Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Báo Cáo Những quan niệm về hôn nhân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (226.32 KB, 29 trang )

Website:

Email :
LỜI MỞ ĐẦU
Hôn nhân được xem là một sự kiện trọng đại trong cuộc đời một con
người. Nó đánh dấu sự gắn kết giữa hai con người khác giới cả về vật
chất, tinh thần lẫn thể xác.
Khái niệm hôn nhân lại được định nghĩa rất khác nhau. Với những
người theo phái tự nhiên và phái phân tâm học định nghĩa hôn nhân như
sau: Hôn nhân là một hiện tượng tự nhiên. Đó là sự liên kết giữa hai con
người khác giới với nhau thành một gia đình để giữ chức năng duy trì nòi
giống. Còn những người theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lại cho
rằng: Hôn nhân trước hết là một quy chế xã hội và sau đó mới là một hiện
tượng sinh học, hiện tượng tự nhiên. Đây là một sự thật đã tồn tại suốt
mấy ngàn năm qua tất cả các nước trên thế giới.
Từ sự định định nghĩa trên ta thấy rằng, sự liên kết giữa nam và nữ
để thành vợ thành chồng, thành gia đình là một nhu cầu xã hội, tiếp đến
mới là nhu cầu sinh học. Hay nói một cách khác, hôn nhân không phải do
trời cho mà nó xuất hiện và hình thành trong quá trình phát triển của loài
người, và nó cũng biến đổi theo sự văn minh của con người. Và ở dù bất
cứ xã hội nào thì hôn nhân cũng là một mối quan hệ được xã hội thừa
nhận giữa hai người khác giới.
Do sự biến đổi của hôn nhân gắn liền với sự biến đổi của văn minh
xã hội nên hôn nhân của loài người đã trải qua những hình thức khác
nhau. Buổi đầu sơ khai là chế độ quần hôn, sau đó là hôn nhân mẫu hệ -
một người phụ nữ có thể kết hôn với nhiều người đàn ông. Và tiếp đó là
hôn nhân phụ hệ, đa thê. Một người đàn ông có thể làm chồng của nhiều
người phụ nữ. Đó là hôn nhân bất bình đẳng, mua bán, cưỡng ép… Cuối
cùng ngày nay là gia đình bình quyền, tự nguyện, một vợ một chồng.
I. NHỮNG BIẾN ĐỔI CỦA HÔN NHÂN THEO TỪNG GIAI
ĐOẠN


1. Quan niệm về hôn nhân cổ truyền
Trong 54 dân tộc Việt Nam - mỗi một dân tộc đều có những quan
niệm và trực lệ hôn nhân khác nhau, trong đó người Việt là một trong
những tộc người có quan niệm và tục lệ hôn nhân vào loại đa dạng nhất.
Sự đa dạng phức tạp trong tục lệ hôn nhân truyền thống của người Việt
được quy định bởi bản sắc văn hoá tộc người, thêm vào đó là sự ảnh
hưởng của lễ giáo phong kiến và tư tưởng Nho giáo của Trung Quốc. Vì
vậy luật nó đã có quy định: việc hôn nhân là do hai bên cha mẹ và họ
hàng quyết định. Hầu hết ở các vùng nông thôn, và cả trong đô thị, việc
hôn nhân theo phong tục đều phải qua một cầu trung gian là người mối
lái. Nhà trai muốn chọn vợ cho con thì xem “chỗ nào môn đăng hộ đối,
tuổi không xung khắc nhau mới mượn người mối lái. Mối lái nói với cha
mẹ người con gái bằng lòng gả rồi, nhà trai mới đem trầu đến dạm”. Môn
đăng - hộ đối là tiêu chuẩn quan trọng nhất đối với tầng lớp trên ở xã hội
phong kiến mà cũng thường là tiêu chuẩn chung của xã hội Việt Nam.
Quan niệm “đăng đối” phải theo nguyên tắc “địa vị xã hội và điều
kiện kinh tế của nhà gái có thể thấp hơn nhà tri nhưng không có chuyện
ngược lại”. Tuổi tác bố mẹ cô dâu chú rể cũng được xem là tiêu chuẩn
quan trọng của “môn đăng - hộ đối”. Theo tập quán người Việt, sau khi
quan hệ thông gia đã được thiết lập thì thay đổi về cách xưng hộ giữa hai
gia đình và hai tộc họ. Do đó nếu cách biệt quá vì tuổi thì người ta cũng
không làm thông gia với nhau.
Ngoài hai tiêu chuẩn cơ bản trên trong quan niệm “môn đăng - hộ
đối” người ta còn chú trọng đến tình trạng sức khoẻ của gia đình, tình
trạng phương pháp, quan hệ bố mẹ như thế nào? anh em trong gia đình,
vấn đề dòng họ. Các tiêu chuẩn này được đúc kết lại trong quan niệm
“Lấy vợ xem tông, lấy chồng xem giống”. Hợp tuổi là tiêu chuẩn quan
trọng thứ hai trong việc kén rể, chọn dâu của các cụ ngày trước. Việc xem
tuổi ở đây không phải là sự chênh lệch tuổi tác giữa hai người mà quan
trọng là tuổi cầm tinh con gì ở mỗi người tính theo hệ can chi của âm lịch.

2
Ngoài ra, người ta còn so tuổi theo nguyên lý âm dương, ngũ hành,
tức là “mệnh” của hai người. Vì ai cũng cho rằng hợp tuổi nhau thì gia
đình mới hoà thuận, thậm chí việc này có ảnh hưởng đến cả đường con
cái, tính mạng của nhau.
Trên là hai tiêu chuẩn chung đối với nhà trai lẫn nhà gái. Nhưng
trên thực tế người ta chỉ tuân thủ chặt chẽ và đầy đủ với việc chọn dâu,
còn trong việc kén rể thì tiêu chuẩn trên thường được nới lỏng hơn và
cũng chỉ diễn ra ở các gia đình nhà gái tương đối thân thế.
Trong xã hội Việt Nam xưa, mối lái trở thành một nghề được mọi
người chấp nhận. Có nơi mối là người “khéo ăn khéo nói” được các gia
đình nhờ cậy, và nhiều người đã sống bằng nghề đó. Nhà gái đòi hỏi gì,
nhà trai “mặc cả” lại, đều thông qua người mối. Trước khi làm lễ cưới,
nhà gái có quyền thách cưới với nhà trai. Những thứ nhà gái thường đòi là
“trầu, rượu, chè, cau, bánh trái, gạo, lơn, đồ trang sức, y phục cô dâu và
cả tiền nữa”. Nhiều khi nhà trai còn thông qua người mối hoặc “viết thư
hỏi xem nha gái ăn những lễ vật như thế nào? Nhà gái muốn những thứ gì
thì viết thư trả lời nhà trai. Nhà trai liệu có thể lo được thì mới chọn ngày
lành tháng tốt đính ước ngày cưới với nhà gái. Nếu nhà gái lấy lễ nặng
quá thì nhà trai xin bớt đi ít nhiều. Nhà gái không nghe thì hoãn ước lại”.
Nếu không thách cưới là “cho không” con gái, là không có giá trị, bị dư
luận xã hội coi thường.
Ngoài phong tục thách cưới, còn có phong tục nộp cheo làng.
Hương ước quy định rõ hai mức cheo: Nếu gả con gái cho người trong
làng phải nộp một phần thì gả con cho người làng khác phải nộp gấp rưỡi,
gấp đôi. Trong các sách kể về phong tục, ngoài tiền ra, có làng con bắt
nhà có con gái đi lấy chồng phải nộp bằng hiện vạt như gạch để lát đường,
bát sứ, mâm đồng, trầu cau, sỏ lợn… lệ nộp cheo là sự báo cáo công khai,
chính thức của hai bên gia đình với làng xóm, và ngược lại là lễ nghi để
làng bày tỏ sự chấp thuận, công nhận cuộc hôn nhân đó. Theo Toàn Ánh

3
trong sách “Nếp cũ làng xóm Việt Nam” thì “chưa nộp cheo, làng chưa
cấp phát theo, việc cưới xin chưa hoàn thất” Ca dao xưa đã từng tổng kết.
“Có cưới mà chẳng có cheo.
Dẫu rằng có giết mười heo cũng hoài”.
Tục nộp cheo, ngoài những ý nghĩa trên phải chăng đây là tàn dư
của hôn nhân thời xa xưa của nhân loại đó là tàn dư của chế độ mẫu hệ.
2. Các tục lệ trong hôn nhân cổ truyền
Tục lệ hôn nhân truyền thống của người Việt tương đối thống nhất
về các lễ nghi cơ bản. Đa số người Việt tổ chức hôn lễ với 3 nghi lễ
chính: Một, lễ chạm ngõ (gồ nạp thái, vấn danh), hai, lễ ăn hỏi (gồm nạp
cát và thỉnh kì) , ba, lễ cưới (gồm lễ nạp tệ và thân nghinh).
2.1. Lê dạm ngõ.
Lễ dạm ngõ bỏ rào được tiến hành khi bước tìm hiểu đã được thực
hiện. Bước tìm hiều chủ yếu của nhà trai thường do mối lai, do giới thiệu,
hoặc cha mẹ chú rể thực hiện lễ dạm chỉ được tiến hành sau khi đã có sự
ưng ý của nhà trai và cô dâu tương lai rồi. Kết quả của lễ dạm hỏi chủ yếu
phụ thuộc vào ý kiến của nhà gái. Lễ dạm ngõ vừa mang ý nghĩa là sự ra
mắt chính thức giữa hai gia đình, vừa có ý nghĩa thông báo cho dân làng
biết là cô gái đã có người tìm hiểu rồi. Lễ dạm ngõ không có thời gian cố
định mà được thực hiện quanh nắm, chỉ tránh những tháng kiên và tháng
xấu. Người ta làm lễ dạm, ăn hỏi trước ba, bốn tháng là phổ biến. Trước
khi làm lễ dạm ngõ nhà trai nhờ mai mối thông báo cho nhà gái biết. Nếu
nhà gái đồng ý thì nhận lời, nếu nhà gái chưa đồng ý thì bà mối phải đi
lại đôi ba lần nữa. Sau khi được nhà gái thuận ý, nhà trai chọn ngày xúc
tiến việc dạm ngõ. Phía nhà trai gồm có ồng (bà) mối, bố mẹ chú rể, nếu
có ông nội thì ông đi thay bố mẹ. Phía nhà gái ngoài bố mẹ còn mời thêm
một số người anh em gần gũi trong họ tộc.
Trong lễ này chú rể tương lai không đi cùng, còn cô gái thì phải có
mặt ở nhà để phục vụ trà nước và cho nhà trai xem mặt, vật lễ mà nhà trai

mang theo gồm 1 chai rượu, môt ít chề, trầu cau (có thể thâm thuốc lá,
4
kẹo bánh). Đồ lễ thường đựng trong mâm đồng (sau này có thuê quả) phủ
vải điều cho một cô cháu gái chưa lập gia đình bê theo. Khi đến nhà gái,
nhà trai trrao lễ vật để nhà gái đặt lên giường thờ (ban thờ) cúng và thông
báo với tổ tiên. Nội dung trao đổi chính trong lễ dạm ngõ chủ yếu là phía
nhà trai thông báo muốn hỏi cô gái và muốn làm thông gia. Nhà trai muốn
biết ý kiến của nhà gái. Thông thường nhà gái chưa trả lời ngay mà
thường khéo léo là để hỏi ý kiến của con gái đã. Cuộc trao đổi dần dần
chuyển sang các chủ đề khác. Sau khi trao đổi với nhà gái khoảng một
tiếng, nhà trai xin phép về và mong nhận được tin sớm của nhà gái. Sau
khoảng hai, ba ngày bà mối lại sang nhà gái để biết ý kiến chính thức của
nhà gái.
2.2. lễ hỏi ( dạm hỏi).
Sau khi được sự đồng ý của nhà gái, nhà trai tiến hành lễ ăn hỏi.
Đây được coi là lễ chính thức thông báo cho dân làng biết người con gái
đã có nơi có chốn. Sau lễ này con trai, con gái được coi như dâu rể của
hai gia đình và hai gia đình, hai họ trở thành thông gia. Thời gian tổ chức
lễ ăn hỏi thuộc vào nhà trai. Lễ ăn hỏi thường phải xem ngày giờ tốt nên
nhà trai không tự ý chọn được mà phải nhờ thầy xem cho. Lễ ăn hỏi
thường tập trung vào tháng 8 âm lịch đến đầu mùa xuân năm tới. Lễ ăn
hỏi thường vào ban ngày và cũng chọn giờ tốt. Khi đã chuẩn bị được
những lễ vật cần thiết và chọn được thời gian thích hợp, gia đình nhà trai
nhờ mai mối đến thưachuyện với nhà gái. Người mai mối thảo luận với
nhà gái về các khoản lễ vật cần thiết phải mang tới nhà gái.
Đồ lễ này nhà trai phải đáp ứng đủ theo đề nghị của nhà gái, phần
trầu cau đủ biểu họ nội, ngoại, bạn hữu. Các vật lễ mang sang nhà gái
thông thường gồm có: cau, giầu, vỏ, chè, bánh cốm, bánh xuxê (phu thê),
rượu. Cau 200 quả trở lên, phải nguyên buồng, đều quả và có cuống râu
dài. Bánh cốm và bánh phu thê mỗi thứ 100 chiếc và được trang trí. Trầu

được mang ước chừng đủ dùng với số cau. Chè khô 1 kg, rượu 2 chai, mứt
sen từ 2 3 kg. Đây là các lễ vật đối với những gia đình khá giả còn
5
những gia đình nghèo thì lễ cật chủ yếu là cau, trầu không, chè, rượu với
số lượng ít. Các đồ lễ mang sang nhà gái được đựng trong các mâm đồng
mới, trên có phủ vải đỏ.
Thành phần đoàn ăn hỏi nhà trai có Bố (mẹ), bà (ông) mỗi họ hàng
nội ngoại. Nêu ông nội chú rể còn sống thì ông đi thay cho bố mẹ. Họ nội
phải có ông trưởng họ và bác của chú rể. Những người mang đồ lễ sang
nhà gái là các thanh nữ con cháu trong họ nội. Đoàn đi ăn hỏi mặc khăn
xếp, áo the dài. Trong lễ ăn hỏi bắt buộc phải có chú rể đi cùng và là lần
đầu ra mắt gia đình và họ hàng bên vợ. Nhà gái không phải chuẩn bị gì
mà chỉ cử người ra đón nhà trai. Phải cử người cùng vai vế để tiếp đón
nhà trai. Cô dâu chỉ ăn mặc gọn gàng hơn ngày thừơng. Trước lúc nhà trai
tổ chức lễ ăn hỏi, thường phải cúng giatiền và lễ ở nhà thờ họ. Thường là
cúng một mâm. Đến giờ để chọn đoàn nhà trai xuất hành. Đi đầu là các
ông bà cao tuổi trong họ hàng, tiếp theo là chàng rể và đoàn mang lễ vật.
Khi đến nhà gái người dẫn đầu (ông nội, trưởng họ) dâng lễ vật ăn hỏi cho
nhà gái. Nhà gái cử người tương đương ra nhận đồ lễ để bày lên ban thờ.
Bố cô dâu thắp hương khấn lễ thông báo với tổ tiên. Nội dung chủ yếu
diễn ra trong lễ ăn hỏi là gia đình nhà trai chính thức đặt vấn đề với nhà
gái và nhà gái chấp nhận con rể và thông gia. Nếu lễ hỏi gần với lễ cưới
thì hai bên bàn đến ngày cưới. Lễ ăn hỏi kéo dài khoảng 30 phút đến 1
giờ. Cô dâu tương lai phải đun nước và mang nước đi mời mọi người, còn
chú rể thì ngồi yên một chỗ. Sau khi được phép mới được xuống bếp cùng
cô dâu.
Trước khi đoàn nhà trai ra về có tục “lại quả cho nhà trai. Nhà gái
chia 1 phần số lễ vật cho nhà trai mang về. Đối với cau khi chia phải xé
chứ không được cắt. Phần vật lễ còn lại nhà gái dùng chi cho họ hàng.
Chia bánh, cau, chè… phải chia số chẵn. Cau phải chia số chẵn và phải

chia mỗi nơi từ 4 quả cao, 4 lá trầu trở lên. Việc chia bánh trái, cau, chè
có ý nghĩa nhà gái muốn báo tin cho họ hàng bạn bề biết là con gái mình
đã đính hôn.
6
2.3. Tục lệ trong thời gian từ lễ ăn hỏi đến lễ cưới.
Trước đây, sau lễ ăn hỏi không tổ chức lễ cưới ngay, mà ít nhất phải
từ 3 tháng, bình thường là một năm và nhiều là 3 năm. Sau lễ hỏi, theo
quan niệm xưa trai gái gần như đã thành vợ chồng chính thức, hai gia đình
trở thành thông gia, vì thế họ phải thực hiện các nghĩa vụ như khi đã
thành gia thất. Sau lễ ăn hỏi chảngể phải thường xuyên thăm hỏi gia đình
bên vợ, săn sóc khi người già đau ốm, giúp việc khi có việc. Bổn phẩn
đầu tiên của chàng rể là phải “sêu tết”, “sêu” nghĩa là mùa nào thức ấy,
chàng rể phải mang lễ vật sang biếu cha mẹ vợ chưa cưới. Vào những dịp
tết chàng rẻ cũng phải đến tết bố mẹ vợ. Trong thời gian này nếu gia đình
vợ có tang thì phải để tang như rể bình thường. Trong các dịp lễ giỗ chàng
rể cũng phải đem lễ vật cúng sang nhà gái để bày tỏ lòng thương yêu vợ
cũng như ý thức, bổn phận và chứng tỏ trình độ gia giáo của mình.
Cô dâu cũng phải sang nhà trai khi nhà trai có công việc lớn. Gia
đình nhà trai có tang, cô dâu cũng phải để tang như con dâu bình thường.
Sau lễ ăn hỏi, các cặp vị hôn phu, hôn thê cũng không được phép gặp
nhau, trừ trường hợp đặc biệt lắm đôi bên cha mẹ mới cho phép. Đối với
tục lệ hôn nhân của người Việt cổ truyền thì sau lễ ăn hỏi đại đa số sẽ
thành vợ chồng, tuy vậy, cũng có trường hợp bỏ nhau.
2.4. Lễ xin cưới.
Sau khi đã lựa chọn được ngày cưới vừa ý, nhà trai tiến hành lễ xin
cưới. Lễ này được tổ chức ở nhà gái với mục đích là thông báo việc nhà
trai đã chọn được ngày cưới vừa ý, đề nghị nhà gái cho phép tổ chức đám
cưới. Ngoài mục đích trên quan trọng hơn là thảo luận với nhà gái về số
sính lễ (thách cưới). Lễ xin cưới được tổ chức trước khi cưới ít nhất là
nửa tháng trở lên. Đoàn nhẩti đi xin cưới gồm có người mai mối và bố mẹ

chú rể. Nhà gái có bố mẹ, ông bà và họ hàng. Nội dung của lễ xin cưới
ngoài việc bàn và thống nhất ngày giờ đưađón dâu thì việc quan trọng hơn
cả là thảo luận số sính lễ mà nhà gái yêu cầu. Nghĩa là biết được nhà gái
“thách cưới” như thế nào. Các khoản thách cưới (đồ sính lễ) của nhà gái
7
gồm: cỗ bàn, vật lễ dùng trong đám cưới: (cau, trầu, vỏ, chè, các loại
bánh, thuốc lá), trang phục cho cô dâu (quần áo, chăn màn, đồ trang
sức…). So với nhà trai cỗ bàn nhà gái ít hơn.
Tục ở đây khi cưới con gái đầu lòng và con gái út, thì mới tổ chức
cỗ bàn mời làng xóm, còn cưới con gái thứ chỉ mời anh em họ hàng. Hình
thức phổ biến là nhà gái yêu cầu nhà trai một số mâm cỗ, số lượng tuỳ
thuộc họ hàng nhà gái đông hay ít. Tất cả số mâm được quy thành tiền và
nhà trai mang tiền đến để nhà gái chuẩn bị. Một hình thức khác là nhà gái
thách cưới bằng số lượng cụ thể gạo nếp, thịt lợn, bún, rượu, các loại gia
vị. Số lượng cau nhà gái yêu cầu trong lễ cưới thường là 500 quả trở lên.
Cau cưới phải đẹp, liền buồng không cắt rời… Buông cau đều quả, quả
cau phải có dâu, càng dài càng tốt. Việc đi mua cau cho đám cưới thường
phải kén chọn người và do nữ đảm nhiệm. Chè khoảng 2 kg. Các loại
bánh phải đủ để biếu mỗi gia đình tỏng làng 1 chiếc. Đồ sính lễ cô dâu
gồm quần áo, chăn màn, nón, khăn, giày dép, nhẫn, khuyên tai và dây xà
tích bằng bạc (riêng đồ trang sức chỉ người nhà khá giả mới có). Các đồ
sính lễ cô dâu thường do nhà gái sắm sửa, nhà trai phải chi tiền. Ngoài
các lễ vật thách cưới trên, nhà gái còn yêu cầu nhà trai chuẩn bị cho 3 lễ
mặn để cúng tổ tiên: Lễ mặn cúng tại nhà thờ ông cậu (1 thủ lợn, 1 mâm
xôi, 1 chai rượu), được nhà trai mang sang vào buổi sáng ngày cưới và
chiều hôm để ông cậu phải mời anh em họ hàng cùng hưởng lễ. Lễ mặn lễ
tại nhà tộc trưởng bên vợ (gà, rượu). Lễ mặn lễ gia tiên tại nhà gái (gà,
rượu). Các lễ tại nhà tộc trưởng và gia tiên nhà gái được nhà trai mang
sang từ chiều hôm trước ngày cưới. Ngoài các lễ vật ở đây có tục phải
thách cưới thêm tiền mặt. Bình thường từ 100 đồng tiền cũ, nhưng nhà

nghèo cũng phải có ít nhất 15 - 20 đồng.
2.5. Lễ dẫn cưới (lễ nạp tài).
Sau khi được nhà gái chấp thuận ngày giờ cưới và yêu cầu thách
cưới, nhà trai tiến hành chuẩn bị đồ sính lễ để làm lễ xin cưới. Tuỳ theo
yêu cầu của nhà gái mà việc dẫn cỗ cưới có thể bằng tiền mặt hay hiện
8
vật. Ccác đồ sính lễ do nhà gái tự mua sắm là trang phục cho cô dâu,
riêng nhẫn, hoa tai, xà tích thì nhà trai chuẩn bị và do mẹ chồng mang
sang khi đi xin dâu cùng bà mối. Trước lễ cưới 2  3 ngày, nhà trai tiến
hành làm lễ xin dâu và bao giờ cũng đi buổi sáng. Đoàn đi xin cưới gồm
mẹ chàng rể, bà mối và một số bà con họ hàng. Trước khi đi dẫn cưới
(nạp tài), nhà trai làm lễ cáo gia tiên. Đến nhà gái, cá thứ nếp, lợn, bún,
rượu được nhà trai bày ở sân, còn cau, tràu, bánh và tiền được đưa vào
nhà đặt lên bàn thờ để trình báo tổ tiên nhà gái. Mẹ chồng thưa chuyện và
bàn giao đồ lẽ. Nhà gái nhận và kiểm tra số lượng và chất lượng. Các thứ
gạo, thịt, rượu… được nhà gái dùng làm cỗ bàn mời họ hàng làng xóm.
Bánh cốm, bánh dầy được biếu cùng trầu cau cho họ hàng, dân làng tượng
trưng cho thiếp mới vưới.
2.6. Lệ nộp cheo.
Lệ này được nhà gái tiến hành nhưng phí tổn do nhà trai chịu, cheo
chủ yếu nộp bằng tiền, có nơi nộp bằng mâm đồng hay bằng gạch để lát
đường làng. Tiền nộp cheo, ghi vào sổ, làng trao cho đương sự tờ phái lai
(biên lai) ghi số tiền “lan nhai”.
2.7. Lễ cưới.
Đám cưới được tổ chức cả phía nhà trai và nhà gái. Tuy nhiên, đám
cưới ở nhà trai bao giờ cũng là chính. Về hình thức và lễ thức có sự khác
biệt giữa tục lệ cưới của nhà trai và nhà gái.
- Các tục lệ liên quan đến chuẩn bị cho đám cưới.
Công việc chuẩn bị cho lễ cưới có sự tham gia của họ tộc, bạn bè
bằng hữu và láng giềng gần. Ngoài việc chuẩn bị lễ vật cho lễ dẫn cưới

(nạp tài) nhà trai còn làm những công việc sau:
+ Chuẩn bị giường chiếu và phòng tân hôn: phòng tân hôn, phòng là
một gian đầu hòi nhà được sửa sang và quét vôi mới cho sáng sủa. Phòng
của vợ chồng mới cưới thường không có trang trí gì thêm. Riêng nhà giàu
có thêm lọ hoa, gương soi, chữ song hỷ, hay tranh ảnh. Giường cưới phải
đóng mới, được đóng bằng tre đực, không bị sâu ở thân, cây phải nguyên
9
ngọn, được chặt và ngâm kỹ dưới ao để tránh mối mọt và bền hơn. Việc
đóng giường phải kén chọn người đóng. Giường cưới chỉ dùng đinh tre.
Ngày phát mộc phải chọn và khi lắp giường cũng chọn ngày giờ tốt.
Chiếu rải giường phải là chiếu mới và phải mua cả đôi. Khi rải chiếu lần
đầu cũng phải kén chọn người. Lễ rải chiếu thường làm trong ngày cưới.
Chiếu được rải làm sao hai mặt trái úp vào nhau.
+ Tục mời cưới: Trước ngày cưới khoảng vài ngày, nhà trai phải
mời họ hàng và dân làng đến dự cưới. Khi đi mời gia đình nhà trai mang
theo 1 quả cau, 1 lá trầu đến từng gia đình để mới đến ăn cưới. Ăn cỗ cưới
nhà gài thì đa số là các bà đi dự, còn tiệc cưới tại nhàt rai thì đàn ông đi là
chính. Riêng trẻ em không mời nhưng chúng tự đến và có cỗ đơn giản
giành cho chúng.
+ Chuẩn bị trang phục cưới cho chú rể: Gồm hai áo the dài (1 trắng,
1 đen), quần trắng, khăn xếp, đi giầy ký long (nhà nghèo đi guốc mộc).
Trang phục phải mới hoàn toàn.
+ Dựng rạp, chuẩn bị phòng cưới: Cưới hỏi tại gia nên trước ngày
cưới một hôm phải dựng rạp, rạp dựng bằng tre, che bằng vải hay phên,
bàn ghế thường đi mượn của hàng xóm. Ngày dựng rạp nhà trai thường ăn
từ 10 - 15 mâm.
+ Chuẩn bị cỗ bàn: cỗ bàn to hay bé, nhiều hay ít tuỳ thuộc vào
dòng tộc đó lớn hay bé, nhưng không thể không có. Cỗ chỉ khác nhau về
số lượng nhưng rất giống nhau về cách bài trí và số lượng các món. Mỗi
mâm thường có các món: thịt mỡ luộc, thịt nạc, lòng dồi, thịt nướng, tiết

canh, chả nướng, canh, xôi, rượu. Ngày xưa chỉ nhà giàu mới có giò, chả,
thịt gà. Riêng mâm phù dâu, phù rể thì có thêm các loại bánh để họ mang
về làm quà cho gia đình. Việc mua sắm, chuẩn bị cỗ cưới do một người
chỉ đạo và cỗ được chuẩn bị vào đêm hôm trước. Cỗ nhà gái cũng không
khác gì cỗ nhà trai, chỉ khác là số lượng ít hơn.
+ Ăn cỗ và mừng cưới. Cỗ bàn được mời ăn vào buổi sáng ngày
cưới. Cỗ thường xếp 4 người theo vai vế. Việc mừng cưới có thể mừng tối
10
hôm trước hoặc sáng ngày ăn cỗ. Đa số là mừng bằng tiền, số lượng nhiều
hay ít là tuỳ mối quan hệ với gia chủ. Tiền mưng do một hai người được
họ hàng cử ra nhận. Tiền mừng được ghi vào một cuốn sổ để sau này gia
chủ dựa vào đó để “trả nợ”. Nhà gái có mời khách ăn cỗ nhưng không
được nhận tiền mừng.
- Lễ cưới ở nhà trai.
Lễ cưới chính thức được tổ chức vào buổi chiều, lễ tục diễn ra như
sau:
+ Lễ xin dâu: Buổi sáng trước lúc đón dâu bà mẹ chồng cùng với bà
mối và một vài bà, vài cô trong họ hàng sang nhà gái làm lễ xin dâu. Đoàn
đi mang 1 cơi trầu, trong xếp đủ 12 miếng trầu cánh phượng, 12 miếng
cau cánh tiên đến lễ nhà cô dấu. Sau khi trò chuyện và đưa dẫn trầu cau
theo lệ mẹ chồng và đoàn xin dâu trở về nhà trước khi đoàn đón dâu nhà
trai xuất phát.
+ Lễ đón rước dâu: Đoàn gồm có bố chú rể chú bác và một số người
cao tuổi trong nội tộc. Những người đi đón dâu ăn mặc đẹp, sang trọng.
Dẫn đầu đoàn là một ông cầm hương và đồng thời cũng là chủ hôn. Người
ta thường mời “Cụ từ” (là người được làng cử ra để coi sóc việc thờ tự ở
đình) đảm nhiệm. Ông cầm hương mặc áo dài đỏ, quần tơ tằm vàng. Tiếp
theo ông cầm hương là một bà bưng một khay “trầu trăm” đúng 100
miếng để sang cũng lễ bên nhà gái… Bà mang trầu trăm cũng được chọn.
Trầu này sau khi lễ bái ở nhà gái được mang về để cho đôi vợ chồng mới

cưới ăn. Chú rể đi đón vợ ăn mặc đẹp, áo the 2 lớp, quần trắng, khăn
đóng, đi giày ký long. Phù rể thường cử 5 người trở lên, họ ăn mặc giống
chú rể. Chú rể và phù rể thường đi cuối đoàn đón dâu. Trước khi lên
đường, chủ nhân cáo gia tiên và cáo thổ công. Con trai cúi đầu xin vâng,
lạy tạ hai lạy rồi lui ra… Giờ xuất hành đi đón dâu, phải là giờ hoàng đạo
(giờ tốt). Trước lúc đi nhà trai đốt 1 bánh pháo để cầu mong cho cuộc
rước dâu tốt đẹp và để thông báo cho mọi người. Trước lúc ra khỏi ngõ,
nhà trai thường nhờ một người ra đón ngõ nhằm cầu mong cho cuộc rước
11
may mắn. Người này cũng được chọn. Khi đoàn đón dâu đi ra một người
trong đoàn kêu lên “gặp may mắn rôi”. Sau đó nhà trai mới xuất hành đi
đón dâu. Trên đường đi nhà trai cho một người đàn ông trong họ mang
theo gạo, muối đi đầu cùng với ông cầm hương. Vừa đi ông ta vừa ném
muối và gạo ra tứ phía để cho ma quỉ không quấy nhiễu.
+ Tục chăng dây, đóng cổng làng, cổng ngõ.
Nhà trai phải chịu tục này khi lấy vợ làng khác do một số người bên
làng nhà gái tổ chức, đó là “Chăng dây đón đường” và “đóng cửa làng”.
Còn đối với những đám trai làng lấy gái làng thì có tục chăng dây ngõ hay
đóng cổng vào nhà gái. Hình thức phổ biến là trên đường dẫn vào ngõ nhà
gái, người ta để một chiếc bàn nhỏ có để một lo hoa và có một sợi chỉ
chăng ngang đường. Khi đoàn nhà trai đến, người ta đốt một bánh pháo để
ngụ ý chào nhà trai và đợi ý tứ nhà trai. Bố chú rể phải có lời xin và đưa
một ít tiền mừng xin phép cởi dây.
+ nghi lê rước dâu bên nhà gái: Đúng giờ đã chọn, nhà gái mời nhà
trai vào nhà. Nhà trai đặt đồ lễ lên bàn thờ và ông cầm hương thắp hương
làm lễ gia tiền bên nhà gái. Người chủ bên có lời thưa gửi đối với họ nhà
gái. Chú rể phải vào làm lễ gia tiền nhà vợ. Sau đó, chú rể được nhà gái
dẫn đến làm lễ ở nàh thờ họ và ở nhà ông cậu. Các đồ lễ bái ở đây đã
được nhà trai mang sang từ trước. Sau khi lễ xong hai nơi này, chú rể
quay trở về nhà vợ. Lúc này cô dâu và phù dâu từ trong nhà đi ra gặp chú

rể. Cô dâu mặc áo dài mớ ba mớ bẩy, thắt lưng xanh hoặc điều, đầu búi,
chít khăn, đeo hoa tai, nhẫn bằng vàng và một xà tích bằng bạc, chân đi
dép cánh cong bằng da trâu.
Cô dâu chú rể cùng vào làm lễ gia tiên theo thể thức chú rể “bái
gối” và cô dâu “ngồi vẹt” lễ gia tiên xong, cô dâu chú rể ra lễ mừng bố
mẹ. Khi chàng rể lễ mừng, bố mẹ vợ cho tiền các phù rể nhận hộ tiền
mừng cho chú rể. Bái yết gia tiên xong, nhà gái làm “lễ mệnh” căn dặn
con phép về làm dâu nhà chồng. Cô dâu quỳ xuống đón nhận và nhấp một
tí rượu mà cha đưa cho, rồi lạy tạ bố mẹ và các bậc bề trên. Mọi người
12
chúc mừng cô dâu và ai có tiền thì mừng cho cô dâu. Sau khi cô dâu, chú
rể làm đủ mọi nghi thức, nhà gái mời nhà trai uống nước ăn trrầu và hai
họ chúc trọng cho cô dâu chú rể những điều tốt lành. Đến giờ tốt thì người
chủ hôn xin nhà gái cho rước dâu. Nhà gái bưng trầu mời mọi người. Một
người khác đi thắp bó hương trao cho ông cầm hương và ông trịnh trọng
tuyên bố nhận dâu và kết thông gia. Nói xong ông đi ra người không được
ngoái lại. Bố mẹ cô dâu không được đưa con về nhà chồng.
+ lễ rước và đón dâu: Đoàn đón và rước dâu có thêm họ hàng và bạn
bè hàng xóm nhà gái. Các cô phù dâu thường ít nhất là 5 người, trang
phục như cô dâu. Cô dâu thường đội nón thúng quai thao để che mặt khi
đi đường. Đoàn rước đi dầu vẫn là ông cầm hương, tiếp đến là bà bê trầu
và sau đó là đoàn nhà trai và nhà gái, cô dâu và phù dâu đi sau cùng và
không đi cùng chú rể.
+ Lễ cưới bên nhà tra: Khi đoàn đón rước dâu về gần đến nhà, một
người trong đoàn đi về trước để thông báo với gia đình. Nhà trai chờ đoàn
đón dâu và tới ngõ thì đốt một tràng pháo. Trước lúc đoàn đón dâu vào
cổng, mẹ chồng mang bình vôi tránh sang nhà hàng xóm. Sau khi đoàn
rước dâu đã yên vị, mẹ chồng mới lặng lẽ trở về đặt bình vôi vào chỗ cũ
và ra tiếp chuyện. Ngay giữa cửa chính nhà trai đặt một bếp than củi, cô
dâu phải bước qua để vào nhà.

Sau khi bố chú rể đại diện nhà trai đón đoàn rước dâu về, cô dâu,
chú rể làm lễ gia tiên. Sau đó lễ lậy mừng bố mẹ chồng. Cô dâu quỳ lạy
hai lạy sau đó bố mẹ chồng tặng cho cô dâu món quà. Tại đây cô dâu chú
rể cũng lạy mừng các vị bề trên nhà chồng và họ cũng tặng quà cho cô
dâu, chú rể. Sau đó mấy chị em họ nhà chồng dẫn cô dâu đi lễ nhà thờ họ,
các phù dâu cùng đi theo. Sau đó, cô dâu trở lại nhà chồng để làm lễ “tơ
hồng”. Lễ tế tơ hồng thường tế ngoài trời phía trước sân nhà. Bàn tế được
thiết lập ngay sau khi đoàn đón dâu vào nhà gồm có: hương án, bát hương
bài vị, 2 cây nên và 1 mâm cỗ giống như cỗ ăn buổi sáng, 1 chủ tế tơ hồng
là ông cầm hương, ông khấn trước sau đó cô dâu lễ ngồi, chú rể lễ quỳ.
13
Cô dâu chú rể đứng hàng ngang trên chiếu trước hương án, lạy 4 lạy rồi
quỳ. Hai bên hương án có 2 người chấp sự, một người đọc văn tế, 1 người
rót rượu, lễ mừng chủ tế 1 tuần rượu. Văn tế viết triên giấy hồng điều, đọc
xong dìm vào chậu nước để sẵn trước hương án. Khi văn tế tơ hồng xong
chú rể và cô dâu mỗi người 4 lễ. 2 người cùng uống chung 1 ly rượu
(được đặt trên bàn thờ tế tơ hồng). Sau đó mỗi người ăn một miếng trầu,
têm chung một quả cau và một lá trầu. Lễ tơ hồng chỉ diễn ra trong 15 -
30 phút.
Sau lễ cưới nhà trai mời cơm nhà gái, các mâm cỗ giống như cỗ ăn
buổi sáng, riêng mâm của phù dâu và phù rể có thêm một đĩa bánh dày
(bánh cốm). Lễ cưới kết thúc sau bữa cơm này.
+ Lễ nhập phòng: bái yết gia tiên xong, chào bố mẹ chồng, họ hàng
nội, cô dâu và chú rể được ông cầm hương dẫn vào buồng cưới. Lúc này
một bà có đủ “phúc, lộc, thọ” được mời đến để rải chiếu. Mâm cỗ cúng
trong lễ tơ hồng được bê vào đặt giữa giường. Ông cầm hương đốt hương
và rót một chén rượu san đều vào 2 chén đưa cho cô dâu và chú rể. Sau đó
ông lui ra và khép cửa buồng lại. Người vợ đứng phía Đông, người chồng
đứng phía Tây vái chéo nhau, cùng nhấp rượi, rồi cùng ăn mâm cỗ trong
lễ tơ hồng.

2.8. Mâm cơm dành cho bố mẹ chồng.
Ngay ngày hôm sau, nàng dâu phải làm một mâm cơm dành riêng
cho bố mẹ chồng. Nàng mời bố mẹ chồng vào mâm nàng đứng trước mặt
lạy chào 2 lạy, rồi phải hầu rươj hầu cơm chu đáo. Bao giờ được mẹ
chồng bảo cho lui mới lạy tạ để ra ngoài.
2.9. Lễ lại mặt.
Hai ngày sau lễ cưới, vợ chồng đưa nhau về thăm cha mẹ vợ, lễ vật
gồm 1 mâm xôi, 1 thủ lợn, 1 chai rượu và cau trầu. Đi cùng có bố mẹ
chồng, 1 vài người con cháu trong gia đình đi để mang lễ vật. Bố mẹ nhận
lễ thắp hương cúng tổ tiên. Nhà gái làm cỗ sẵn mời nhà trai.
3. Quan hệ và ứng xử giữa vợ chồng.
14
Sau khi lấy xu hướngồng, một phụ nữ về sống bên gia đình chồng
phong tục phổ biến ở nhiều nơi là ngay sau khi cưới, người phụ nữ phải
mang tên chồng. Điều đó phần nào khẳng định sự phụ thuộc của người
phụ nữ đối với chồng. Người vợ không được chê chồng, tự ý bỏ chồng
hoặc bỏ về nhà mẹ đẻ; vợ phải phục tùng chồng, không được chửi, đánh,
làm sai ý của chồng; tiền của làm ra phải để cho chồng quyết định, dù vợ
có làm ra thì cũng không được khinh chồng. Dân gian đã từng tổng kết:
“Tai tay không chẳng ăn mày vợ
Gái trăm vạn cũng thể nhờ chồng”.
Nghĩa vụ chung thuỷ của vợ chhồng đã được quy định rõ trong luật
nước và được hỗ trợ bằng phong tục. Nếu chẳng may người vợ gian dâm
thì phong tục không dung, pháp luật trường trị nặng. Quy định trong một
số lệ làng cho phép người chồng có thể làm điều sỉ nhcụ vợ nếu bắt được
vợ gian dâm. Sự chung thuỷ còn được quy định ở việc để tang chồng chưa
hết 3 năm, người phụ nữa chưa được quyền tái giá.
Nhìn chung hôn nhân cổ truyền của người Việt Nam là chế độ hôn
nhân phụ quyền gia trưởng với vai trò quyết định chính là nam giới. Sau
khi đã là vợ chồng, quyền hành trong gia đình vẫn nằm phần lớn trong tay

người chồng. Người phụ nữ ít có được quyền quyết định những vấn đề
trọng đại liên quan đến gia đình, họ hàng, dòng tộc. Điều này mang đậm
tính chất phong kiến “Trọng nam khinh nữ”.
Qua các tục lệ hôn nhân cổ truyền của người Việt cho thấy vị trí
quan trọng của hôn nhân trong nghi lễ này vòng đời nói riêng và đời sống
văn hoá của làng xã người Việt hàng ngàn năm qua. Hôn nhân của người
Việt xưa mang đậm tính chất phong kiến, chịu ảnh hưởng của tư tưởng
nho giáo và các lễ giáo phong kiến của Trung Quốc. Tuy nhiên, nó chủ
yếu ảnh hưởng tới vùng thị thành và tầng lớp trên, còn vùng nông thôn và
tầng lớp bình dân vẫn giữ được nét truyền thống và chính điều đó đã làm
lên phong tục tập quán, nếp sống, là biểu trưng của bản sắc dân tộc, giá trị
truyền thống văn hoá của người Việt.
15
4. Một số tục lệ hôn nhân của dân tộc thiểu số.
4.1. Dân tộc Khơ-mú.
Dân tộc Khơ-mú ở Nghệ An cư trú tại các huyện vùng cao Kỳ sơn,
Con Cuông, Tương Dương, Quế Phong có số dân trên 30 ngàn người với
nhiều tên gọi khác nhau như Tày, Hay, Kho, Pu Thênh, Dinh, Xá, Lào
Cang, Việt Cang, Căm Huội. Đồng bào ở nhà sàn, ăn xôi, có điệu hát
“Tơm” và tục ở rể. Tục ở rể của người Khơ mú Kỳ Sơn chỉ kéo dài trong
vòng 10 ngày  1 tháng. Trong thời gian đó, chàng trai mang dao đến
nhà cô gái làm đủ mọi việc như phát nương, dọn rẫy, chặt củi… để chứng
minh cho cha mẹ nàng biết sức khoẻ, sưm cần mẫm của mình (sau khi
được sự thuận tình của cha mẹ). Sau một thời gian gia đình nhà tra mang
trầu cau sang nhà gái xin “đi lại”. Lễ lậy gồm 2 chai rượu trắng và một
cơi trầu gắn trên sáp ong. Lễ xin đi lại chỉ có đôi bạn và họ hàng của hai
gia đình. Nhà trai bưng cơi trầu dâng lên bàn thờ và đọc lời chương (ông
vua của người Khơ mú). dạy từ thuở xưa sau đó đặt cơi trầu xuống chờ
cho nhà gái đáp lại lời chương. Từ đây, hai bên chính thức trở thành
thông gia. Sau lần gặp gỡ này là đến lễ ăn hỏi chính thức. Lễ vật nhà trai

mang đến dâng cho nhà gái gồm: 4 vò rượu cần, 2 chiếc túi màu trắng và
đồ trong đó đựng một đôi váy, một đôi áo, một đôi khuyên tai, 1 đôi vòng,
4 chai rượu, 2 bó trầu cau. Nhà gái phải giữ những lễ vật này để làm tin.
Nếu nhầgí bực bội thì nhà trai được quyền phạt gấp đôi số lễ vật đó. Dự lễ
đám hỏi có họ hàng hai bên, bạn bè của đôi bạn trẻ. Ông mối thay mặt cho
nhà trai đọc lời chương khuyên hai trẻ sau này phải biết yêu thường đùm
bọc nhau, hai gia đình phải khang khít hơn nữa. Sau đó, họ cùng nhau
uống rượu, ăn cỗ, hát tỏm chúc tụng rôm rả.
Lần nộp lễ thứ 3 của nhà trai là vào dịp đám dưới… Người Khơ mú
có câu “Phong tục là 12, tập quán là 24” để chỉ lượng chum rượu cần mà
hai họ phải chuẩn bị trong ngày cưới của con. Mỗi gia đình phải chuẩn bị
2 con lơn từ 40 - 60 kg (có gia đình còn chuẩn bị con lơn con khoàng 15
kg để cúng). Người Khơ Mú tổ chức đám cưới vào ban đêm, mời rượu lúc
16
8 - 9 h; 10 - 12h thì ăn cỗ và chọn giờ tốt mới rước dâu. Bà mối sẽ cầm
tay và dắt cô dâu về. Cô dâu mang theo của hồi môn (Khrương păn) trong
ngày cưới.
4.2. Dân tộc Dao.
Người Dao ở Sơn Tang thuộc dòng Dao đỏ, hiện sống tập trung ở
vùng suối Quyền - huyện Văn Chấn và các chòm xóm của họ nằm rải rác
tại các vùng Lục Yên, Văn Yên, Yên Bình … thuộc tỉnh Yên Bái. Do điều
kiện sống, tục cưới vợ của người Dao ở đây rất phức tạp, kéo dài trong
vài ba ngày đến cả tuòân, nhưng lại ít tốn kém và rườm rà như những
đám cưới ở các dân tộc khác.
Tục đặt trầu - dạm ngõ: Đôi trai gái ưng thuận nhau, bố mẹ nhà trai
chọn ngày sang nhà gái dạm - đặt trầu, gồm 6 miếng trầu được xếp vào 1
gói mang sang nhà gái. Đến nhà gái, nhẩti đặt lời “ông bà có tin cậy và
ưng ý xin ghé làm theo một tý nương với ông bà”. Nói rồi đặt trầu vào 2
bát, mỗi bát 7 miếng và đặt lên bàn thờ. Nếu gia đình nhà gái ưng thuận
thì đến ngày thứ 3 sẽ mang trả lại trầu và nói “Nương không thuận, không

biết ông bà có đồng ý khồng? Ưng đát xấu thì làm”. Gia đình nhà trai
nhận lại trầu, coi như hai bên đầu đã bằng lòng.
Dam hỏi: Sau khi đã bàn bạc kĩ, nhẩt i têm 6 miéng trầu, chuẩn bị
một phong bì trong đó có 2 hào bạc trắng, buộc 2 sợi chỉ đỏ 8 đen trên
phong bì rồi mang đến nhà gái dạm hỏi: “Ông bà ta giúp cho, xin ca hơn!
Xin để cho và đường cho ai nữa” Hai đồng bặc trắng tượng trưng cho
xương cốt. Sau ngày sau, nhà gái mang trả lễ nhà trai. Nhà trai nhận lại
hai hào bạc trắng, tức là nhận xương cốt” sống gửi thân, chết gửi xương”.
Nhà gái mừng vui và tin tưởng vào 18 nhà trai.
Lễ xin cưới: Có cả ông Mõ (ông mai mối) cùng đi. Lễ gồm 24 miếng
trầu được làm thành 12 gói, mỗi gói 2 miếng, 1 miếng bôi vôi và 1 miếng
không bôi vôi, 2 quả trứng gà và 2 đồng tiền kẽm. Đến nhà gái, trứng
được xào lên rồi cho vào bát buộc 2 đồng tiền kẽm vào đầu đũa rồi gác
lên bát trứng. Đó là tục xin cưới lâu đời của người Dao Sơn Tang .
17
Gia đình nhà gái đặt giá, thách cưới. Do nhu cầu cuộc sống con trai
cưới vợ phải ở rể 3 năm, nên việc thách cưới cũng rất đơn giản, chỉ đòi 1
ít tiền, 1 ít gạo và con lợn khoảng 50 kg. Như vậy việc xin cưới đã xong.
Hai bên thoả thuận ngày cưới và rước dâu. Đám cưới diễn ra trong 3
ngày: 2 ngày ở nhà gái, 1 ngày rước dâu về nhà trai.
Đám cưới: Việc chuẩn bị cho đám cưới, do mỗi bên tự lo liệu lấy.
Trước ngày cưới, gia đình nhà tra tổ chức bữa cơm thân mặt gọi là “lấy
trai”, gồm 10 người con trai, tính cả cô dâu - chú rể là đủ 12 người. Bữa
cơm đó được chọn ngày giờ và phân công các việc cho ngày hôm sau. Giờ
được chọn là khoảng từ 18h - 19h. Vì đi vào giờ này đỡ xấu hổ hơn. Đoàn
nàh trai đến cổng nhà gái phải gọi to để bố mẹ nhà gái đi tránh mặt con rể.
Con rể vào nhà nộp tiền lễ cưới và trầu cau. Cả gia đình nhà gái đi lánh
mặt để gia đình nàh trai vào nhà làm lễ. Làm xong lễ, chú rể được gọi vào
buồng cô dâu trước. Ông Mê lấy 1 bát nước gọi là bát nước đoàn tụ đưa
cho cô dâu, chú rể, mỗi người uống một tí, uống xong cô dâu đi lánh mặt.

Ông Mơ cùng một người khác mặc quần áo cúng đứng trước bàn thờ vừa
cúng, vừa múa (múa xúc tôn giả), tức là múa chào anh em ,họ hàng, cô dì
chú bác trong gia tiên nhà gái, rồi ra thay quần áo nghỉ ăn cơm. Ăn cơm
xong, cô dâu - chú rể được gọi đến trước bàn thờ quỳ lạy, chú rể lạy chào
bố mẹ, chú bác rồi chào gia tiên bên ngoại.
Tất cả mọi việc đã hết ngày thứ 2. Sáng ngày thứ 3 - ngày rước dâu.
Chú rể và cô dâu được gọi vào xếp hàng theo thứ tự cùng với đoàn nhà
trai. Đoàn có bố, mẹ và ông Mơ đi trước, cô dâu, chú rể và những người
còn lại đưa dâu về nhà trai. Gần đến ngõ nhà trai, ông Nờ làm phép (hoá
mây) rồi đưa cho cô dâu, chú rể một cái quạt để che mặt, quan niệm rằng
che mặt đỡ xấu hổ. Rồi cứ thế đi thẳng vào trong nhà là xong. Vào nhà cô
dâu quỳ, chú rể lạy theo thứ tự gia đình rồi cùng nhau đi chức rượu mọi
người tỏng nhà và những người dự đám. Rượu xong là ăn uống và đám
cưới kết thúc.
18
Lễ lại mặt và ở rể 3 năm: 3 ngày sau, đôi vợ chồng về lại mặt nhà
gái. Trước ngày đi, gia đình đã mổ lợn vf để lại cái thủ, khi chú rể về mới
phá thủ lợn để tiếp đãi con. Lễ cưới vào cuối năm thì 3, 4 ngày sau, đôi
vợ chồng trẻ lại quay về nhà trai ở một tuần, rồi lại sang nhà gái 1 tuần,
chô đến hết ngày 7, tháng riêng âm lịch mới đi ở rể. Cứ 1 năm ở rể, lại 1
năm về cho hết 3 năm thì đôi vợ chồng trẻ mới xin về gia đình bên trai.
Phong tục này, hiện nay vẫn còn lưu giữ trong từng gia đình của người
Dao ở Sơn Tang.
19
II. XU HƯỚNG CỦA HÔN NHÂN TRONG THỜI ĐẠI NGÀY
NAY
Sự phát triển của xã hội gắn liền với sự biến đổi của hôn nhân.
Cũng như các hiện tượng khác. Trong tiến trình lịch sử của dân tộc, hôn
nhân của người Việt cũng đã có nhiều biến đổi. Nhìn chung sự thay đổi
lớn nhất so với trước là nhiều “hủ tục” cổ truyền đã được bãi bỏ, nhiều

tục lệ được cải tạo, với xu hướng phục hồi trở lại hình thức cưới xin
truyền thống trong môi trường văn hoá mới, xã hội mới và dân trí cao.
Các tập tục hôn nhân mới tiếp tục hình thành trên nền tảng, sự kết hợp
giữa tinh thần dân tộc và tính thời đại. Hôn nhân gnày nay có sự kết hợp
giữa truyền thống và hiện đại, theo chiều hướng “nền văn hoá Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”.
Hôn nhân bây giờ không còn là việc riêng của cá nhân, gia đình,
dòng họ, làng xã, mà được Đảng và Nhà nước đặc biệt quạ tâm, với chính
sách : cải tạo tập tục hôn nhân cũ cho phù hợp với xã hội mới và xây dựng
chế độ hôn nhân mới văn minh, tiến bộ.
Xu hướng hôn nhân ngày nay được biểu hiện ở một số khía cạnh
như sau:
Nếu như trước kìa khi muốn dựng vợ gả chồng nhẩti thường phải
đáp ứng theo sự thách cưới của nhà gái, nộp cheo mới lấy được vợ, thì
này một cuộc hôn nhân hợp pháp chỉ cần được nhà nước cấp giấy kết hôn
là đủ, còn các tục lệ khác thì không bắt buộc. Một sự kết hôn không có
giấy đăng kí kết hôn thì vi phạm pháp luật và bị ngăn cấm.
Nam nữ tự do tìm hiểu lẫn nhau, nếu thấy hợp thì họ sẽ củng cố
thêm tình yêu của mình. Cha mẹ không cấm đoán con cái đi tìm hiểu bạn
đời tương lai. tự do hôn nhân thay thế cho quyết định của cha mẹ, họ hàng
theo quan niệm “cha mẹ đặt đâu con ngồi đây”. Có những trường hợp bị
cha mẹ “ép duyên” thì họ đấu tranh và có sự giúp đỡ của đoàn thể nên cha
mẹ không thể cấm đoán được.
20
Mặc dù nếu hai người nam và nữ cảm thấy hợp nhau thì họ có thể
tiến tới hôn nhân, nhưng các chuẩn mực chọn dâu, kén rể… một phần nào
đó vẫn là yếu tố quyết định cho một đám cưới. Đó là khi lựa chọn bạn đời
thì cả hai bên đều muốn chọn những gia đình có “lý lịch tốt” hay có hoàn
cảnh hợp với nhau. Nhưng dù nam hay nữ thì những tiêu chuẩn cơ bản
như: gia thế, nghề nghiệp, tính cách… phải được đảm bảo. Việc đưa ra

các tiêu chuẩn không phải là mục đích “kén cá chọn canh” mà chính là lựa
chọn một người tương xứng với mình. Một người mình thực sự mong
muốn là nền tảng của một gia đình hạnh phúc.
Quan hệ hôn nhân ngày càng được mở rộng hơn. Quan niệm “lấy
chồng khó giữa làng còn hơn lầy chồng sang thiên hạ” hầu như không còn
tồn tại trong tư tưởng của nam nữ thanh niên ngày nay. Thêm vào đó là sự
xuất hiện trào lưu kết hôn với người ngoại quốc. Thường thì dâu Việt rể
Trung Quốc, Đài Loan… với nguyên nhân chủ yếu là sự tự nguyện của
tình yêu, kinh tế khó khăn, bán người… Kết quả của kiểu hôn nhân này có
nhiều điều đáng nói. Về mặt tích cực là đứa trẻ sinh ra, có thể tiếp xúc,
hoà đồng với hai nền văn hoá khác nhau, hai ngôn ngữ khác nhau…
Ngược lại việc kết hôn với người ngoại quốc cũng là hình thức che đậy
cho một loại tệ nạn xã hội: bán phụ nữ qua biên giới. Đây là một hình
thức khá phổ biến ở các tỉnh biên giới và Nam Bộ. Kết quả của những
người phụ nữ này bị bóc lột sức lao động. đánh đập dã man, lấy một
người đàn ông bằng tuổi ông mình, nhiều khi còn mất mạng do không đủ
sức chịu đựng. Con cái thì bơ vơ không nơi nương tự, không được giáo
dục đến nơi đến chốn… Và có thể trở thành trẻ bụi đời.
Ngày xưa quan niệm chữ trinh, tiết hạnh của người phụ nữ rất khắt
khe. Đã có rất nhiều hình thức trừng phạt với người phụ nữ khi vi phạm
quan niệm như: cạo trọc đầu bôi vôi hay bỏ rọ trôi sông. Thời nay: quan
niệm đó không còn khắt khẽ nữa và thanh niên ít quan tâm . Để chứng
minh cho sự thay đổi này là sự xuất hiện trào lưu “sống thử” của một bộ
phận thanh niên. Đặc biệt là thành phần thanh niên từ các tỉnh lẻ xa nhà,
21
lên thành phố ăn học, kiếm việc làm… họ sống với nhau như đã trở thành
vợ chồng của nhau. Và họ có thể chấm dứt nếu cảm thấy không còn hợp
nhau nữa.
So với hôn nhân truyền thống, các nghi lễ của một đám cưới cũng
có sự thay đổi lớn trong thời đại ngày nay, nhưng vẫn dựa trên nền tảng

của các nghi lễ hôn nhân truyền thống. Xu hướng đối với trong thời đại
ngày nay là xoá bỏ những tập tục lạc hậu, mê tín dị đoan; đơn giản hoá
các tục lệ không thể bãi bỏ được.
Trang phục cô dâu, chú rể ngày càng được âu hoá. Chú rể thường
com lê, vét-tông. Nữ thi váy cưới dài quét đất. Trong đám cưới có thiếp
mời, trao nhẫn, tiệc đứng… lễ xin cưới và dẫn cưới cũng như truyền
thống nhưng riêng vật thì ít hơn. Sau đám cưới thường có tuần trăng mật
cho tân cô dâu và chú rể.
Đám cưới là một sự kiện trọng đại, lành mạnh cho hai người, là sự
cảm ơn cha mẹ, nhưng trong thời đại ngày nay, lại xuất hiện một tư tưởng
tiêu cực. Đó là người ta đã lợi dụng vào đám cưới và cho đó là một dịp để
họ có cơ hội khoe khoang của ải, uy thế gia đình, đòi nợ, trả nợ… đồng
thời xuất hiện một tâm lý giở khóc, giở cười. Đó là người ta cảm thấy sợ
hãi, lúng túng khi có giấy mời đi ăn cưới đặc biệt là vào mùa cưới với sự
dồn dập của các thiếp cưới.
Ngày nay, các cặp vợ chồng trẻ tỏ ra có quan hệ bình đẳng hơn, các
thế hệ trước trong vai trò gia đình, họ ngày càng muốn tồn tại độc lập và
thích sống tự do hơn, dân chủ hơn. Tuy nhiên tự do hơn nhưng mâu thuẫn
lại nhiều hơn. Kết cấu gia đình lỏng lẻo hơn, các vụ li hôn liên tục tăng
nhanh. Đồng thơi ngoại tình cũng là một hiện tượng tiêu cực khá phổ biến
với nền kinh tế thị trường, hôn nhân của người Việt cũng có những thay
đổi theo xu thế của thời đại. Đó là sự trở lại có chọn lọc các quan niệm và
các tục lệ hôn nhân truyền thống kết hợp với những yếu tố tiến bộ của luật
hôn nhân và gia đình. Đồng thời là sự du nhập một cách thiếu lựa chọn
của các tục lệ hôn nhân mới được du nhập từ các vùng miền khác nhau,
22
trong và ngoài nước theo hinh thức “lai căng” chưa phù hợp với thực tế
của từng vùng miền, địa phương.
Với trình độ dân trí ngày càng được nâng cao và công tác tuyên
truyền vận động giáo dục của đoàn thể, chính quyền và Nhà nước, nhận

thức trong nhân dân đã có nhiều biến đổi, không những chỉ có lớp trẻ mà
thậm chí cả người già cũng đã nhận thức được những tục lệ lạc hậu, tiêu
cực, những mặt chưa phù hợp cả trong quan niệm và tục lệ hôn nhân trước
đây. Những tục lệ thôn nhân qua thời gian đã có những biến đổi trong đời
sống người Việt. Đối với Nhà nước là đang tìm kiếm một mô hình đám
cưới mới lành mạnh, tiên tiến, hiện đại vừa đậm đà bản sắc dân tộc. Nghĩa
là một hôn lễ phải bảo lưu và phát huy các giá trị văn hoá dân tộc nhưng
đồng thời phải phù hợp với điều kiện kinh tế của từng gia đình, tránh xa
sự xa hoa lãng phí để tránh khỏi một hậu quả xấu là sau mỗi đám cưới là
những món nợ chồng chất.
III. NGHĨA CỦA HÔN NHÂN
Hôn nhân là một quá trình, là bước ngoặt tạo ra sự biến đổi cơ bản
cho hai người nam và nữ từ tình bnạ, tình đồng nghiệp… đến tình vợ
chồng; từ hoàn toàn tự do cá nhân sang ít tự do cá nhân mà là sự tự do
trong khuôn khổ của gia đình, làm theo pháp luật, theo bổn phận trách
nhiệm và lương tâm, theo chức năng mới của vợ và chồng.
Hôn nhân thường xuất phát từ tình yêu, từ sự tự nguyện gắn liền
cuộc đời của hai người khác giới. Dù tình yêu có đạt tới đỉnh cao thì quan
hệ giữa nam và nữ vẫn là quan hệ tình cảm riêng tư có tính chất bạn bè,
không bị ràng buộc lẫn nhau. Nhưng khi đã thành hôn nhân thì tình yêu sẽ
trở nên sâu sắc hơn, nhưng quan hệ riêng tư của hai bên sẽ giảm đi và
thay vào đó là những ý thức trách nhiệm của cả hai bên đối với nhau. Họ
cùng có một mục đích, trách nhiệm và bổn phận. Đó là củng cố kinh tế gia
đình, giáo dục con cái, phụng dưỡng cha mẹ.
Hôn nhân có tầm quan trọng rất lớn trong sự tồn vong của loài
người với chức năng duy trì nòi giống. Vì đó là cung cụ thiêng liêng và
23
duy nhất để duy trì nòi giống và phát triển nguồn nhân lực cho xã hội, đặc
biệt là cho người trồng lúa nước.
Sự thiếu hình thức hôn nhân sẽ gắn liền với sự sinh sản và giáo dục,

trẻ bị hỗn loạn, xã hội rối ren tiêu cực.
Như ta đã biết, làng xã hội Việt Nam có đặc tính là cộng đồng, mọi
việc liên quan đến cá nhân cũng liên quan đến cả cộng đồng. Do đó, hôn
nhân của người Việt không đơn thuần là việc hai người lấy nhau mà đó
còn là sự kiện của hai họ. Mặc dù đó là việc của hai người khác giới
nhưng lại kéo theo việc xác lập quan hệ giữa hai gia tộc. Do đó:
“Lấy vợ kén tông
Lấy chồng kén giống”.
là một công việc vô cùng quan trọng.
Hôn nhân không những là sự kiện trọng đại trong cuộc đời của hai
người mà còn là của dòng họ, gia tộc, làng xã… Vì vậy, nó đòi hỏi mỗi
chúng ta phải hành động một cách có suy nghĩ, thận trọng và có văn hoá.
Điều đó kéo theo việc giáo dục cho các vị thành niên về những vấn đề cơ
bản để chuẩn bị cho gản than là hết sức cần thiết.
Với sự ra đời của chế độ xã hội chủ nghĩa, sự tiêu diệt chế độ thực
dân phong kiến chế độ hôn nhân của người Việt mới thực sự biến đổi cơ
bản. Trước năm 1954 chế độ hôn nhân của người Việt cũng có thay đổi,
nhưng nó diễn ra một cách chậm chạp. Các tục lệ truyền thống vẫn được
thực hiện với sự tiếp thu thêm các tục lệ của văn minh phương Tây (thông
qua chủ nghĩa thực dân Pháp). Nhưng từ sau 1954 trở đi, tục lệ hôn nhân
có sự thay đổi lớn so với trước với nhiều “hủ tục” cổ truyền bị bãi bỏ,
nhiều tục lệ bị cải tạo. Chế độ hôn nhân mang tính chất xã hội chủ nghĩa
được thiết lập và trở thành tục lệ hôn nhân chính thống. Việc cải tạo tập
tục hôn nhân cũ cho phù hợp với xã hội mới và xây dựng chế độ hôn nhân
mới văn minh, tiến bộ là một mục tiêu quan trọng của Đảng và Nhà nước
Việt Nam.
Sự biến đổi của hôn nhân sau 1945 được thể hiện ở hai khía cạnh:
24
Trong quan niệm hôn nhân.
Những thay đổi về nghi lễ hôn nhân

Các tục cưới xin trong thời kỳ này.
Đầu tiên, chúng ta tìm hiểu về sự biến đổi tỏng quan niệm hôn nhân.
Thời kì này, những thay đổi trên phương diện pháp lý trong hôn nhân
được thể hiện rõ. Nếu như tính pháp lý cơ bản và cao nhất ở trong hôn
nhân truyền thống là sự thừa nhận của cộng đồng, luật tục thông qua
“cheo cưới” và “đám cưới”. Việc kết hôn hoặc từ hôn (li dị) chỉ thông qua
gia đình, họ tộc và lệ làng. Chế độ hôn nhân bị ràng buộc nặng nề bởi lệ
làng và dư luận xã hội; thì từ sau năm 1954 và đặc biệt là từ sau khi ban
bố luật hôn nhân và gia đình (1960). Nhà nước đã can thiệp trực tiếp vào
quan hệ hôn nhân trên cả hai bình diện “quan niệm và các nghi thức, nghi
lễ”. Chế độ hôn nhân từ đây đã được pháp lý hoá và thể chế hoá. Việc
thừa nhận kết hôn hay li dị phải thông qua luật pháp Nhà nước và do đại
diện của chính quyền các cấp thực hiện. Một cuộc hôn nhân hợp pháp chỉ
cần được Nhà nước cấp giấy kết hôn là đủ, các thủ tục khác không bắt
buộc. Nếu khi lấy vợ lấy chồng mà không được Nhà nước cấp giấy chứng
nhận kết hôn thì cuộc hôn nhân đó có thể bị ngăn cấm, thậm chí bị huỷ
bỏ.
Những ai cố tình vi phạm thì bị xử lý theo pháp luật. Sự thay đổi
trên phương diện pháp lý trong hôn nhân không chỉ là sự khác biệt cơ bản
giữa hôn nhân truyền thống với hôn nhân mới, bảo vệ quyền lợi cho nam
nữ, mà còn là những nhân tố quan trọng làm biến đổi tục lệ hôn nhân ở
Việt Nam nói chung.
Vai trò quyết định trong hôn nhân cũng khá quan trọng. “Nam và nữ
tự do tìm hiểu” “tự do hôn nhân” thay thế cho vai trò quyết định của bố
mẹ họ hàng theo quan niệm “bố mẹ đặt đâu con ngồi đây”.
Ngoài ra, các chuẩn mực kén chọn “dâu rể” theo “môn đăng hộ đối”
hợp tuổi và hợp duyên số không còn nặng nề và thậm chí nhiều gia đình ít
quan tâm. Quan niệm “đũa mốc chòi mâm son” không còn. Việc ít quan
25

×