Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Tiểu luận môn triết học sự tương đồng và khác biệt giữa triết học Nho gia và triết học Pháp gia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.53 KB, 16 trang )

Lê Quang Thanh Trang Nhóm 12
1. GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI
Sau hơn 2500 năm tồn tại và phát triển của triết học, khái niệm triết học
được hiểu không như nhau, đối tượng nghiên cứu của nó cũng thay đổi khác
nhau theo từng giai đoạn lịch sử. Tuy nhiên trong các quan điểm khác nhau đó
vẫn có những điểm chung. Từ điểm chung này triết học được coi là một hệ thống
tri thức lí luận chung nhất của con người về thế giới, về bản thân con người và về
vị trí, vai trò của con người trong thế giới đó.
Lịch sử phát triển của triết học được chia ra bốn thời kì: cổ đại, trung đại,
phục hưng -cận đại và hiện đaị. Các tư tưởng triết học ra đời gắn liền với các đặc
trưng về văn hóa, kinh tế, chính trị, xã hội trong các thời đại lịch sử khác nhau.
Triết học phương Đông (triết học Ấn độ, triết học Trung Quốc…) và triết học
phương Tây (triết học Hy Lạp, triết học Pháp, triết học Đức…) là cơ sở và động
lực cho việc hoàn thiện tư tưởng triết học sau này.
Triết học Trung quốc là một kho kiến thức của lịch sử triết học phương
Đông và thế giới. Người Trung Quốc coi triết học là sự truy tìm bản chất, là sự
thấu hiểu căn nguyên của sự vật, sự việc. Nhiều trường phái triết học đã được
hình thành trong thời kì xuân thu và chiến quốc và được biết với tên gọi Bách gia
chư tử. Bốn trào lưu có ảnh hưởng nhất là Nho gia, Đạo gia, Mặc gia và Pháp
gia. Giống với triết học phương Tây, triết học Trung Quốc có nhiều tư tưởng
phức tạp và đa dạng với nhiều trường phái và đều đề cập đến mọi lĩnh vực và
chuyên ngành của triết học.
Lịch sử Trung Hoa cổ -trung đại đầy biến động với các vương triều khác
nhau đã để lại một nền văn hóa rực rỡ với nhiều trường phái triết học đặc sắc.
Triết học Nho gia và Pháp gia với những nhà triết gia nổi bật nhất của triết học
Trung Quốc là Khổng Tử và Hàn Phi là hai đại diện tiêu biểu cho những đặc
điểm trên. Nho gia và Pháp gia góp phần làm đồ sộ hệ thống triết học Trung
Quốc thời cổ đại. Phân tích “sự tương đồng và khác biệt giữa triết học Nho gia
và triết học Pháp gia” là nội dung chính của bài tiểu luận này.
1
Lê Quang Thanh Trang Nhóm 12


2. TRIẾT HỌC NHO GIA
Nho gia là một trường phái triết học lớn được hoàn thiện liên tục và có
ảnh hưởng sâu rộng, lâu dài đến nền văn hóa tinh thần của Trung Quốc nói riêng,
của nhiều quốc gia phương Đông nói chung.
2.1 Điều kiện hoàn cảnh ra đời, sự phát triển:
Nho gia xuất hiện vào khoảng thế kỉ VI trước công nguyên dưới thời
Xuân Thu, người sáng lập là Khổng Tử (551-479 tr.CN). Đến thời Chiến Quốc,
Nho gia đã được Mạnh Tử và Tuân Tử hoàn thiện và phát triển theo hai xu
hướng khác nhau: duy vật và duy tâm, trong đó dòng Nho gia Khổng-Mạnh có
ảnh hưởng rộng và lâu dài nhất trong lịch sử Trung Hoa và các nước lân cận.
Trải qua các giai đoạn phát triển chủ yếu (Nho gia nguyên thủy, Hán nho,
Tống nho), kinh điển của Nho gia gồm hai bộ là Tứ Thư (Luận ngữ, Đại học,
Trung dung, Mạnh tử) và Ngũ Kinh (Thi, Thư, Lễ, Dịch, Xuân thu). Các kinh
sách này hầu hết đều viết về xã hội, về kinh nghiệm lịch sử Trung Quốc. Điều
này cho thấy rõ xu hướng biện luận về xã hội, về chính trị, đạo đức là những tư
tưởng cốt lõi của Nho gia.
2.2 Một số tư tưởng triết học cơ bản của Nho gia cổ đại:
Nho gia coi trọng những quan hệ chính trị - đạo đức (tam cương: vua-tôi,
cha-con, chồng-vợ) là cơ sở của gia đình, là nền tảng xã hội. Điều này phản ánh
tư tưởng chính trị quân quyền và phụ quyền của nho giáo.
Thời Xuân thu - Chiến quốc tam cương rối loạn, muốn có “xã hội đại đồng” phải
chấn chỉnh tam cương bằng công cụ giáo dục đạo đức.
Do không coi trọng cơ sở kinh tế và kỹ thuật của xã hội nên nền giáo dục
của Nho gia chủ yếu hướng vào việc rèn luyện đạo đức con người. Trong bảng
giá trị đạo đức của nho gia thì chuẩn mực gốc là “Nhân”. Những chuẩn mực khác
như Lễ, Nghĩa, Trí, Tín, Trung, Hiếu… đều là những biểu hiện cụ thể của Nhân.
Nho gia quan tâm đến vấn đề bản tính con người. Trong học thuyết nho
gia không có sự thống nhất quan điểm về vấn đề này. Nổi bật là quan điểm của
2
Lê Quang Thanh Trang Nhóm 12

Mạnh tử “bản tính con người vốn là thiện” (nhân chi sơ tính bản thiện). Thiện là
tổng hợp những đức tính vốn có của con người từ khi mới sinh ra như: nhân,
nghĩa , lễ… Do quan niệm tính thiện nên Nho gia (dòng Khổng-Mạnh) đề cao sự
giáo dục con người để con người trở về đường thiện với những chuẩn mực đạo
đức có sẵn.
2.3 Tư tưởng triết học của Khổng Tử:
Người sáng lập ra Nho gia là Khổng Tử (551-479 tr.CN).
Khổng Tử đưa ra thuyết “Thiên mệnh” lí giải sự thống nhất giữa trời, đất, người,
và làm cơ sở lí luận đạo đức (vạn vật tồn tại và biến hóa theo thiên mệnh; để
thành người quân tử phải hiểu và làm theo thiên mệnh).
“Thiên mệnh chi vị tính, xuất tính chi vị đạo, tu đạo chi vị giáo, và tính tương
cận, tập tương viễn”.
Ưu điểm của ông là chủ trương “hữu giáo vô loại” (học thì không phân
loại). Khổng tử cũng nêu ra một số phương pháp học tập có í nghĩa như: học phải
đi đôi với luyện tập, học phải kết hợp với suy nghĩ, phải ôn cũ để biết mới, học
phải nắm được cái cốt yếu. Tuy nhiên hạn chế của khổng tử là ở quan niệm học
theo lối hoài cổ, coi thường tri thức về sản xuất, lao động chân tay.
Khổng tử cho rằng, nếu lập đạo của trời, nói về âm và dương; lập đạo của
đất, nói về cương và nhu; thì lập đạo của người, phải nói về nhân và nghĩa.
Tư tưởng về luân lí, đạo đức, chính trị-xã hội là một trong những vấn đề cốt lõi
trong học thuyết khổng tử. Những nguyên lí đạo đức cơ bản nhất trong học
thuyết đạo đức của Khổng Tử là: nhân, lễ, trí, dũng…cùng với một hệ thống
quan niệm về chính trị-xã hội như “nhân trị”, “chính danh, “thượng hiền”, “quân
tử”, “tiểu nhân”…
 Quan niệm về nhân:
Nhân được coi là nguyên lí đạo đức cơ bản quy định bản tính con người, chi phối
mọi quan hệ giữa người với người trong xã hội, và nó được hiểu rất rộng: “sửa
mình theo lẽ là nhân”, “điều gì mình không muốn, đừng đem nó làm cho người
3
Lê Quang Thanh Trang Nhóm 12

khác là nhân”, “yêu thương người là nhân”…tư tưởng bao trùm của Nhân là yêu
thương con người, là đạo làm người.
 Quan niệm về nghĩa:
Nghĩa là dạ thủy chung, đức nghĩa dùng để đối xử với chính mình và tạo ra ta.
Nghĩa được hiểu là những gì hợp đạo lí mà con người phải làm. Con người muốn
sống tốt phải lấy nghĩa để đáp lại lợi, chứ không nên lấy lợi đáp lại lợi. Do hạn
chế bởi lập trường giai cấp, Khổng Tử cho rằng bậc quân tử tinh tường về việc
nghĩa, kẻ tiểu nhân rành rẽ về việc lợi. Tiểu nhân và Quân tử là hai loại người đối
lập nhau không phải chủ yếu về vị trí xã hội mà chủ yếu là về phẩm chất đạo
đức.
 Quan niệm về lễ:
Để điều nhân có thể thực hiện được thì phải bằng “lễ”. lễ ở khổng tử là những
phong tục, tập quán, những quy tắc, quy định trật tự xã hội và cả thể chế pháp
luật nhà nước như: sinh, tử, tang, hôn, tế lễ, luật lệ, hình phạt. Nhân và lễ có quan
hệ rất mật thiết. Nhân là nội dung bên trong của lễ, còn lễ là hình thức biểu hiện
ra bên ngoài của nhân. Mặc dù kiên trì bảo vệ lễ của nhà Chu, nhưng khổng tử
cũng đưa thêm những nội dung mới và phát triển nó lên, biến lễ thành một phạm
trù có í nghĩa xã hội và nhân văn sâu sắc.
 Quan niệm về trí:
Sự sáng suốt hiểu thấu đạo trời, biết sống hợp với nhân. Trí là điều kiện để có
nhân (kẻ không có trí bao giờ cũng bất nhân).
 Quan niệm về tín:
Lòng dạ ngay thẳng, lời nói và việc làm nhất trí với nhau. Tín là đức trong mối
quan hệ bạn bè và rất quan trọng với mọi người.
 Quan niệm về dũng:
Sức mạnh tinh thần, lòng can đảm, biết vứt bỏ tư lợi để làm theo nhân nghĩa.
Khổng tử gắn dũng với nghĩa để kết luận người quân tử coi trọng điều nghĩa, gắn
dũng với trí để chỉ dũng không thể không có trí soi sáng, gắn dũng với lễ cho
thấy quân tử ghét những kẻ có dũng mà không có lễ, không có trí…
4

Lê Quang Thanh Trang Nhóm 12
2.4 Nhận xét:
Khổng tử chú trọng tam đức: người quân tử có trí nên không nhầm lẫn, có
nhân nên không buồn phiền, có dũng nên không có gì phải kinh sợ.
Mục đích của khổng tử là xây dựng một xã hội có tôn ti trật tự, kỷ cương. Để làm
được điều đó cần phải có “lễ” và “chính danh”. “Chính danh là làm mọi việc cho
ngay thẳng”. Xuất phát từ tình hình loạn lạc của xã hội trung quốc thời xuân thu,
Khổng tử đã nêu lên thuyết “chính danh”, nhưng trên thực tế thuyết này mang
tính bảo thủ, bảo vệ lợi ích cho quí tộc nhà Chu. Để thực hiện mục đích của
mình, Khổng tử chống việc duy trì ngôi vua theo huyết thống và chủ trương
“thượng hiền”, dùng người không phân biệt đẳng cấp xuất thân của họ.
Toàn bộ học thuyết về nhân, lễ, chính danh … của Khổng tử là nhằm phục
vụ mục đích chính trị là “nhân trị” và “đức trị”. Ông phản đối việc dùng hình
phạt để trị dân vì làm như vậy, dân sợ mà phải theo chứ không phục. theo ông cai
trị bằng tình người, bằng sự yêu người, coi người như bản thân… thì mới hiệu
quả.
Nho gia nguyên thủy chứa nhiều giá trị nhân bản và toát lên tinh thần biện
chứng, nó đã làm nổi bật khía cạnh xã hội của con người, nhưng nó bị bám đầy
màu sắc duy tâm, do đó người quân tử và xã hội đại đồng mãi mãi chỉ là một lí
tưởng.
3. TRIẾT HỌC PHÁP GIA
Pháp gia là trường phái triết học có ảnh hưởng lớn đến sự nghiệp thống nhất về
tư tưởng và chính trị trong xã hội trung hoa cổ đại.
3.1 Điều kiện hoàn cảnh ra đời, sự phát triển:
Vào thời xuân thu, Quản Trọng (?-645 TCN) được coi là người khởi
xướng Pháp gia. Ông là người đầu tiên bàn về pháp luật như một cách trị nước,
và chủ trương công bố pháp luật rộng rãi trong công chúng. Đối với ông, người
trị nước phải coi trọng luật, lệnh, hình, chính.
5
Lê Quang Thanh Trang Nhóm 12

Sang nửa đầu thời chiến quốc, tư tưởng Pháp trị tiếp tục được phát triển.
Để cai trị đất nước Thận Đáo (370-290 TCN) chủ trương dùng thế, Thân Bất Hại
(401-337 TCN) chủ trương dùng thuật, còn Thương Ưởng (390-338 TCN) chủ
trương dùng pháp.
Cuối thời chiến quốc, Hàn Phi (280-233 TCN) không chỉ tổng hợp ba
quan điểm về pháp, thế, thuật của ba nhà triết học trên thành một học thuyết có
tính hệ thống mà ông còn kết hợp ba học thuyết nho, lão, pháp lại với nhau, trong
đó nho gia được coi là “vật liệu để xây dựng”, đạo gia là “kĩ thuật thi công”, còn
pháp gia là “bản thiết kế”.
3.2 Tư tưởng của triết học Pháp gia thời cổ đại:
Chủ trương dùng những luật lệ, hình pháp của nhà nước là tiêu chuẩn để
điều chỉnh hành vi đạo đức của con người và củng cố chế độ chuyên chế thời
chiến quốc.
Là tiếng nói đại diện cho tầng lớp quí tộc mới, đấu tranh kiên quyết chống
lại tàn dư của chế độ công xã gia trưởng truyền thống và tư tưởng bảo thủ, mê tín
tôn giáo đương thời.
Đại diện của pháp gia là Hàn Phi. Tư tưởng “pháp trị” của Hàn Phi là tiêu biểu
cho tư tưởng triết học Pháp gia cổ đại.
Cơ sở triết học pháp trị của Hàn Phi:
 Thừa nhận sự tồn tại của Lí – tính quy luật hay những lực lượng khách
quan trong xã hội. Lí chi phối mọi sự vận động của tự nhiên và xã hội. Ông yêu
cầu mọi hành động của con người không chỉ dựa trên quy luật khách quan, mà
còn phải thay đổi theo sự biến hóa của “lí”, chống thái độ cố chấp và bảo thủ.
 Thừa nhận sự biến đổi của đời sống xã hội. Không có khuôn mẫu chung
cho mọi xã hội, không có pháp luật luôn đúng với mọi thời đại. Pháp luật biến
chuyển theo thời đại thì thiên hạ trị, còn thời thế thay đổi mà phép trị dân không
đổi thì thiên hạ loạn.
 Thừa nhận bản tính con người là ác. Trong xã hội người tốt ít, kẻ xấu
nhiều nên muốn xã hội trị không nên chờ số ít làm việc thiện (nhân nghĩa trị) mà
6

Lê Quang Thanh Trang Nhóm 12
phải ngăn số đông làm điều ác (pháp trị). Kẻ thống trị phải nương theo tâm lí vị
lợi của con người để đặt ra pháp luật, trọng thưởng, nghiêm phạt để duy trì trật tự
xã hội.
Phải nắm lấy cái lí của vạn vật luôn biến hóa mà hành động cho phù hợp, phải
căn cứ vào nhu cầu của lịch sử, đặc điểm của thời thế mà lập ra chế độ, chính
sách trị nước thích hợp.
3.3 Tư tưởng về pháp trị của hàn phi:
Trên cơ sở những luận điểm triết học cơ bản ấy, Hàn Phi đã đề ra học
thuyết Pháp trị, nhấn mạnh sự cần thiết phải cai trị xã hội bằng luật pháp. Ông
cũng phản đối thuyết “nhân trị”, “đức trị” của Nho gia, phép "vô vi trị" của Đạo
gia. Phép trị quốc của Hàn Phi bao gồm 3 yếu tố tổng hợp là “pháp”, “thế” và
“thuật”, trong đó pháp là nội dung của chính sách cai trị, thế và thuật là phương
tiện để thực hiện chính sách đó.
 "Pháp" là một phạm trù của triết học Trung Hoa cổ đại. Theo nghĩa hẹp, là
quy định, luật lệ có tính chất khuôn mẫu mà mọi người trong xã hội phải tuân
thủ; theo nghĩa rộng, pháp được coi là một thể chế, chế độ chính trị và xã hội. Vì
vậy, “pháp” được coi là tiêu chuẩn, căn cứ khách quan để định rõ danh phận,
giúp cho mọi người thấy rõ được bổn phận, trách nhiệm của mình.
 "Thế" là địa vị, thế lực, quyền uy của người cầm đầu chính thể. Địa vị, thế
lực, quyền uy đó của người trị vì phải là độc tôn. Theo Hàn Phi Tử, “thế” quan
trọng đến mức có thể thay thế vai trò của bậc hiền nhân. Muốn thi hành được
pháp thì phải có thế. Pháp và thế không tách rời nhau.
 “Thuật” là phương pháp, thủ thuật, cách thức, mưu lược khiển việc, khiến
người triệt để thực hiện mệnh lệnh. Thuật bao gồm ba mặt là bổ nhiệm, khảo
hạch và thưởng phạt. Hàn Phi Tử đòi hỏi vua phải dùng pháp như trời, dùng thuật
như quỷ. Nếu “pháp” được công bố rộng rãi trong dân, thì “thuật” là cơ trí ngầm,
là thủ đoạn của vua được dấu kín. Nhờ thuật mà vua chọn được người tài năng,
trao đúng chức vụ quyền hạn, và loại được kẻ bất tài.
7

Lê Quang Thanh Trang Nhóm 12
3.4 Nhận xét:
Thuyết pháp trị của Hàn Phi nói riêng, của Pháp gia nói chung chủ trương
lấy pháp luật làm căn bản trong việc cai trị đất nước. Về nguyên tắc chủ trương
pháp trị đối lập với chủ trương nhân trị. Nhưng xét cho cùng pháp trị cũng là một
hình thức cụ thể của nhân trị.
Pháp gia chủ trương thực hành pháp trị để biến loạn thành trị vào cuối thời
chiến quốc ở trung hoa là đúng, mang lại hiệu quả. Nhưng pháp gia quá nhấn
mạnh biện pháp trừng phạt nặng nề, phủ nhận tình cảm đạo đức, thủ tiêu văn hóa
giáo dục… là đi ngược lại xu hướng phát trển của văn minh nhân loại. Vì vậy do
thực hiện triệt để pháp trị mà nhà Tần thống nhất được đất nước và cũng do thực
hành triệt để pháp trị mà nhà Tần mất nước.
Từ tời hán về sau, pháp gia không chính thức được công nhận nhưng
những tư tưởng có giá trị của nó đã được các trường phái triết học khác hấp thụ
để bổ sung, hoàn chỉnh quan điểm của mình.
4. SO SÁNH TRIẾT HỌC NHO GIA VÀ TRIẾT HỌC PHÁP GIA
THỜI CỔ ĐẠI
4.1 Sự tương đồng giữa triết học Nho gia và triết học Pháp gia thời cổ
đại:
 Hai trường phái bao quát nhiều vấn đề triết học nhưng chủ yếu tập trung
giải quyết những vấn đề do thực tiễn đạo đức – chính trị - xã hội của thời đại đặt
ra. Các triết gia Trung Hoa đều tập trung vào lĩnh vực luân lý đạo đức, xem việc
thực hành đạo đức như là hoạt động thực tiễn căn bản nhất của một đời người,
đặt lên vị trí thứ nhất của sinh hoạt xã hội.
 Nhấn mạnh tinh thần nhân văn, bàn nhiều về vấn đề con người, đặc biệt là
nguồn gốc, số phận, bản tính…của con người, nhằm mang lại cho con người một
quan niệm nhân sinh vững chắc, giúp con người định hướng hoạt động trong điều
kiện xã hội phức tạp và đầy biến động. Các tư tưởng liên quan đến con người
8
Lê Quang Thanh Trang Nhóm 12

như triết học nhân sinh, triết học đạo đức, triết học chính trị, triết học lịch sử phát
triển, còn triết học tự nhiên có phần mờ nhạt.
 Nhấn mạnh sự hài hoà, thống nhất giữa tự nhiên và xã hội. Các nhà triết
học nhấn mạnh sự hài hoà, thống nhất giữa các mặt đối lập, coi trọng tính đồng
nhất của các mối liên hệ tương hỗ của các khái niệm, coi việc điều hoà các mâu
thuẫn là mục tiêu cuối cùng để giải quyết các vấn đề.
 Tư duy trực giác. Đặc điểm nổi bật của phương thức tư duy triết học cổ
trung quốc là nhận thức trực giác, tức là có trong sự cảm nhận hay thể nghiệm.
Cảm nhận tức là đặt mình giữa đối tượng, tiến hành giao tiếp lý trí, ta và vật ăn
khớp, khơi dậy linh cảm, quán xuyến nhiều chiều trong chốc lát, từ đó mà nắm
bản thể trừu tượng. Phương thức tư duy trực giác đặc biệt coi trọng tác dụng của
cái tâm, coi tâm là gốc rễ của nhận thức, “lấy tâm để bao quát vật”.
 Bị chi phối bởi cuộc đấu tranh bởi chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy
tâm, nhưng đó là cuộc đấu tranh xung quanh vấn đề con người. Vì vậy, vấn đề về
quan hệ giữa Con người với Trời, Đất (thiên – nhân – địa) là vấn đề mang tính
xuất phát và xuyên suốt.
4.2 Sự khác biệt giữa triết học Nho gia và triết học Pháp gia thời cổ đại:
 Khác biệt trong quan điểm về con người và sự vật, hiện tượng:
Quan điểm về con người trong triết học trung quốc rất đa dạng và phức
tạp, thậm chí xung đột, mâu thuẫn nhau hết sức gay gắt. Nhưng nhìn chung, các
trường phái triết học đều lấy con người làm trung tâm và mục tiêu của nhận thức.
 Nho gia cho rằng, Trời là một lực lượng thần bí đã sinh ra con người và
vạn vật, con người cũng như vạn vật chịu sự chi phối của mệnh trời. Khổng Tử
cho rằng trời có í chí và có thể chi phối vận mệnh của con người: “làm sao có
thể cải được mệnh trời”. Hiểu biết mệnh trời là một điều kiện tất yếu để trở
thành con người hoàn thiện là người quân tử. Khi bàn về con người, trước hết
nho gia bàn về tính người. Quan niệm về tính người của các nhà tư tưởng trong
trường phái nho gia rất khác nhau, thậm chí đối lập nhau.
“Thiên mệnh chi vị tính, suất tính chi vị đạo, tu đạo chi vị giáo” (Khổng Tử)
9

Lê Quang Thanh Trang Nhóm 12
“Nhân chi sơ tính bản thiện” (Mạnh Tử)
“Bản tính con người khi sinh ra đã ác” (Tuân Tử)
“Thiên nhân cảm ứng” (Đổng Trọng Thư)
Mặc dù quan niệm rất khác nhau, nhưng họ đều thống nhất là cần phải
giáo dục tính thiện, giáo dục đạo làm người cho con người, tức làm cho con
người hiểu và sống phù hợp với xã hội. Theo các nhà tư tưởng nho gia, con
người sống phải có cương, thường, trung, hiếu…, tức trong cuộc sống con người
phải thể hiện những yếu tố đạo đức là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, trung, hiếu…
Con người là một tạo thể đạo đức, muốn sống tốt, tức để trở thành người quân tử,
con người phải trau dồi phẩm chất đạo đức (phải hiểu, sợ và làm theo thiên
mệnh).
 Trường phái Pháp gia, đại diện tiêu biểu là Hàn Phi, xuất phát từ quan
điểm duy vật cho rằng, trong thế giới tồn tại đạo và lí. Đạo là nguyên lí căn bản,
là quy luật phổ biến của sự hình thành mọi sự vật, hiện tượng, nó tồn tại vĩnh
viễn không thay đổi. Lí là phạm trù thể hiện mặt chất lượng của quy luật riêng
của các sự vật, hiện tượng; mỗi sự vật, hiện tượng đều có cái lí của nó. Cái lí của
sự vật, hiện tượng cụ thể là bất thường (luôn biến đổi và phát triển). Do vậy, để
đạt được kết quả trong hành động, con người phải tuân theo đạo và lí. Trong tự
nhiên không có í chí tối cao, í muốn chủ quan của con người không thể thay đổi
được quy luật khách quan. Vận mệnh của của con người là do con người tự quyết
định lấy. Trái với khổng tử một mặt tin vào quỷ thần, Hàn Phi cho rằng không có
gì có thể chứng minh được quỷ thần là có thật. Nếu con người không sinh bệnh
tật thì không bị trừng phạt, ra sức làm ra nhiều của cải thì quỷ thần không làm rối
loạn được tinh thần con người. Ông cho rằng con người sinh ra vốn đã có sẵn
lòng tham dục, tư lợi; mọi quan hệ xã hội đều được xây dụng trên cơ sở tính toán
lợi ích cá nhân. Vì thế, kẻ thống trị phải căn cứ vào tâm lý tránh hại, cầu lợi, vị
kỷ của con người mà định ra pháp luật (để thưởng phạt) nhằm duy trì trật tự xã
hội.
10

Lê Quang Thanh Trang Nhóm 12
 Khác biệt trong quan điểm lí luận chính trị và cai trị đất nước:
 Khổng Tử – người sáng lập Nho gia – làm hết sức để nhằm mục đích cho
người quân tử cai trị đất nước. Khổng tử đặc biệt coi trọng “nhân trị” chứ không
phải “pháp trị”. Triết học của ông nhấn mạnh trên sự tu dưỡng đức hạnh cá nhân
và cai trị bằng đạo đức: “tu thân, tề gia, bình thiên hạ”. Ông cho rằng chính phủ
tốt nhất là chính phủ cai trị bằng "Lễ nghĩa" và đạo đức tự nhiên của con người,
chứ không phải bằng vũ lực và mua chuộc. Ông đã giải thích điều đó tại một
trong những đoạn quan trọng nhất ở cuốn Luận Ngữ: "Dùng mệnh lệnh, pháp
luật để dẫn dắt chỉ đạo dân, dùng hình phạt để quản lý dân, làm như vây tuy có
giảm được phạm pháp, nhưng người phạm pháp không biết xấu hổ, sỉ nhục.
Dùng đạo đức để hướng dẫn chỉ đạo dân, dùng lễ nghĩa để giáo hóa dân, làm
như vậy chẳng những dân hiểu được thế nào là nhục nhã khi phạm tội, mà còn
cam tâm tình nguyện sửa chữa sai lầm của mình tận gốc từ mặt tư tưởng." (Tứ
Thư - Luận Ngữ, NXB Quân đội Nhân dân 2003). Sự "biết sỉ nhục" là sự mở
rộng của trách nhiệm, nơi mà hành động trừng phạt đi trước hành động xấu xa,
chứ không phải đi sau nó như trong hình thức luật pháp của Pháp gia.
Ông tin chắc rằng, nền tảng của việc cai trị đất nước chính là tự chế ước bản
thân. Một vị quân chủ cao quý nắm giữ chính quyền sẽ tự nhiên mang lại hòa
bình và ổn định cho đất nước. Khổng Tử đã từng nói: “Bản thân mà chính đáng,
dù không cần mệnh lệnh thì (người khác) cũng thi hành; còn nếu bản thân không
chính đáng, dù có mệnh lệnh thì (người khác) cũng không tuân theo”. Theo ông,
tiền đề quyết định sự thành bại trong việc trị nước chính là đức hạnh của nhà vua
đang trị vì. Đức hạnh đó được gọi là “nhân” và đạt được qua “lễ”. Khổng Tử là
người đặc biệt nệ cổ, thường coi xưa hơn nay; tâm nguyện của ông là làm sao để
xã hội có thể trở về trạng thái xưa cũ.
 Hàn Phi - người tập đại thành tư tưởng Pháp gia. Ông đã tiếp thu điểm ưu
trội của ba trường pháp “pháp”, “thuật”, “thế” để xây dựng và phát triển một hệ
thống lý luận pháp trị tương đối hoàn chỉnh và tiến bộ so với đương thời. Coi
pháp luật là công cụ hữu hiệu để đem lại hoà bình, ổn định và công bằng, Hàn

Phi đã đề xuất tư tưởng dùng luật pháp để trị nước. Ông đưa ra một số nguyên tắc
11
Lê Quang Thanh Trang Nhóm 12
cơ bản trong xây dựng và thực thi pháp luật, như pháp luật phải nghiêm minh,
không phân biệt sang hèn, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật Với những
tư tưởng đó, học thuyết của Hàn Phi được người xưa gọi là “học thuyết của đế
vương”.
Trong quá trình xây dựng học thuyết của mình, Hàn Phi phê phán mạnh mẽ lý
thuyết chính trị của Nho gia. Dưới con mắt của ông, cách cai trị dựa trên nhân
đức của nhà cầm quyền (dưới các tên gọi như “nhân trị”, đức trị” hay “lễ trị”) là
trái với thực tế và nếu áp dụng quan niệm đó sẽ làm loạn đất nước. Các nhà Nho
luôn muốn thần thánh hóa bậc quân chủ, song để pháp luật có được tính phổ quát
nhất định, hay nói cách khác, để có được một nền pháp trị, Pháp gia nói chung và
Hàn Phi nói riêng đã tước bỏ ý nghĩa thần thánh mà những kẻ cai trị luôn muốn
tự khoác lên mình.
Hàn Phi quan niệm nhà vua cũng chỉ là người bình thường như bao người
khác. Cái làm cho đất nước trị hay loạn không phải là ông vua của nước đó ra
sao, mà là nền pháp trị của nước đó như thế nào. Hàn Phi quan niệm pháp luật là
công cụ hữu hiệu nhất để đem lại hòa bình, ổn định và công bằng.
Sở dĩ tư tưởng chính trị của Hàn Phi đối lập với tư tưởng Nho gia là bởi ông
có một quan niệm hết sức sâu sắc về thực tiễn. Khác với Khổng - Mạnh mượn
đời xưa để phê phán đời nay hay lấy cái quá khứ được tuyệt đối hóa để đo hiện
tại, Hàn Phi cho rằng, mọi suy nghĩ, mọi hành động, mọi lý luận phải đều được
bắt nguồn từ chính thực tiễn của đất nước: “Bậc thánh nhân không cốt trau dồi
chuyện xưa, không noi theo những nguyên tắc bất biến, khi bàn việc làm ở đời
thì dựa theo tình hình của thời mình mà đặt ra những biện pháp”. Ông hết sức coi
trọng tác dụng của pháp luật và chủ trương xây dựng một lý luận pháp trị hoàn
chỉnh, trong đó lấy “pháp” làm hạt nhân, kết hợp chặt chẽ “pháp”, “thuật” với
“thế”. Hàn Phi hiểu rất rõ và sâu sắc về pháp luật, coi “pháp luật là mệnh lệnh
ban bố rõ ràng ở nơi cửa công, hình phạt chắc chắn đối với lòng dân, thưởng cho

những kẻ cẩn thận giữ pháp luật, nhưng phạt những kẻ làm trái lệnh”. Cái gọi là
“mệnh lệnh ban bố rõ ràng nơi cửa công” khác xa so với cách cai trị bởi ý muốn
chủ quan của các cá nhân quý tộc nắm quyền đương thời.
12
Lê Quang Thanh Trang Nhóm 12
Hàn Phi chủ trương pháp trị, song cũng rất chú trọng đến “thuật” của nhà vua.
Nhà vua phải có “thuật” để dùng người. Ngoài “pháp” và “thuật”, Hàn Phi đặc
biệt coi trọng “thế”. “Thế” còn được gọi là “quyền thế”, “uy thế”, “thế trọng”, nó
chỉ một sức mạnh quyền uy tuyệt đối, cũng chính là quyền thống trị tối cao của
ông vua, bao gồm quyền sử dụng người, quyền thưởng phạt… Để yên ổn trị
nước, bậc quân chủ tất phải nắm giữ quyền thế. Nếu chỉ xét về bản thân vị vua,
thì “thế” là cái cốt lõi nhất, quan trọng nhất, còn “pháp” và “thuật” chỉ là công
cụ.
5. KẾT LUẬN
Triết học Nho gia và triết học Pháp gia là hai đại diện cho hai tư tưởng
mâu thuẫn trong lịch sử triết học cổ đại của Trung Hoa. Mỗi trường phái đều có
lí luận riêng minh chứng cho tư tưởng chủ đạo của mình. Những tư tưởng đó là
phù hợp với tình hình chính trị xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ.
Triết học Nho gia đã để lại cho đời những tư tưởng triết học về luân lí, đạo
đức chính trị - xã hội rất sâu sắc và vô cùng quí giá. Những tư tưởng về “nhân”,
“lễ”, “tín”, “nghĩa”…có í nghĩa lớn cho việc giáo dục thế hệ trẻ hiện nay.
Triết học pháp gia với tư tưởng nổi bật là “pháp trị” có cái nhìn khác biệt
và tiến bộ so với đương thời. Tư tưởng này đề cao quyền tự chủ về vận mệnh của
con người. Ca ngợi pháp luật là hình thức quản lí đất nước tốt nhất. “Pháp trị”
của pháp gia kết hợp với “nhân trị” của nho gia là cách tiếp cận mới cho việc
phát triển và ổn định xã hội sau này.
Tuy nhiên cả Nho gia và Pháp gia đều có những hạn chế nhất định. Ở Nho
gia đó là lối sống gia trưởng trong gia đình, tư tưởng trọng nam khinh nữ. Đặc
biệt đạo tam tòng đã trói buộc người phụ nữ, họ không có quyền tự chủ quyết
định cuộc đời và tương lai của mình. Hơn nữa, cai trị đất nước chỉ bằng “nhân

trị” sẽ không đủ mức răn đe cần thiết với sự phát triển và biến động không ngừng
của xã hội.
Ở Pháp gia, tư tưởng pháp trị tồn tại nhiều điểm quá cực đoan:
13
Lê Quang Thanh Trang Nhóm 12
 Đồng nhất việc cai trị dựa trên pháp luật với việc cai trị dựa vào các hình
phạt nghiêm khắc.
 Quan niệm về pháp luật của Pháp gia nói chung và Hàn Phi nói riêng quá
máy móc và cứng nhắc, hoàn toàn không có tính đàn hồi trong việc sử dụng pháp
luật.
 Coi các điều khoản pháp luật chính thức là hình thức duy nhất phù hợp với
pháp luật, hoàn toàn bỏ qua nhân tố luật tập quán.
 Giải thích mục tiêu pháp luật quá chú trọng đến phương diện vật chất;
thực ra, luật pháp cần phải giúp phát triển một cách bình đẳng các lợi ích khác
nhau.
 Ở họ, có lòng nhiệt huyết cải cách mù quáng, song lại quá thiếu ý thức
lịch sử, dường như là muốn sáng tạo lại lịch sử.
Tóm lại: So với các học thuyết khác, Nho gia có nội dung phong phú và
mang tính hệ thống hơn cả; hơn thế nữa, nó còn là hệ tư tưởng chính thống của
giai cấp thống trị Trung Hoa suốt hơn hai ngàn năm của xã hội phong kiến.
Thực tế sau đó cho thấy, tư tưởng Nho gia đã nhấn chìm chế độ pháp luật,
mà chậm nhất là đời Đường đã xuất hiện một chủ nghĩa Nho gia khống chế toàn
bộ hệ thống pháp luật.
Tuy nhiên để tồn tại và phát triển triết học Nho gia cũng phải không
ngừng học tập, bổ sung, thay đổi và hoàn thiện những tư tưởng tiến bộ của các
trường phái khác, trong đó có cả tư tưởng của Pháp gia.
14
Lê Quang Thanh Trang Nhóm 12
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Triết học – Phần 1 – Đại cương về lịch sử triết học của TS.Bùi Văn Mưa (chủ

biên) – Khoa lí luận chính trị - Tiểu ban triết học trường đại học kinh tế thành
phố Hồ Chí Minh.
Các trang web:
Timtailieu.vn/tai-lieu/nhung-tu-tuong-triet-hoc-nho-gia
Wikipedia.org/wiki/khong_tu
15
Lê Quang Thanh Trang Nhóm 12
MỤC LỤC
1. GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI………………………………………………… 1
2. TRIẾT HỌC NHO GIA……………………………………………… 2
2.1. Điều kiện hoàn cảnh ra đời, sự phát triển……………………………. 2
2.2. Một số tư tưởng triết học cơ bản của Nho gia cổ đại………………… 3
2.3. Tư tưởng triết học của Khổng Tử……………………………………. 3
2.4. Nhận xét……………………………………………………………… 5
3. TRIẾT HỌC PHÁP GIA………………………………………………. 5
3.1. Điều kiện hoàn cảnh ra đời, sự phát triển……………………………. 5
3.2. Tư tưởng của triết học Pháp gia thời cổ đại………………………… 6
3.3. Tư tưởng về pháp trị của Hàn Phi……………………………………. 7
3.4. Nhận xét……………………………………………………………… 8
4. SO SÁNH TRIẾT HỌC NHO GIA VÀ TRIẾT HỌC PHÁP GIA THỜI
CỔ ĐẠI……………………………………………………………………. 8
4.1. Sự tương đồng giữa triết học Nho gia và triết học Pháp gia thời cổ đại8
4.2. Sự khác biệt giữa triết học Nho gia và triết học Pháp gia thời cổ đại… 9
5. KẾT LUẬN………………………………………………………… 13

16

×