Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Việt Nam và hiệu ứng Wal mart

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (292.4 KB, 21 trang )

Nhóm I:Tiểu luận kinh tế vĩ mô 2 2010
ĐỀ TÀI: VIỆT NAM VÀ HIỆU ỨNG WAL-MART
MỤC LỤC:
Chương I: Tổng quan về thị trường bán lẻ Việt Nam
- 1. Sức hấp dẫn của thị trường bán lẻ Việt Nam
- 2. Thực trạng phát triển của thị trường bán lẻ nước ta hiện nay
- 3. Ưu điểm của các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam
- 4. Nhược điểm của các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam
Chương II: Wal-Mart và Hiệu ứng Wal-Mart
- 1.Giới thiệu về chung về Wal-Mart
- 2.Hiệu ứng Wal-Mart
Chương III: Ảnh hưởng của Hiệu ứng Wal-mart đối với nền kinh tế
Việt Nam:
- 1. Tác động củaHiệu ứng Walmart đối với thị trường bán lẻ Việt Nam:
1.1: Walmart làm thay đổi thói quen tiêu dùng của khách hàng :
1.2: Walmart tác động mạnh đến các doang nghiệp bán lẻ trong nước:
- 2. Tác động của hiệu ứng Walmart đối với toàn bộ nền kinh tế Việt Nam:
2.1:Những tác động cơ bản đối với nền kinh tế:
2.2: Hiệu Ứng Wal-mart trong vai trò định hướng nền kinh tế:
2.3:Vấn đề năng suất và lạm phát:
1
Nhóm I:Tiểu luận kinh tế vĩ mô 2 2010
LỜI MỞ ĐẦU
Từ khi Việt Nam ra nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO từ cách đây hơn 2 năm,
nền kinh tế nước ta chủ động hội nhập sâu hơn và toàn diện hơn vào nền kinh tế thế giới
đang có những biến đổi nhanh và sâu sắc. Các doanh nghiệp Việt Nam đứng trước những
cơ hội to lớn trong hợp tác kinh doanh với nước ngoài. Vài năm trở lại đây, thị trường
bán lẻ Việt Nam chứng kiến sự phát triển rất mạnh của các siêu thị đồ gia dụng và thực
phẩm với quy mô lớn, thay thế dần cho các cửa hàng bán đồ nhỏ lẻ. Theo cam kết WTO,
từ ngày 1/1/2009, mọi hạn ngạch đối với các công ty phân phối và bán lẻ 100% vốn nước
ngoài sẽ được dỡ bỏ. Từ mốc thời gian này, thị trường bán lẻ Việt Nam chính thức được


tự do phát triển cả về quy mô lẫn phương thức hoạt động. Trong bối cảnh ấy, khả năng
xuất hiện những “đại gia” về bán lẻ đổ bộ sâu sắc vào thị trường trong nước là rất lớn.
Điều ấy sẽ giúp thị trường phong phú hơn, chuyên nghiệp hơn và người tiêu dùng có
thêm nhiều cơ hội lựa chọn. Tập đoàn bán lẻ lớn nhất nước Mỹ Wal-Mart là một trong số
đó. Vậy con tàu bán lẻ Việt Nam có thực sự sẵn sàng để đón nhận luồng gió mới này, và
có chuẩn bị tốt cho cơ hội phát triển hết sức khổng lồ này không?
Nhận thấy tầm quan trọng của vấn đề này, nhóm chúng tôi đã quyết định lựa chọn đề
tài: “Việt Nam trước hiệu ứng Wal-Mart”. Hy vọng bài thuyết trình của chúng tôi sẽ cung
cấp cho các bạn những thông tin quan trọng nhất về thị trường bán lẻ Việt Nam cũng như
tập đoàn bán lẻ Wal-Mart, trên cơ sở đó xây dựng một nền tảng, giúp các bạn hình dung
sâu hơn về những hiệu ứng mà Wal-Mart có thể gây ra cho thị trường bán lẻ Việt Nam.
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG BÁN LẺ VIỆT NAM
1. Sức hấp dẫn của thị trường bán lẻ Việt Nam
2
Nhóm I:Tiểu luận kinh tế vĩ mô 2 2010
Thị trường bán lẻ Việt Nam tuy quy mô còn nhỏ, song vẫn rất hấp dẫn đối với các nhà
đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư nước ngoài bởi áp lực cạnh tranh chưa lớn, trong khi tốc độ
tăng trưởng kinh tế đạt trên dưới 8%. Nền kinh tế của Việt Nam có tốc độ tăng trưởng liên
tục cao, ổn định chính trị. Bên cạnh đó người tiêu dùng Việt Nam thuộc hàng trẻ nhất ở
Châu Á và mức chi tiêu ngày càng tăng. Tiến sỹ Matthias Duehn – Giám đốc EuroCham
Hà Nội khẳng định: “Năm 2010 là năm có rất nhiều triển vọng với thị trường bán lẻ Việt
Nam, thể hiện qua việc Việt Nam ngày càng trở thành một điểm kinh doanh hấp dẫn tại
châu Á với tốc độ tăng trưởng kinh tế bền vững và nhu cầu tiêu dùng ổn định trong thời
gian dài”. Thật vậy, sức hấp dẫn của thị trường bán lẻ Việt Nam ngày càng tăng nhanh
trong những năm gần đây. Trong năm 2007, chỉ số phát triển kinh doanh bán lẻ của Việt
Nam xếp thứ 2 thế giới, sau Ấn Độ, và đến tháng 6 năm 2008 thì Việt Nam đã vượt lên
chiếm ngôi thứ nhất (theo xếp hạng của Công ty tư vấn Mỹ A.T.Keaney về chỉ số phát
triển kinh doanh bán lẻ toàn cầu). Như vậy, thị trường bán lẻ nước ta “qua mặt” cả ba
“người khổng lồ” Ấn Độ, Nga và Trung Quốc để chiếm “ngôi hậu” trong “làng bán lẻ” thế
giới. Năm 2009, doanh số vẫn tiếp tục tăng gần 20% so với cùng kỳ năm ngoái, trong bối

cảnh bị ảnh hưởng bởi suy thoái kinh tế. Chính nhờ có sự phát triển mạnh mẽ này mà
ngành dịch vụ bán lẻ đóng góp cho GDP 15%/năm và tạo ra việc làm cho 5,4 triệu lao
động, tương đương với khả năng tạo việc làm của ngành công nghiệp thu hút nhiều lao
động của Việt Nam - công nghiệp chế biến. Đây thực sự là cơ hội tốt để các doanh nghiệp
dự báo được về triển vọng thị trường bán lẻ, qua đó xây dựng chính sách phù hợp trong
việc phát triển doanh nghiệp của mình.
2. Thực trạng phát triển của thị trường bán lẻ nước ta hiện nay
3
Nhóm I:Tiểu luận kinh tế vĩ mô 2 2010
Yếu tố truyền thống và bền vững nhất cho sự phát triển của thị trường bán lẻ Việt Nam
chính là sự đóng góp ngày càng lớn của những nhà bán lẻ tên tuổi, như: Sai Gon Co.op,
Maxi Mart, Citi Mart, G7 Mart, Vissan…Họ đang ngày càng hoàn thiện, nâng cao chất
lượng, đa dạng hóa các loại hình bán lẻ của mình. Đại diện của Tổng công ty Thương mại
Hà Nội (Hapro) cho biết mục tiêu đến năm 2015, Hapro sẽ trở thành một trong những
thương hiệu bán lẻ hàng đầu Việt Nam với hệ thống 2 đại siêu thị, 5 trung tâm thương mại,
60 siêu thị, 30 cửa hàng tiện ích mang thương hiệu HaproMart, 213 cửa hàng, điểm kinh
doanh rau và thực phẩm an toàn HaproFood, 300 cửa hàng chuyên doanh và 1 hệ thống
tổng kho, kho hàng hóa, dịch vụ hậu cần logistics…
Bên cạnh đó, nhiều công ty đa quốc gia cũng đang tăng cường mở rộng hệ thống phân
phối và chuỗi cửa hàng riêng của mình như: Unilever, Procter & Gamble, Johnson &
Johnson, Coca Cola, Adidas, Nestlé, KFC, Lotteria... với hàng loạt các nhãn hiệu đang đi
sâu vào thói quen tiêu dùng của người Việt.
Sự phát triển mạnh mẽ của thị trường bán lẻ Việt Nam trong những năm gần đây còn
có sự đóng góp không nhỏ của nhà phân phối bán lẻ quốc tế, như South Asia Investments
Pte (Singapore), hệ thống siêu thị Big C (Pháp), Metro Cash & Carry (Đức), Zen Plaza
(Nhật Bản), Diamond Plaza (Hàn Quốc), Parkson (Tập đoàn Lion, Malaysia),... Các tập
đoàn này không chỉ tập trung tại các thành phố có sức mua lớn như TP. Hồ Chí Minh, Hà
Nội mà còn mở rộng phạm vi hoạt động đến các tỉnh thành tại miền Trung, miền Nam.
Nhận định về sự xâm nhập của các thương hiệu bán lẻ nước ngoài vào Việt Nam, ông
Richard Leech, Giám đốc Công ty CB Richard Ellis Việt Nam cho biết, mặc dù bị ảnh

hưởng bởi khủng hoảng kinh tế toàn cầu song năm vừa qua thị trường bán lẻ Việt Nam vẫn
xuất hiện nhiều thương hiệu quốc tế mới như Naf Naf, Morgan de Toi, Mexx, Aldo, Hard
Rock Café, Debenhams. Điều này cho thấy chắc chắn trong năm 2010 sẽ có thêm nhiều
nhà bán lẻ cao cấp nước ngoài tham gia vào thị trường bán lẻ Việt Nam.
3. Ưu điểm của các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam
4
Nhóm I:Tiểu luận kinh tế vĩ mô 2 2010
Trước tiên phải kể đến sự thành lập của hiệp hội các nhà bán lẻ Việt Nam (AVR) vào
ngày 5/10/2007, với hơn 130 doanh nghiệp tham gia. Hiệp hội đóng vai trò quan trọng
trong việc hỗ trợ và nâng cao năng lực cho các nhà bán lẻ Việt Nam, từng bước hình thành
hệ thống bán lẻ Việt Nam với quy mô lớn và tính chuyên nghiệp cao; tham gia xây dựng cơ
chế chính sách, quy hoạch phát triển loại hình kinh tế bán lẻ. Sự ra đời của AVR là cầu nối
để kết nối các doanh nghiệp, tập trung nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp
bán lẻ và là kênh thông tin hữu ích để trao đổi giúp các doanh nghiệp tận dụng những cơ
hội và vượt qua mọi thách thức.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam nhận được ưu đãi về chính sách của
Nhà nước. Chính phủ bảo vệ các doanh nghiệp trong nước bằng những chính sách mà
WTO cho phép như: đào tạo nguồn nhân lực; tìm tòi những công nghệ mới; thiết lập hệ
thống phân phối hiện đại...
Bằng sự nhanh nhạy, linh hoạt và khả năng nắm bắt các yếu tố thay đổi của thị trường,
các nhà bán lẻ trong nước đang có được những lợi thế nhất định. Lợi thế của các nhà bán lẻ
là người Việt Nam có phong trào người Việt ưu tiên dùng hàng Việt, nhu cầu tiêu dùng
Việt Nam ngày càng cao và đa dạng, người tiêu dùng Việt Nam tiếp cận với cách bán hàng
qua Internet, TV shopping, qua di động ngày càng nhiều hơn…Trong tương lai, thị trường
bán lẻ của Việt Nam sẽ sẵn sàng mở cửa cho hội nhập và cạnh tranh bình đẳng đa dạng.
4. Nhược điểm của các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam
Nhận định về thị trường bán lẻ tại Việt Nam, Tiến sỹ Đinh Thị Mỹ Loan – Phó chủ tịch
thường trực, Tổng thư ký Hiệp hội các nhà bán lẻ Việt Nam cho biết: “Thị trường bán lẻ
Việt Nam vẫn có nhiều khó khăn và thách thức như tăng trưởng về số lượng nhưng chưa
bền vững về chất lượng; tính chuyên nghiệp, nguồn nhân lực và kinh nghiệm quản lý còn

yếu; cơ sở hạ tầng để phát triển ngành bán lẻ chưa nhiều” Bên cạnh đó, chúng ta còn gặp
những rào cản khác về vốn, văn hóa phục vụ, công nghệ bán hàng, năng suất lao động,
5
Nhóm I:Tiểu luận kinh tế vĩ mô 2 2010
chưa xây dựng được thương hiệu mạnh... Trong đó 2 điểm yếu nhất của doanh nghiệp bán
lẻ Việt Nam chính là khả năng tài chính và phương thức quản lý.
Ngoài ra còn xuất hiện nhiều bất cập từ phía các cơ quan quản lý Nhà nước như chưa
kiểm soát tốt vấn đề buôn lậu, hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng và chính sách
thuế chưa công bằng. Trong thực tế, những vi phạm Luật Cạnh tranh vẫn xảy ra thường
xuyên.
CHƯƠNG II: WAL-MART VÀ HIỆU ỨNG WAL-MART
6
Nhóm I:Tiểu luận kinh tế vĩ mô 2 2010
1. Giới thiệu về chung về Wal-Mart:
Theo tạp chí Fortune (Mỹ), WalMart được mệnh danh là “nhà bán lẻ hàng hóa được ưa
chuộng nhất”. Với tổng thu nhập trên toàn thế giới là 256 tỉ USD, WalMart được thành
lập với cửa hàng đầu tiên ở Rogers, bang Arkansas (Mỹ) vào năm 1962. người sáng lập
WalMart, Sam Walton
Ngày 31-10-1969, WalMart chính thức trở thành tập đoàn và mang tên WalMart Stores
Inc. Tính đến năm 2005, WalMart có tất cả 1.300.000 công nhân viên trên toàn thế giới,
trở thành tập đoàn tư nhân đông nhân viên nhất thế giới. Phương châm xuyên suốt của
WalMart là quy tắc “người bán hàng vui vẻ” được mọi nhân viên của tập đoàn WalMart
áp dụng. Nhờ đó, bất kỳ khách hàng nào bước vào cửa hàng cũng nhận được nụ cười tươi
tắn từ các nhân viên và sự giúp đỡ lúc cần thiết.
2. Hiệu ứng Wal-Mart:
Wal-mart không chỉ là một cửa hàng, một công ty khổng lồ, hoặc một hiện tượng đơn
thuần. Wal-mart sắp đặt nơi mà chúng ta mua sắm, những mặt hàng được mua, và mức
giá mà chúng ta trả. Wal-mart "thâm nhập" vào bên trong hoạt động của các nhà cung cấp
và thay đổi không chỉ mặt hàng sản xuất, cách bao gói, phương pháp giới thiệu sản phẩm,
mà cả đời sống của công nhân nhà máy. Wal-mart đã vươn tới mọi ngõ ngách của thế

giới, định hình lại công việc và đời sống của người sản xuất đồ chơi ở Trung Quốc,
người nuôi cá hồi ở Chile, và của những người công nhân may ở Bangladesh. Trong khi
đó, thậm chí họ còn chưa bao giờ đặt chân đến một cửa hàng Wal-mart trong đời.
Wal-mart đã thay đổi cả cách chúng ta nghĩ với địa vị là những người tiêu dùng. Wal-
mart đã thay đổi cảm giác của chúng ta về chất lượng, và thế nào là một món hàng được
giá. Những thứ hàng hóa giá rẻ của Wal-mart liên tục lập trình kì vọng của chúng ta về
mức giá hợp lí của tất cả các mặt hàng - từ quần áo cho đến đồ đạc rồi thịt cá. Wal-mart
đã tác động và làm thay đổi chiếc thấu kinh chúng ta đang dùng để quan sát thế giới.
7
Nhóm I:Tiểu luận kinh tế vĩ mô 2 2010
Khi nhìn vào Wal-Mart, trước tiên đó là một thiên đường mua sắm của người tiêu dùng.
Ở đây, khách hàng có đủ lựa chọn, từ hàng hóa bình dân đến cao cấp, và đặc biệt là với
giá luôn thấp hơn ở nhiều nơi khác.
+) Wal-Mart luôn biết cách khiến các nhà cung cấp phải bán hàng với giá rẻ nhất.
+)Các nhà cung cấp của Wal-Mart chỉ có hai lựa chọn: chấp nhận giá Wal-Mart đưa
ra, dù chỉ được lãi rất ít, hoặc không nhận được đơn đặt hàng.
+)Nhiều hãng đã phải phá sản khi muốn đi ngược mong muốn của Wal-Mart, trong đó
nổi tiếng nhất có thể kể tới câu chuyện hũ dưa muối một galong giá 2,97USD của Vlasic.
Phân tích hiệu ứng của Wal-Mart trên những thị trường nó xâm nhập
Sau 45 năm, kể từ khi thành lập tới nay, Wal-Mart đã trở thành một đế chế hùng mạnh
với mạng lưới cửa hàng trên toàn thế giới.
Ở Mỹ, Wal-Mart có tổng cộng1,4 triệu nhân viên làm việc tại khoảng 4.000 chi nhánh.
Doanh thu của Wal-Mart trong một năm bằng GDP của cả Hồng Kông và Malaysia cộng
lại.
Năm ngoái, lượng hàng hoá Wal-Mart nhập khẩu từ Trung Quốc có tổng trị giá lên
tới 27 tỷ USD, bằng tổng xuất khẩu của Trung Quốc sang Singapore.
Tại Trung Quốc, Wal-Mart có 192 siêu thị tại 34 thành phố. Tại Nhật Bản, Wal-Mart
kiểm soát 394 siêu thị Seyu.
Để có thể hiểu sâu hơn về sức mạnh cũng như điểm yếu của gã khổng lồ Walmart, ta có
thể xem xét những hoạt động của nó trên 2 thị trường Canada va Hàn quốc.

Đầu tiên là Canada:
Wal-Mart xâm nhập thị trường Canada vào năm 1994 bằng việc mua lại các cửa hàng
Woolco( Woolco được thành lập năm 1962 tại thành phố Columbus bởi Woolworth
Company. Đó là một chuỗi cửa hàng giảm giá. Trong khi các Woolco đóng cửa ở Mỹ
8

×