Tải bản đầy đủ (.pdf) (50 trang)

Ảnh hưởng của chế độ cho ăn lên sự tăng trưởng bù cá thát lát còm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (836.72 KB, 50 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY ĐÔ
KHOA SINH HỌC ỨNG DỤNG
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
MÃ SỐ: D620301
ẢNH HƯỞNG CỦA CHẾ ĐỘ CHO ĂN LÊN SỰ TĂNG
TRƯỞNG BÙ CÁ THÁT LÁT CÒM (Chitala chitala)
Sinh viên thực hiện
NGUYỄN VĂN NÝ
MSSV: 1053040012
LỚP: NTTS K5
Cần Thơ, 2014
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY ĐÔ
KHOA SINH HỌC ỨNG DỤNG
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
MÃ SỐ: D620301
ẢNH HƯỞNG CỦA CHẾ ĐỘ CHO ĂN LÊN SỰ TĂNG
TRƯỞNG BÙ CỦA CÁ THÁT LÁT CÒM (Chitala chitala)
Cán bộ hướng dẫn Sinh viên thực hiện
Ths. NGUYỄN HỮU LỘC NGUYỄN VĂN NÝ
MSSV: 1053040012
LỚP: NTTS K5
Cần Thơ, 2014
i
XÁC NHẬN CỦA HỘI ĐỒNG BẢO VỆ
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Đề tài: Nghiên cứu ảnh hưởng của chế độ cho ăn lên sự tăng trưởng bù cá Thát
Lát Còm (Chitala chitala).
Sinh viên thực hiện: NGUYỄN VĂN NÝ
Lớp: Nuôi trồng thủy sản 5


Đề tài đã được hoàn thành theo yêu cầu của cán bộ hướng dẫn và hội đồng
bảo vệ khóa luận tốt nghiệp Đại học, khoa Sinh Học Ứng Dụng – Trường Đại
học Tây Đô.
Cần Thơ, ngày….tháng 06 năm 2014
Cán bộ hướng dẫn Sinh viên thực hiện
(Chữ ký) (Chữ ký)
Ths. NGUYỄN HỮU LỘC NGUYỄN VĂN NÝ
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG
ii
LỜI CẢM TẠ
Trước hết em xin chân thành cám ơn Ban Giám hiệu, Ban Chủ nhiệm khoa Sinh
Học Ứng Dụng - Trường Đại học Tây Đô đã tạo điều kiện để em học tập, nâng cao
trình độ trong suốt thời gian theo học tại trường.
Xin chân thành cảm ơn các thầy cô khoa Sinh Học Ứng Dụng - Trường Đại học
Tây Đô đã tận tình dạy và truyền đạt cho em những kiến thức quý báu trong thời
gian học tập tại trường.
Em xin trân trọng và biết ơn đối với thầy Nguyễn Hữu Lộc đã tận tình chỉ dạy,
động viên và cho em những lời khuyên quý báu trong học tập cũng như khi thực
hiện và hoàn thành khóa luận.
Tôi xin chân thành cám ơn các bạn lớp Đại học Nuôi Trồng Thủy Sản 5 đã giúp
đỡ và cùng tôi vượt qua chặn đường dài học tập cũng như thực hiện khóa luận tốt
nghiệp.
Xin chân thành cám ơn mọi người đã giúp đỡ và chia sẽ với tôi để có được thành
công như ngày hôm nay.
iii
TÓM TẮT
Một trong những phương pháp tiềm năng để giảm chi phí trong nuôi trồng thủy
sản chính là dựa vào ưu điểm của hiện tượng tăng trưởng bù.
Tăng trưởng bù trên cá là giai đoạn tăng trưởng rất nhanh, xuất hiện sau khi cá
được tái cho ăn sau một giai đoạn bị bỏ đói. Vì vậy, đề tài nghiên cứu “ Ảnh

hưởng của chế độ cho ăn lên tăng trưởng bù cá Thát Lát Còm (Chitala
chitala)” được thực hiện để so sánh sự khác nhau về tăng trưởng và tỷ lệ sống của
cá Thát Lát Còm, nhằm xác định được mức tăng trưởng bù phù hợp với thời gian
bỏ đói và chế độ cho ăn khác nhau.
Cá Thát Lát Còm (Chitala chitala) sau 2 tháng tuổi cá có khối lượng và chiều dài
trung bình đầu là (2,14g/con và 6,59cm/con). Thí nghiệm được bố trí ngẫu nhiên
trong 12 thùng nhựa (60 lít) với thời gian 45 ngày. Nghiệm thức đối chứng (ĐC)
cá được cho ăn thõa mãn hằng ngày trong suốt quá trình thí nghiệm, các nghiệm
thức còn lại cho ăn thỏa mãn 1 ngày và bỏ đói 1 ngày (NT1), cho ăn thỏa mãn 2
ngày và bỏ đói 2 ngày (NT2), cho ăn thỏa mãn 3 ngày và bỏ đói 3 ngày (NT3).
Những thay đổi về khối lượng, chiều dài, tốc độ tăng trưởng tuyệt đối trên ngày, tỷ
lệ sống đều được ghi nhận. Sau khi kết thúc thí nghiệm, cá ở NT1 có trọng lượng
(0,71g/con) cao hơn cá ở (ĐC – 0,56g/con), cá có biểu hiện tăng trưởng bù vượt.
Ở (NT2 – 0,32g/con) cá đã dần bắt kịp trọng lượng cá ở nghiệm thức (ĐC), cá có
biểu hiện tăng trưởng bù hoàn toàn. Cá ở (NT3 – 0,02g/con) không theo kịp trọng
lượng cá ở nghiệm thức (ĐC), có biểu hiện tăng trưởng bù một phần. Cá ở nghiệm
thức (NT1) có khối lượng và chiều dài cao nhất, cá ở nghiệm thức (NT3) có khối
lượng và chiều dài thấp nhất. Như vây, kết thúc thí nghiệm nhận thấy cá có hiện
tượng tăng trưởng bù trở lại sau thời gian bị bỏ đói và cho ăn lại.
iv
MỤC LỤC
LỜI CẢM TẠ ii
TÓM TẮT iii
MỤC LỤC iv
DANH SÁCH BẢNG vii
DANH SÁCH HÌNH viii
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ix
CHƯƠNG 1 1
ĐẶT VẤN ĐỀ 1
1.1 Giới thiệu 1

1.2 Mục tiêu của đề tài 2
1.3 Nội dung thực hiện 2
CHƯƠNG 2 3
LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU 3
2.1 Đặc điểm sinh học 3
2.1.1 Phân loại 3
2.1.2 Đặc điểm hình thái 4
2.1.3 Phân bố và môi trường sống 4
2.1.4 Đặc điểm dinh dưỡng 5
2.1.5 Đặc điểm sinh trưởng 6
2.1.6 Đặc điểm sinh sản 6
2.2 Một số kết quả nghiên cứu về chế độ ăn khi ương cá Thát Lát Còm 7
2.3 Một số nghiên cứu tăng trưởng bù, phương pháp cho ăn và tăng trưởng của
cá 9
CHƯƠNG 3 12
v
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 12
3.1 Vật liệu nghiên cứu 12
3.1.1 Thời gian và địa điểm 12
3.1.2 Đối tượng nghiên cứu 12
3.1.3 Nguồn cá 12
3.1.4 Dụng cụ và thiết bị 12
3.2 Phương pháp nghiên cứu 12
3.2.1 Bố trí thí nghiệm 12
3.2.2 Chăm sóc và quản lý 13
3.2.3 Các chỉ tiêu theo dõi 14
3.3 Theo dõi các yếu tố môi trường 14
3.4 Phương pháp xử lý số liệu 15
CHƯƠNG 4 16
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 16

4.1 Các yếu tố môi trường 16
4.1.1 Nhiệt độ 16
4.1.2 pH 16
4.2 Ảnh hưởng của chế độ ăn lên sự tăng trưởng bù và tỷ lệ sống của cá thát lát
còm với thời gian bỏ đói khác nhau 17
4.2.1 Tăng trưởng về chiều dài 17
4.2.2 Tăng trưởng về khối lượng 18
4.2.3 Tỷ lệ sống 20
CHƯƠNG 5 22
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 22
vi
5.1 Kết luận 22
5.2 Đề xuất 22
TÀI LIỆU THAM KHẢO 23
PHỤ LỤC A A
PHỤ LUC B E
PHỤ LỤC C H
vii
DANH SÁCH BẢNG
Bảng 4.1 Một số yếu tố môi trường trong hệ thống thí nghiệm 16
Bảng 4.2 Tăng trưởng về chiều dài của cá thát lát còm 17
Bảng 4.3 Tăng trưởng về khối lượng của cá thát lát còm 18
Bảng 4.4 Tỷ lệ sống của cá thát lát còm ở các nghiệm thức 20
viii
DANH SÁCH HÌNH
Hình 2.1: Hình dạng ngoài cá thát lát còm 3
Hình 3.1 Hệ thống bể thí nghiệm 13
Hình 3.2 Thức ăn dùng trong thí nghiệm 14
Hình 3.2 Dụng cụ đo pH và nhiệt độ 15
ix

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt Giải thích từ
ĐBSCL Đồng Bằng Sông Cửu Long
ctv Cộng tác viên
NT1 Nghiệm thức 1
NT2 Nghiệm thức 2
NT3 Nghiệm thức 3
ĐC Đối chứng
T1 Thời gian đầu
T2 Thời gian cuối
W1 Khối lượng đầu
W2 Khối lượng cuối
1
CHƯƠNG 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Giới thiệu
Việt Nam là một quốc gia nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa với nhiều
sông ngòi, sinh cảnh đa dạng. Đây thực sự là những điều kiện thuận lợi cho sự
phát triển của thủy sản Việt Nam nói chung và Đồng Bằng Sông Cửu Long nói
riêng.
ĐBSCL có tiềm năng to lớn về nuôi trồng thủy sản. Trong khoảng 236 loài cá
nước ngọt được tìm thấy thì có hơn 50 loài được xem là có giá trị kinh tế cao.
Trong đó có cá thát lát còm, là đối tượng có tiềm năng to lớn trong quá trình phát
triển nuôi trồng thủy sản ở khu vực này (Bộ Thủy Sản, 1996). Trong họ cá thát lát,
ở Việt Nam có hai loài là cá thát lát thường (Notopterus notopterus) và cá thát lát
còm (Chitala chitala). Cá thát lát còm có kích thước lớn, tăng trưởng nhanh, thịt
ngon, có khả năng thích ứng rộng với điều kiện môi trường thiếu oxy, nuôi mật độ
cao và sử dụng được nhiều loại thức ăn. Vì vậy, cá thát lát còm đang là một trong
những đối tượng nuôi phổ biến ở ĐBSCL.
Sự thành công trong nuôi trồng thủy sản phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, nhưng

một trong những yếu tố quan trọng nhất là quản lý hiệu quả các chi phí trong quá
trình sản xuất, đặc biệt là chi phí thức ăn. Việc quản lý cho ăn không hiệu quả như
cho cá ăn dư thừa không những làm lãng phí thức ăn, nâng cao chi phí sản xuất mà
còn ô nhiễm môi trường nước trong ao nuôi, trong khi cho cá ăn không đủ sẽ làm
cho cá chậm lớn và tỉ lệ chết cao chính là những nguyên nhân chính dẫn đến thất
bại trong nuôi trồng thủy sản. Một trong những phương pháp tiềm năng để giảm
chi phí trong nuôi trồng thủy sản chính là dựa vào ưu điểm của hiện tượng tăng
trưởng bù.
Vì vậy, đề tài nghiên cứu “ Ảnh hưởng của chế độ cho ăn lên tăng trưởng bù cá
Thát Lát Còm (Chitala chitala)” được thực hiện.
2
1.2 Mục tiêu của đề tài
Xác định được mức tăng trưởng bù phù hợp với thời gian bỏ đói và chế độ cho ăn
khác nhau của cá thát lát còm.
1.3 Nội dung thực hiện
So sánh sự khác nhau về tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá thát lát còm ở chế độ cho
ăn và thời gian bỏ đói khác nhau.
3
CHƯƠNG 2
LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
2.1 Đặc điểm sinh học
2.1.1 Phân loại
Dựa vào tài liệu của Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương (1993), Nguyễn
Văn Hảo (2005), Servo et al., (2006) cá thát lát còm có hệ thống phân loại như sau:
Ngành: Chordata
Bộ: Osteoglossiformes
Họ: Notopteridae
Giống: Chitala
Loài: Chitala chitala
Tên tiếng việt: Cá Thát Lát Còm (cá Còm), cá Nàng Hai.

Tên tiếng anh: Clawn Knifefish
Hình 2.1: Hình dạng ngoài cá thát lát còm
(Nguồn: )
2.1.2 Đặc điểm hình thái
Theo Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương (1993) cá thát lát còm có xương
hàm kéo dài qua khỏi mắt, vẩy ở đầu có cùng kích thước với thân. Phía trên gốc vi
4
hậu môn thường có từ 5 - 10 chấm đen, xung quanh có viền trắng. Thân dài, dẹp
bên, lưng gù độ cong của lưng tăng dần theo kích thước của cá. Lườn bụng có hai
hàng gai chạy dọc theo lườn bụng. Vẩy nhỏ phủ khắp thân và đầu, vẩy dính rất
chắc, khó rụng. Đường bên bắt đầu từ mép trên của lỗ mang và chấm dứt ở điểm
giữa vi hậu môn.
Cá có đầu nhỏ, dẹp bên. Miệng trước, rạch miệng xiên kéo dài qua khỏi mắt,
xương hàm trên phát triển. Răng bén nhọn mọc ở hàm dưới, có một đôi râu mũi
nhỏ ngắn, mắt nằm lệch về phía lưng của đầu, gần chóp mõm hơn gần điểm cuối
của xương nấp mang. Phần trán gần hai mắt cong và lồi tương đương đường kính
mắt. Lỗ miệng rộng, màng da sau xương nấp mang rất phát triển (Trương Thủ
Khoa và Trần Thị Thu Hương, 1993).
Khi cá còn nhỏ, thân cá không có đốm mà thay vào đó là những đường sọc vân
màu đen ngang thân, có từ 4 - 6 sọc đen, khi cá lớn các sọc đen mờ dần, mất hẳn
và thay vào đó là các đốm đen từ từ xuất hiện nhưng không hẳn mỗi sọc ứng với
một đốm (Dương Nhựt Long, 2003).
2.1.3 Phân bố và môi trường sống
Cá thát lát còm phân bố chủ yếu ở khu vực Đông Nam Á, lưu vực sông Mekong
(Lào, Campuchia, Thái Lan, Việt Nam) và các nước như Srilanka, Pakistan,
Bangladesh, Indonesia, Ấn Độ,…Ở Việt Nam, cá thát lát còm phân bố chủ yếu ở
ĐBSCL và một số tỉnh vùng Tây Nguyên. Mùa nước lên cá thường vào đồng
ruộng ngập nước để sống, mùa khô cá sống ở các kênh rạch lớn, sông chính và các
vực nước sâu (Phạm Phú Hùng, 2007).
Theo Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương (1993), cá thát lát còm sống ở

kênh, rạch, đồng ruộng,…Có thể chịu đựng được môi trường thiếu oxy nhờ có cơ
quan hô hấp phụ thở bằng khí trời. Cá ăn động vật tươi sống chủ yếu là côn trùng,
giáp xác và các loại cá sống nổi.
5
2.1.4 Đặc điểm dinh dưỡng
Hệ tiêu hóa cá thát lát còm gồm miệng, thực quản, dạ dày, ruột. Miệng trước rộng,
rạch miệng xiên kéo dài ra khỏi mắt, xương hàm trên phát triển. Răng nhiều nhọn
mọc trên hàm dưới trên phần giữa xương trước hàm, trên xương khẩu cái, lá mía
và lưỡi. Ngoài ra còn có đám răng nhỏ mịn trên xương bướm phụ vì vậy chúng có
thể bắt giữ cắn xé con mồi. Thực quản ngắn, rộng và có vách hơi dày. Dạ dày hình
chữ J có vách hơi dày. Ranh giới giữa ruột non và ruột già không phân biệt rõ ràng.
Do cá có tỷ lệ Li/Lo = 0,3 cho nên đây là loài ăn thiên về động vật (Dương Nhựt
Long, 2003).
Theo Nguyễn Chung (2006), khi còn nhỏ cá ăn các loài thủy sinh cở nhỏ hay
phiêu sinh động vật như Moina, Daphnia, trùng chỉ, tôm tép con; khi cá lớn cá ăn
tôm cá con và các thủy động vật khác như trùng đất, ấu trùng của côn trùng và các
loài giáp xác. Chúng cũng ăn phiêu sinh thực vật và thực vật có trong nước nhưng
chỉ chiếm 20% - 30% trong tổng lượng thức ăn của cá. Khi đói chúng hung dữ tấn
công săn bắt những con cá khác làm mồi ăn. Tuy vậy, tính ăn của cá không ổn
định, cá có thể bỏ ăn cho tới khi kiệt sức và nhiễm bệnh chết nếu có dấu hiệu sốc
môi trường, thay đổi mồi ăn đột ngột hay bắt cá phải ngừng ăn lâu khi chuẩn bị
vận chuyển (Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương, 1993). Do đó, khi nuôi cá
thịt phải tập cho cá ăn quen dần với thức ăn chế biến từ các phế liệu nông nghiệp,
thực phẩm hay thức ăn công nghiệp. Cá thường bắt mồi nhiều vào buổi chiều tối.
Cá bơi chúc đầu xuống để tìm thức ăn phiêu sinh vật, trùng chỉ, tép, ruốc ở dưới
ao hồ, sông ngòi. Cá 3 – 4 năm tuổi có thể trở nên hung dữ, săn bắt những con cá
khác nơi chúng sinh sống.
Theo Trần Thị Thanh Hiền (2004), thức ăn là cơ sở để cung cấp chất dinh dưỡng,
là nguồn vật chất cho sự sinh trưởng, năng lượng cho sự trao đổi chất, những cá
đói thiếu ăn, thức ăn không thích hợp hay cá không sử dụng được tốt sẽ làm cho cá

chậm tăng trưởng và có thể dẫn đến chết.
6
2.1.5 Đặc điểm sinh trưởng
Trong tự nhiên, ở các lưu vực sông hay các ao hồ lâu năm có thể đánh bắt được
những con cá thát lát còm nặng 3 – 5kg. Cá thát lát còm có thể sống 8 – 10 năm,
đạt tới chiều dài 80cm, nặng 8 – 10kg (Nguyễn Chung, 2006).
So với cá cùng họ thì cá thát lát còm có tốc độ sinh trưởng nhanh hơn cá thát lát
thường (sau 12 tháng nuôi cá thát lát thường có thể đạt 100 g/con (Dương Nhựt
Long, 2004). Thời gian từ lúc trứng thụ tinh, ấp nở là 7 ngày, cá bột mới nở đến cá
con phải mất từ 35 – 40 ngày mới đạt 3 – 4cm, cá giống lớn chậm phải kéo dài
thêm 30 – 40 ngày mới đạt chiều dài 12 – 15cm, về sau cá sẽ lớn nhanh, cá càng
lớn thì thịt càng dai và thơm. Cá đạt chiều dài 15cm ở 3 tháng tuổi, từ giai đọan
này cá tăng trọng nhanh, mức tiêu thụ thức ăn giảm, mỗi năm có thể tăng trọng 1 -
1,2 kg/con.
Đặc tính của cá thát lát còm là sống thành quần đàn, khi cá lớn thì đặc tính này
vẫn còn nhưng cá tự phá bầy săn mồi riêng lẻ. Trong ao nuôi mật độ cao có thể
thấy được sự phân đàn rõ sau 2 tháng nuôi. Những con cá cạnh tranh thức ăn kém
sẽ không lớn được, cơ thể gầy yếu và chết. Cá hoạt động mạnh về ban đêm do đó
cần chú ý đặc điểm này trong quá trình nuôi để chăm sóc cá tốt hơn.
Điểm nổi bật của cá thát lát còm là khi nuôi thương phẩm cá nuôi càng lâu thì
càng hiệu quả kinh tế, tiêu tốn thức ăn giảm (Nguyễn Chung, 2006). Trước lúc cá
đạt trạng thái thành thục sinh dục lần đầu cá chủ yếu tăng nhanh về kích thước, sau
khi đạt trạng thái thành thục sinh dục, tốc độ tăng trưởng về chiều dài giảm
nhường bước cho sự tăng trưởng về khối lượng (Phạm Phú Hùng, 2007).
2.1.6 Đặc điểm sinh sản
Cá thát lát còm một năm tuổi nặng 1 – 1,2kg. Cá thành thục sinh sản là khoảng
2kg. Cá trưởng thành nhìn bề ngoài khó phân biệt đực cái.
Trong thiên nhiên, mùa sinh sản cá thát lát còm là suốt mùa mưa từ tháng 5 – 11.
Cá cái và cá đực tự bắt cặp giao phối, cá cái tiết ra trứng, cá đực bắn tinh trùng để
thụ tinh, trứng có kích thước 2 - 3mm. Trứng thụ tinh và hút trương nước bám vào

7
các hốc đá và các giá thể thủy sinh vật. Cá đực bảo vệ trong suốt thời gian ấp
trứng cho đến khi cá nở thành cá bột và lúc này cá đực rất hung dữ và có thể tấn
công những con cá khác xâm nhập đến khu vực cá đang bảo vệ (Nguyễn Chung,
2006).
Theo Trần Hạnh Dung (2006) có thể sinh sản nhân tạo cá thát lát còm với các lọai
kích thích tố là HCG và LHRH-a. Với HCG ở liều lượng 4000 UI/kg cho kết quả
cao nhất (66,6 – 100%), với LHRHa ở liều lượng 100 mg/kg + 5 mg/kg DOM gây
ra rụng trứng trên cá thát lát còm nhưng cho tỷ lệ thụ tinh thấp (33,3%). Theo
Nguyễn Chung (2006), mỗi con cá cái đẻ từ 2000 – 7000 trứng tùy trọng lượng cá.
Ở nhiệt độ 28 – 30
0
C, thời gian ấp trứng là 7 ngày trứng sẽ nở.
Theo Dương Nhựt Long (2003), số lượng trong một lần đẻ khoảng 100 – 150
trứng và đẻ thành nhiều đợt, mỗi đợt khoảng 10 – 15 trứng. Tùy vào nhiệt độ mà
thời gian nở sẽ khác nhau ở 24
0
C trứng sẽ nở ở 5 – 6 ngày.
2.2 Một số kết quả nghiên cứu về chế độ ăn khi ương cá thát lát còm
Theo Dương Nhựt Long (2003), mật độ ương tốt nhất là 150 - 200 cá bột/m
3
.
Trong quá trình ương sử dụng lòng đỏ trứng gà đã luộc chín kết hợp bột cá mịn và
sửa đậu nành để cung cấp cho cá ương với khẩu phần dao động là 10 – 30%/trọng
lượng thân/ngày.
Theo Nguyễn Thành Trung và Trần Ngọc Nguyên (2000), cá bột sau khi nở 3 - 4
ngày, noãn hoàng bắt đầu teo nhỏ lại, có thể vận chuyển cá bột đem đi ương, mật
độ ương trên bể ximăng là 200 con/m
2
. Khi ương cá 3 ngày đầu (ngày thứ 5 đến

ngày thứ 7 sau khi nở) cho ăn bằng lòng đỏ trứng hoặc thức ăn chế biến bóp
nhuyễn, khi cá được 8 ngày tuổi cho ăn bằng thức ăn chế biến vò thành viên (đối
với nghiệm thức bố trí thức ăn chế biến), và trùn chỉ (đối với nghiệm thức cho ăn
thức ăn tươi sống), và bón phân (đối với nghiệm thức thức ăn tự nhiên). Kết quả
sau thí nghiệm: thức ăn tươi sống cho tỷ lệ sống cao nhất 92%, kế đến là nghiệm
thức thức ăn chế biến, nghiệm thức thức ăn tự nhiên cá có kích thước nhỏ nhất và
tỷ sống thấp nhất. Theo tác giả có thể do lượng thức ăn tự nhiên trong thí nghiệm
không đủ cho nhu cầu thức ăn của cá. Cá bột khi bắt đầu ăn thức ăn ngoài có thể
8
ăn được thức ăn tươi sống như: trứng nước, trùn chỉ, thức ăn tự nhiên (phiêu sinh
vật), thức ăn chế biến có hàm lượng protein 30%, hay ăn cám mịn, bột cá, lòng đỏ
trứng.
Theo Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm (2009), đa số các loài cá đều ăn
động vật phù du khi bắt đầu ăn ngoài. Tuy nhiên, sau mỗi lần chuyển tính ăn thì
thức ăn của cá có sự thay đổi ít nhiều phù hợp với đặc điểm của loài và giai đoạn
phát triển của cá.
Theo Lê Ngọc Diện và ctv (2006), sau khi ương cá giống đến 60 ngày tuổi, cá đạt
chiều dài từ 3 – 5cm đến 5 – 7cm, khối lượng từ 0,7 – 1,6 g/con tùy nghiệm thức.
Các nghiệm thức được bố trí với 3 mật độ khác nhau: 100 con/m
2
, 150 con/m
2

200 con/m
2
. Kết thức thí nghiệm cá có tỷ lệ sống cao nhất ở nghiệm thức mật độ
ương 100 con/m
2
(80,9 – 93.3%) và thấp nhất ở mật độ 200 con/m
2

(38,1 –
43,1%).Vậy mất độ ảnh hưởng đến tỷ lệ sống, nếu mật độ cao thì tỷ lệ sống thấp
và ngược lại.
Theo Phạm Văn Uẩn (2012), thí nghiệm ương cá thát lát còm được bố trí trong 9
thùng xốp với thể tích của mỗi thùng là 20L và tiến hành ương với 3 nghiệm thức:
nghiệm thức 1 với mật độ 300 con/m
2
, nghiệm thức 2 với mật độ 350 con/m
2

nghiệm thức 3 mật độ là 400 con/m
2
. Thức ăn sử dụng trong quá trình ương là
trứng nước kết hợp với thức ăn công nghiệp. Kết quả thí nghiệm cho thấy, tỷ lệ
sống của cá cao nhất ở nghiệm thức 1 đạt 43,0% và thấp nhất ở nghiệm thức 3 với
tỷ lệ sống của cá chỉ đạt 22,8%.
Trong thời gian ương trên bể, ban ngày cá có tập tính chui rúc vào các góc tối
trong bể như các ống gạch, dưới đáy đĩa đựng thức ăn, ban đêm cá mới bơi lội linh
hoạt khắp bể. Sau 30 ngày cá đạt chiều dài 3 – 4 cm/con, tỷ lệ sống đạt từ 40 -
50% nếu sử dụng thức ăn tự chế có hàm lượng đạm 30%, đạt từ 70 - 80% nếu sử
dụng trùn chỉ làm thức ăn cho cá.
Theo báo cáo tổng hợp về Hội thảo Quốc Gia mở đầu dự án “Nuôi trồng Thủy sản
các loài cá bản địa sông Mê Kông” tháng 10/2000, cá thát lát còm (Chitala chitala)
là loài cùng giống với cá thát lát đã sinh sản nhân tạo thàng công từ năm 1999.
9
Theo Lê Quang Nha (1999), cá bột 5 ngày tuổi dù còn noãn hoàn nhưng cá đã bắt
mồi bên ngoài, từ ngày thứ 10 cá ăn được trùn chỉ. Theo Nguyễn Bá Cường và ctv,
(2000), cá thát lát còm sau khi nở 72 giờ có thể chuyển đi ương, mật độ ương là
400con/m
2

, thức ăn là phiêu sinh vật từ ngày thứ nhất, sau khi hết noãn hoàn đến
ngày thứ 7, từ ngày thứ 8 bắt đầu cho ăn trùn chỉ đến ngày 30, sau 30 ngày ương
cá đạt chiều dài bình quân từ 39 -42mm, tỷ lệ sống đạt từ 73 - 84%.
Theo báo cáo của Chi cục Bảo vệ và Phát triển Nguồn lợi Thủy sản Cần Thơ
(2004), cá thát lát còm sau khi nuôi 8 tháng từ cá bột có thể đạt chiều dài 20 -
22cm, trọng lượng 60 – 100 gam/con.
Theo Nguyễn Văn Dẫn (2000 - 2003), cá thát lát còm nuôi từ cá bột đến 12 tháng
tuổi đạt trọng lượng từ 80 – 120 gam/con, tương đương chiều dài cơ thể 20 - 25cm.
2.3 Một số nghiên cứu tăng trưởng bù, phương pháp cho ăn và tăng trưởng
của cá
Tăng trưởng bù của cá là hiện tượng cá tăng trưởng rất nhanh, xuất hiện sau khi cá
được tái cho ăn sau một thời giai đoạn bị bỏ đói. Kèm theo sự tăng trưởng bù là
gia tăng sự thèm ăn bất thường trên cá. Hiện tượng này được ghi nhận trên nhiều
loài cá như: cá hồi, cá chép, cá tuyết, Tăng trưởng bù của cá liên quan đến nhiều
yếu tố như chất lượng nước, sự phân đàn, khẩu phần protein và năng lượng trong
suốt thời gian cho ăn bù (N.F Abdel-Hakim và ctv, 2009). Những loài cá khác
nhau có những biểu hiện tăng trưởng bù khác nhau. Phụ thuộc vào khả năng phục
hồi của cá, sự tăng trưởng bù có thể chia làm 3 loại:
Bù vượt (Over – compensation), cá sau khi bỏ đói và cho ăn lại, có tốc độ tăng
trưởng và trọng lượng cao hơn so với những cá được cho ăn liên tục (Hayward et
al., 1997).
Bù hoàn toàn (Complete – compensation), cá sau khi bỏ đói và cho ăn bù, cá
phục hồi tăng trưởng và đạt cùng trọng lượng so với cá được cho ăn liên tục
(Jobing et al., 1999; Kim et al., 1995; Nicieza et al., 1997).
Bù một phần (Partial – compensation), sau khi bị bỏ đói và cho ăn bù, cá có
những biểu hiện tăng trưởng nhanh hơn song lại không đạt kích cỡ bằng với những
10
cá được cho ăn liên tục (Weatherley et al., 1987; Paul et al., 1995), (trích bởi
Nguyễn Thanh Tâm và Nguyễn Thanh Thảo, 2009).
Trong đó, tăng trưởng bù hoàn toàn đã được ghi nhận trong một vài nghiên cứu

gần đây trên một số loài cá như cá hồi, gibel carp, cá chẽm (Lates calcarifer) (Tian
et al., 2003).
Đối với tăng trưởng bù một phần lại được ghi nhận trên các loài như cá rô phi
Mozambique Oreochromic mosambicus nuôi ở nước ngọt (Christensesn et al.,
1998), cá rô phi lai giữa O. mosambicus X O. nilotocus nuôi nước mặn (Wang et
al., 2005).
Tuy nhiên, thời gian ngừng ăn mang lại hiệu quả tăng trưởng bù thì khác nhau
giữa các loài cá. Như loài cá Atlantic cod Gadusmorhua thì thời gian ngừng ăn ít
hơn 3 tuần không đủ để tạo bất kỳ hiện tượng tăng trưởng bù nào rõ rệt (Jobing et
al., 1999). Theo Tian và Qin (2003), thì những dấu hiệu tăng trưởng bù rõ rệt trên
cá chẽm, chỉ sau một tuần ngừng cho ăn và sau khi được cho ăn lại cá bắt kịp
trọng lượng cơ thể của những cá không bị bỏ đói nhưng chỉ tăng trưởng bù một
phần.
Theo Nguyễn Thanh Tâm và Nguyễn Thanh Thảo (2009), thì mức độ tăng trưởng
bù của cá rô phi vằn (Oreochromic niloticus, Linnaeus, 1785) phụ thuộc vào
khoảng thời gian bị bỏ đói. Cá tăng trưởng bù vượt với thời gian bỏ đói và cho ăn
cách nhau một ngày, tăng trưởng bù hoàn toàn với thời gian bỏ đói trung bình (với
2, 3, 4 ngày) và tăng trưởng bù một phần với thời gian bỏ đói lâu nhất (5 ngày).
Theo Wootton (2003), (trích dẫn bởi Lê Thị Tiểu Mi, 2009), khi cho cá ăn gián
đoạn thì tốc độ tăng trưởng của cá sẽ có 4 khả năng xãy ra. Một là, tăng trưởng của
cá có thể phục hồi lại đầy đủ như tăng trưởng bình thường. Hai là, tăng trưởng của
cá có thể tăng trưởng nhanh hơn tăng trưởng lúc đầu. Ba là, tăng trưởng của cá chỉ
phục hồi tăng trưởng một phần so với tăng trưởng ban đầu. Và cuối cùng là cá
không có khả năng phục hồi tăng trưởng khi cho ăn gián đoạn.
11
Theo Amin et al., 2005 thì trọng lượng mất đi trong khoảng thời gian gián đoạn đó
sẽ tăng cân trở lại hay có khả năng phục hồi tăng trưởng sau khi bị giới hạn nguồn
thức ăn.
Theo Kim et al.,1995, khi nghiên cứu trên cá nheo Mỹ (I. punctatus) thì khi không
cho cá ăn 0, 3, 6, 9 tuần sau đó tiếp tục cho ăn trở lại hằng ngày theo nhu cầu thì

sau 18 tuần thí nghiệm, cá ở nghiệm thức không cho ăn 3 tuần cho kết quả khối
lượng như cá ở nghiệm thức được cho ăn hằng ngày và tăng trưởng cao hơn các
nghiệm thức còn lại.
Ali et al., 2006 thí nghiệm trên cá Labeo rohita giống trong thời gian 90 ngày với
chế độ cho ăn như sau: cho ăn hằng ngày (1 lần/ngày, với 3% trọng lượng thân),
cho ăn 5 ngày và 5 ngày không cho ăn, cho ăn 10 ngày và 10 ngày không cho ăn.
Kết quả cho thấy, không có sự khác biệt về thành phần hóa học của cơ thể cá giữa
các chế độ cho ăn khác nhau. Nghiên cứu này khẳng định có sự phục hồi tăng
trưởng ở cá Labeo rohita.
12
CHƯƠNG 3
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Vật liệu nghiên cứu
3.1.1 Thời gian và địa điểm
Đề tài được thực hiện từ ngày 16/04/2014 đến 31/05/2014.
Địa điểm: Trại thực nghiệm và sản xuất giống Thủy sản khoa Sinh Học Ứng Dụng
Trường Đại Học Tây Đô – TP. Cần Thơ.
3.1.2 Đối tượng nghiên cứu
Cá Thát Lát Còm (Chitala chitala).
3.1.3 Nguồn cá
Cá được mua từ trại cá giống Thanh Sơn, quận Ô Môn, TP.Cần Thơ.
3.1.4 Dụng cụ và thiết bị
Bể ương là thùng nhựa có thể tích 60 lít (12 thùng).
Nhiệt kế để đo nhiệt độ hằng ngày.
Bộ test pH.
Hệ thống sục khí.
Cân kỹ thuật, thước kẻ để kiểm tra khối lượng và chiều dài cá.
Vợt thu cá.
3.2 Phương pháp nghiên cứu
3.2.1 Bố trí thí nghiệm

Thí nghiệm được tiến hành trong bể 60 lít với thời gian là 45 ngày. Trước khi bố
trí thí nghiệm cá được bỏ đói một ngày để làm sạch ống tiêu hóa. Tiến hành lựa
chọn 240 con cá từ 1000 cá giống mua về. Cá chọn phải đồng cỡ, không bị dị tật,
không có dấu hiệu bệnh, thí nghiệm được bố trí ngẫu nhiên vào 12 bể với 4
nghiệm thức và mỗi nghiệm thức 3 lần lập lại. Mật độ 20 con/bể và chọn cá giống
từ 2 – 3 tháng tuổi để bố trí thí nghiệm. Trọng lượng trung bình và kích thước
trung bình được xác định bằng cách lấy trung bình của 40 con đầu.
13
Hình 3.1 Hệ thống bể thí nghiệm
Nghiệm thức 1:
Bỏ đói 1 ngày và cho ăn thỏa mãn 1 ngày, cho ăn 2 lần/ngày. Lúc 7h và 18h.
Nghiệm thức 2:
Bỏ đói 2 ngày và cho ăn thỏa mãn 2 ngày, cho ăn 2 lần/ngày. Lúc 7h và 18h.
Nghiệm thức 3:
Bỏ đói 3 ngày và cho ăn thỏa mãn 3 ngày, cho ăn 2 lần/ngày, lúc 7h và 18h.
Nghiệm thức đối chứng (ĐC): cá được cho ăn mỗi ngày, 2 lần/ngày. Lúc 7h và
18h.
3.2.2 Chăm sóc và quản lý
Nguồn nước rất quan trọng trong việc nuôi và phát triển cá. Định kỳ thay nước 2
ngày/lần tùy theo chất lượng nước và giai đoạn phát triển của cá. Nước cấp vào bể
được sục khí trong 24 giờ cho bay hơi hết Chlorine và ổn định trước khi thả cá vào
nuôi. Định kỳ bổ sung vitamin C và khoáng chất cho cá nhằm tăng cường sức đề
kháng, giúp cá có đề kháng tốt và khả năng hạn chế dịch bệnh.
Cho cá ăn hoàn toàn bằng thức ăn công nghiệp dạng viên loại nhỏ vừa kích cỡ
miệng cá, hàm lượng đạm từ 40%.
14
Hình 3.2 Thức ăn dùng trong thí nghiệm
3.2.3 Các chỉ tiêu theo dõi
Kiểm tra tăng trưởng về chiều dài và khối lượng.
Trước khi thả và khi kết thúc thí nghiệm toàn bộ cá trong bể được kiểm tra chiều

dài và trọng lượng bằng cách dùng cân kỹ thuật và thước kẽ để cân, đo trực tiếp.
Các biểu thức toán học theo Phạm Thành Liêm và Trần Đắc Định (2004)
DWG (g/ngày) = (3.1)
Trong đó:
DWG: Tốc độ tăng trưởng tuyệt đối (g/ngày).
W1 và W2 là khối lượng cân được tại thời điểm T1 và T2.
Tỷ lệ sống (SR)
SR (%) = (số cá thu hoạch/số cá được thả) x 100 (3.2)
3.3 Theo dõi các yếu tố môi trường
Nhiệt độ: đo bằng nhiệt kế (2 lần/ngày, vào 7h và 14h).
pH: đo bằng bộ test pH (2 lần/ngày, vào 7h và 14h).
W2

W1
T2

T1

×