Quang Ban_ NXB đại học sư
phạm_ Xuất bản 2001
3. Giáo trình giáo dục học Tiểu học - GS. TS. Đặng Vũ Hoạt_NXB đại học
Huế_Xuất bản 2002.
4. Giáo trình tâm lý học Tiểu học_GS.TS. Bùi Văn Huệ_ NXB đại học
Huế_Xuất bản 2002.
17

×