Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Tổng quan về mối quan hệ giữa triết học và khoa học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.27 KB, 14 trang )

1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài “Tổng quan về mối quan hệ giữa triết học và khoa học “
GVHD : TS. BÙI VĂN MƯA
HỌC VIÊN : NGUYỄN KHÁNH HƯNG
MSHV : 7701220474
STT – 39 NHÓM – 9
LỚP : ĐÊM 1 – KHÓA 23
HỆ : CAO HỌC CHÍNH QUY
TP.HCM THÁNG 12/2014
2
MỤC LỤC
Giới thiệu tổng quan đề tài 1
Tổng quan về triết học và khoa học 4
TỔNG QUAN VỀ TRIẾT HỌC 5
TỔNG QUAN VỀ KHOA HỌC 5
Mối quan hệ giữa triết học và khoa học 6
QUAN ĐIỂM COI TRIẾT HỌC LÀ KHOA HỌC 6
QUAN ĐIỂM COI TRIẾT HỌC KHÔNG PHẢI LÀ KHOA HỌC 8
QUAN ĐIỂM COI TRIẾT HỌC VỪA LÀ KHOA HỌC VỪA KHÔNG LÀ KHOA HỌC
10
Kết luận 13
3
LỜI MỞ ĐẦU
Triết học có vai trò rất to lớn đối với sự phát triển của khoa học cụ thể; nó là thế
giới quan và phương pháp luận cho khoa học cụ thể, là cơ sở lý luận cho các
khoa học cụ thể trong việc đánh giá các thành tựu đã đạt được, cũng như vạch ra
phương hướng, phương pháp cho quá trình nghiên cứu cho quá trình nghiên cứu


khoa học cụ thể. Sự hình thành, phát triển của triết học không thể tách rời sự phát
triển của khoa học cụ thể. Tuy nhiên, triết học duy vật hay triết học duy tâm, siêu
hình học hay thực chứng luận có vai trò không như nhau. Trong lịch sử triết học,
chủ nghĩa duy vật đóng vai trò tích cực đối với sự phát triển khoa học; ngược lại
chủ nghĩa duy tâm thường được sử dụng làm công cụ biện hộ cho tốn giáo và cản
trở khoa học phát triển.
Trong quá trình phát triển, triết học ngày một đa dạng, phức tạp hơn và thường
xuyên biến đổi, có thâm nhập trao đổi qua lại với các hình thái ý thức xã hội
khác: khoa học, nghệ thuật, mỹ học, tôn giáo… Tuy nhiên, các học giả lại có
những quan điểm không đồng nhất với nhau về mối quan hệ giữa triết học và
khoa học. Qua bài luận này, tác giả muốn phần nào làm rõ các quan hệ triết học
và khoa học đang tồn tại nhằm nổi bật các quan điểm và góc nhìn.
4
I. Tổng quan về triết học và khoa học
1. Tổng quan về triết học
Triết học ra đời trong xã hội chiếm hữu nô lệ ở cả phương Đông và phương Tây
vào khoảng thế kỷ VIII - thế kỷ VI Tr.CN. Thuật ngữ “Triết học" theo nghĩa
tiếng Hy Lạp, phiên âm Latinh là “philosophia” (yêu thích sự thông thái). Theo
tiếng Trung Quốc, triết học có nghĩa là sự truy tìm bản chất của đối tượng, là sự
hiểu biết sâu sắc của con người. Triết học được hiểu như là khả năng nhận thức,
đánh giá, sự hiểu biết sâu rộng của con người.
Khái quát lại, có thể hiểu: Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của
con người về thế giới, về vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy.
Triết học ra đời do hoạt động nhận thức của con người phục vụ nhu cầu sống;
song với tư cách là hệ thống tri thức lý luận chung nhất, triết học chỉ có thể xuất
hiện trong những điều kiện nhất định sau đây:
a) Con người đã phải có một vốn hiểu biết nhất định và đạt đến khả năng rút
ra được cái chung trong muôn vàn những sự kiện, hiện tương riêng lẻ.
b) Xã hội đã phát triển đến thời kỳ hình thành tầng lớp lao động trí óc. Họ đã
nghiên cứu hệ thống hoa các quan điểm, quan niệm rời rạc thành học

thuyết, lý luận.
Tất cả những điều trên cho thấy: Triết học ra đời từ thực tiện, do nhu cầu thực
tiễn; nó có nguồn gốc nhận thực và nguồn gốc xã hội.
2. Tổng quan về khoa học
Khoa học (trong tiếng Latin scientia, có nghĩa là "kiến thức" hoặc "hiểu biết") là
các nỗ lực thực hiện phát minh, và tăng lượng tri thức hiểu biết của con người về
cách thức hoạt động của thế giới vật chất xung quanh. Thông qua các phương
pháp kiểm soát, nhà khoa học sử dụng cách quan sát các dấu hiệu biểu hiện mang
tính vật chất và bất thường của tự nhiên nhằm thu thập dữ liệu, phân tích thông
tin để giải thích cách thức hoạt động, tồn tại của sự vật hiện tượng. Một trong
5
những cách thức đó là phương pháp thử nghiệm nhằm mô phỏng hiện tượng tự
nhiên dưới điều kiện kiểm soát được và các ý tưởng thử nghiệm. Tri thức trong
khoa học là toàn bộ lượng thông tin mà các nghiên cứu đã tích lũy được. Định
nghĩa về khoa học được chấp nhận phổ biến rằng khoa học là tri thức tích cực đã
được hệ thống hóa.
Các lĩnh vực khoa học thường được chia thành hai nhóm chính: khoa học tự
nhiên, nghiên cứu các hiện tượng tự nhiên (kể cả đời sống sinh học) và khoa học
xã hội, nghiên cứu hành vi con người và xã hội. Những nhóm chính là khoa học
thực nghiệm, trong đó kiến thức phải được dựa trên những hiện tượng quan sát
được và có khả năng được thử nghiệm để kiểm nghiệm tính đúng đắn của nó bởi
các nhà nghiên cứu khác nhau làm việc trong cùng điều kiện. Ngoài ra còn có các
ngành liên quan được nhóm lại thành các khoa học liên ngành và khoa học ứng
dụng, chẳng hạn như khoa học kỹ thuật và khoa học sức khỏe. Các thể loại khoa
học này có thể bao gồm các yếu tố của các ngành khoa học khác nhưng thường
có thuật ngữ và cơ quan chuyên môn riêng.
Khoa học thuần túy là các môn học bao gồm các phương diện triết lý, tôn giáo,
khoa học, tín ngưỡng, xã hội học, nhân chủng học, chính trị học, luận lý học, đạo
đức học, tâm lý học, phân tâm học, thần kinh bệnh học, ngôn ngữ học, tôn giáo
học huyền bí học. Khoa học ứng dụng là khoa học chính xác sử dụng các kiến

thức thuộc một hay nhiều lĩnh vực của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội để
giải quyết những vấn đề thực tế. Nó có liên hệ mật thiết hoặc đồng nhất với kỹ
nghệ. Khoa học ứng dụng thường sử dụng để phát triển công nghệ.
6
II. Mối quan hệ giữa triết học và khoa học
Triết học và khoa học “Có thực triết học là khoa học không?” gắn với sự nghi
ngờ về tính chất của ngành này là một câu hỏi khoa học chân chính, một câu hỏi
triết học đối với chúng ta. Triết gia và những người quan tâm đến triết học cần
phải nhìn lại, nhận thức đúng về ngành Triết học để soi lại mình và định hướng
để cho triết học phát triển tiếp. Ở mỗi thời, mỗi trường phái triết học đều có
những quan điểm khác nhau về triết học.
Ở thời điểm triết học ra đời thì khoa học theo nghĩa là một hình thái ý thức xã hội
phản ánh hiện thực khách quan (bằng hệ thống chân lý về thế giới được diễn đạt
bằng các khái niệm, giả thuyết, học thuyết, nguyên lý thông qua hoạt động
nghiên cứu khoa học đặc thù) vẫn còn chưa xuất hiện.
Trong quá trình phát triển, triết học ngày một đa dạng, phức tạp hơn và thường
xuyên biến đổi, có thâm nhập trao đổi qua lại với các hình thái ý thức xã hội
khác: khoa học, nghệ thuật, mỹ học, tôn giáo…Trải qua rất nhiều giai đoạn trong
lịch sử, mối quan hệ giữa triết học và khoa học có thể khái quát dưới các góc
nhìn dưới đây.
1. Quan điểm coi Triết học là khoa học, đã là Triết học thì phải mang tính khoa
học
Ngay từ khi mới ra đời, triết học được xem là hình thái cao nhất của tri thức, bao
hàm trong nó tri thức về tất cả các lĩnh vực không có đối tượng riêng. Đây là
nguyên nhân sâu xa làm nảy sinh qua niệm cho rằng “triết học là khoa học của
mọi khoa học”, đặc biệt là ở triết học tự nhiên ở Hy Lạp cổ đại. Thời kỳ này, triết
học đã đạt được nhiều thành tựu rực rỡ mà ảnh hưởng của nó còn in đậm đối với
sự phát triển của tư tưởng triết học ở Tây Âu.
7
Đến thời Trung cổ ở phương Tây, triết học kinh viện là công cụ biện hộ cho tôn

giáo cản trở sự phát triển khoa học. Vào thời Phục Hưng và nhất là thời cận đại,
chủ nghãi duy vật đã phát triển gắn liền với khoa học tự nhiên, đã góp phần
chống lại sự thống trị của giáo hội. Tuy nhiên vào thời kỳ này, quan điểm triết
học “khoa học của các khoa học” và phương pháp tư duy siêu hình vẫn giữ vai
trò thống trị. Sự phát triển của khoa học vào cuối thể kỷ XVIII – đầu thể kỷ XIX
đã làm cho qun điểm triết học là “khoa học của các khoa học” và phương pháp tư
duy siêu hình không còn phù hợp nữa. Từ đó chủ nghĩa duy vật biện chứng ra
đời.
Và chính Mác và Ăngen đã đặt cơ sở cho triết học khoa học bằng nhận thức duy
vật lịch sử. “Nhận thức duy vật quá trình lịch sử làm cho triết học của chủ nghĩa
Mác trở thành một khoa học chân chính”.
Triết học có mặt ở trong các tư tưởng bao trùm cả thời đại và sẽ là phi lý khi giả
định nó bước qua thời đại ngày nay - thời đại mà tính duy lý khoa học được xem
xét như chỉ số của tinh thần. Vậy thời đại của chúng ta phải có triết học mang
tính khoa học.
Chúng ta có thói quen coi khoa học là những tri thức phổ biến, khách quan và
không mang tính cá nhân. Nhưng đồng nhất tính khoa học với tính phổ biến,
chúng ta cũng có thể phủ nhận tính khoa học với các khoa học về hệ thống đang
phát triển chừng nào mỗi hệ thống như thể là đơn nhất và tuân theo những quy
luật hoạt động và phát triển đặc thù của riêng mình. Chúng ta cũng không thể nào
phủ nhận dấu ấn của cá nhân, người sáng tạo trong các hệ thống triết học.
Khi nói rằng thực tiễn lịch sử xã hội là tiêu chuẩn khách quan của tính chân lý
trong khoa học và triết học thì cần hiểu thực tiễn trong tính chỉnh thể và sự phát
triển của nó.
Tính chân lý là cần thiết nhưng vẫn là tiêu chuẩn chưa đầy đủ của tính khoa học.
“Vật lý học hiện đại đã chỉ ra rằng khoa học luôn chứa đựng cả nhân tố chủ quan.
8
Tri thức của khoa học tự nhiên cũng không thoát khỏi quan hệ đánh giá, dù rằng
ở đây quan hệ này giữ vai trò nhỏ hơn trong các khoa học xã hội và triết học”.
Vậy, triết học thuộc về kiểu khoa học khác mà chỉ bắt đầu được chúng ta suy

nghĩ và cho đến nay chưa hiểu đến cùng. Khoa học kiểu này là khoa học về các
khách thể mang tính cá biệt. Như Các Mác đã chính bày “triết học là bộ môn
khoa học về quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.”
Không có triết học duy vật biến chứng khoa học hiện đại không có thể có những
bước tiến dài và vững chắc. Sự phát triển của khoa học hiện đại ngày nay càng
chứng minh mối liên hệ thống nhất giữa khoa học và triết học Mác trên con
đường nhận thức và cải tạo thế giới.
2. Quan điểm coi Triết học không phải là Khoa học cho rằng triết học chưa bao
giờ và sẽ chẳng bao giờ là khoa học cả.
Việc đồng nhất Triết học là khoa học của khoa học hay là như một ngành khoa
học nào đó cũng cần phải xem xét lại. Quan điểm này dựa trên 7 đặc điểm khác
biệt cơ bản giữa triết học và khoa học:
1. Ở mức độ này hay khác thì tất cả các kết luận của khoa học phải được chứng
minh nhờ các sự kiện, quan sát và thực nghiệm. Nhưng triết học lại thờ ơ với
việc xác nhận này.
2. Các khẳng định khoa học được kiểm tra một cách kinh nghiệm và có thể bác
bỏ bởi thí nghiệm. Nhưng những khẳng định của triết học không được kiểm tra
và không bị bác bỏ.
3. Trong mỗi khoa học thường tồn tại một lý luận cơ bản mà ở thời kỳ nhất định
phần lớn các nhà khoa học đều ủng hộ lý luận ấy. Ngược lại triết học không có lý
luận thống trị mà đa trường phái, đa trào lưu, đa xu hướng.
9
4. Khoa học sử dụng một cách rộng rãi sự quan sát, đo lường và thực nghiệm. Nó
thường hướng đến quy nạp và dựa vào sự khái quát hoá. Nhà triết học thì không
làm quan sát/thí nghiệm, thu thập các sự kiện. Anh ta sử dụng phương pháp tiên
đề kiểu toán học, tiên đề không cần những luận chứng thực tế như thực nghiệm.
5. Trong khoa học luôn tồn tại các vấn đề mọi người thừa nhận và cùng khám
phá. Còn triết học không có những vấn đề được thừa nhận chung.
6. Mỗi khoa học cụ thể đều có ngôn ngữ đặc thù của ngành mình. Ngôn ngữ
chung tạo khả năng trao đổi và thể hiện các kết quả giữa các khoa học gia. Thế

còn ngôn ngữ triết học lại không xác định. Mỗi triết gia đều muốn đưa nội dung
riêng, ý nghĩa riêng của những thuật ngữ quen thuộc vào khái niệm của mình.
7. Khoa học đem lại cho chúng ta chân lý nghĩa là phản ánh tương ứng hiện thực
trong hình thức các khái niệm, định luật và lý luận khoa học. Triết học lại không
chỉ phản ánh hiện thực mà còn mô tả việc cải tạo thực tiễn - nên làm thế nào để
tốt đẹp hơn Không thể đặt một mệnh đề triết học vào các sự kiện thực nghiệm
với mục đích khẳng định hay bác bỏ nó.
Theo quan điểm này triết học không phải chỉ là khoa học mà nó là hệ thống hoàn
chỉnh các quan điểm về thế giới, về vị trí của mình ở trong thế giới và xã hội. Nét
đặc trưng của thế giới quan là ở chỗ cùng với một số khái niệm về thế giới, nó
bao hàm cả trong mình mối quan hệ với thế giới, sự đánh giá thế giới từ luận
điểm của các giá trị, lý tưởng nào đó
Những mối quan hệ thế giới quan và sự đánh giá luôn luôn là chủ quan, chúng
được xác định bởi những đặc điểm của người mang thế giới quan, bởi vị trí và
quyền lợi của người đó trong xã hội Vậy triết học luôn mang tính cá nhân.
Nếu theo cách nhìn như vậy thì triết gia phải thấy rõ điều quan trọng mô tả được
thế giới quan của cá nhân mình. Chúng ta cũng nhìn triết học như lịch sử vận
động thế giới quan của các cá nhân. Chúng ta không phải chỉ tìm kiếm những giá
10
trị chung mà hình thành và thể hiện sự nhìn nhận riêng với thế giới, mối quan hệ
cá nhân với thế giới
Quan điểm này giải thích được vấn đề tại sao các quan điểm của cá nhân là khoa
học gia hay những người không liên quan đến hoạt động khoa học lại vẫn được
coi là quan điểm có “mang tính triết học”. Đó là bởi những quan điểm ấy đóng
góp hình thành nên hệ thống hoàn chỉnh các quan điểm về thế giới cho một cá
nhân hay cộng đồng.
Khi đã coi triết học không phải là khoa học, việc còn lại là chúng ta xem xét mối
quan hệ giữa chúng với nhau. Có quan điểm cho rằng đó là loại quan hệ chủ thể -
khách thể đối lập nhau. Các ngành khoa học như vật lý, hoá học… thể hiện nhân
tố đối lập giữa chủ thể và khách thể, sự nhận thức của chúng tất yếu phải loại trừ

cái chủ thể trong tri thức. Ngược lại, dù có những sự khác nhau, các học thuyết
triết học đều thể hiện nhân tố đồng nhất chủ thể và khách thể.
“Thế giới nhập vào trong cấu trúc của tự ý thức với tư cách là khách thể của
chính sự đồng nhất của ý thức”. Bởi thế trong sự nhìn nhận triết học, thế giới gắn
bó bên trong với ý thức, cùng với nó tạo nên một chỉnh thể duy nhất thể hiện sự
thống nhất bên trong của con người và tự nhiên. Chỉnh thể này tạo nên nội dung
của khái niệm tồn tại. Với tư cách là nhân tố của chỉnh thể này, thế giới là đối
tượng nhận thức của triết học.
3. Quan điểm khác trung hoà quan điểm về quan hệ giữa triết học với khoa học
và quan điểm coi triết học là khoa học như sau: “Triết học vừa là khoa học và
vừa không là khoa học”.
Triết học là một sự hỗn tạp, nó cần thiết để cân bằng giữa khoa học và không
khoa học, bởi nhiệm vụ của nó là gỡ bỏ cái ranh giới ấy.
Đã từ lâu, chúng ta đã xem xét triết học dưới cả 2 dạng tồn tại của nó: như một
hình thái ý thức xã hội và như một khoa học. Vậy nên chúng ta chuyển sang tìm
11
hiểu mối quan hệ giữa khoa học với các hình thái ý thức xã hội khác nhau, trong
đó có triết học.
Khoa học có thể lấy bất kỳ hiện tượng nào đó của hiện thực vật chất hay tinh
thần thành đối tượng nghiên cứu của mình. Nó nghiên cứu những vấn đề đạo
đức, thẩm mỹ và những vấn đề khác của xã hội thuộc về lĩnh vực tinh thần. Nó
nghiên cứu cả chính quá trình sáng tạo khoa học nghĩa là nghiên cứu cả chính
bản thân mình.
Vậy thì cớ gì nó không nghiên cứu những vấn đề triết học trong đó có những vấn
đề thuộc về thế giới quan. Ngay đến đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo có phải là khoa
học đâu. Nhưng điều đó đâu có phủ nhận sự tồn tại của đạo đức học, mỹ học và
thần học… Nhưng khác với các khoa học này, khoa học triết học không có một
cái tên chuyên biệt để phân biệt nó với triết học như một hình thái ý thức xã hội
và là đối tượng nghiên cứu của nó. Bởi lẽ sự hình thành triết học như một khoa
học theo thời gian gần như trùng với sự hình thành triết học với tư cách một hình

thái ý thức xã hội. Vì thế khoa học triết học không có tên riêng mà trộn với hình
thái ý thức xã hội tương ứng. Nó cũng giải thích vì sao từ lâu người ta đồng nhất
Khoa học với Triết học.
Sự khác biệt có thể phân biệt là hình thái triết học của ý thức xã hội (có thể gọi
với một cái tên khác là triết lý) chính là sự hướng ra ngoài, là quá trình thấu hiểu
của triết học về thế giới – thế giới quan. Còn khoa học triết học (vẫn thường dùng
với cái tên truyền thống là triết học) - đó là sự phản tư triết học hướng đến bản
thân mình (đến thế giới quan) hoàn thành vai trò phương pháp luận và là “sự tự
nhận thức” của xã hội.
Nếu ta nhận thức được rằng, triết học có những yếu tố không mang tính khoa học
thì nó sẽ giúp ta thoát khỏi tình trạng giáo điều trong suy tư triết học, tạo điều
kiện cho sự phát triển tự do, sáng tạo tri thức triết học. Ngoài phương diện về
nhận thức luận ra, triết học còn chứa đựng cả phương diện đánh giá mang tính cá
12
nhân. Giá trị học thể hiện vai trò của tác giả trong việc biện minh, tiếp nhận các
quan điểm, các hệ thống triết học khác nhau đối với cá nhân.
13
KẾT LUẬN
Khi xác định đúng đối tượng của triết học là khoa học nghiên cứu những quy luật
chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy, triết học Mác không những không tách
rời mà trái lại nó đòi hỏi phải thực hiện mối liên hệ mật thiết giữa triết học và
khoa học. Bời vì sự phát triển của các lĩnh vực khoa học khác nhau trong việc
nghiên cứu thế giới tự nhiên và xã hội đặt cơ sở cho những khái quát mang tính
phổ biến của triết học. Mặt khác, những kết luận của triết học trở thành cơ sở thế
giới quan khoa học và phương pháp luận chung nhất cho sự phát triển các của
lĩnh vực khoa học. Thực tiễn khoa học đã chứng minh rằng, những thành tự
nghiên cứu của khoa học về tự nhiên và xã hội là tiền đề, cơ sở khoa học cho hệ
thống phạm trù, quy luật triết học, đồng thời ngược lại, hệ thống phạm trù, quy
luật triết học định hướng cho sự phát triển hợp quy luật của các lĩnh vực khoa
học khác nhau.

Như Ph.Ănghen đã chỉ ra “ Một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của khoa
học thì không thể không có tư duy lý luận” đề hoàn thiện năng lực tư duy lý luận,
không có một cách nào khác hơn là nghiên cứu toàn bộ triết học thời trước, làm
rõ các mối quan hệ triết học và khoa học trong đó.
14
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS. Bùi Văn Mưa, Giáo trình triết học (2011)
2. TS. Bùi Văn Mưa, Triết học và bức tranh vật lý học về thế giới (2007)
3.
4.

×