PHẦN I
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Việc sử dụng hóa chất độc hại, kim loại nặng, tồn dư thuốc bảo vệ thực
vật (BVTV) và ô nhiễm vi sinh vật trong sản xuất rau đã gây ảnh hưởng
không nhỏ trước mắt cũng như lâu dài đối với sức khỏe của cộng đồng. Tình
trạng ngộ độc thực phẩm nói chung và tình trạng ngộ độc do ăn phải rau
không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm nói riêng đã trở thành nỗi lo cho
chung cho cả xã hội và người tiêu dùng. Đứng trước tình trạng đó nhà nước
đã có nhiều chính sách khuyến khích người nông dân sản xuất nông sản theo
mô hình sản xuất sạch. Tuy nhiên việc tổ chức và quản lý rau hữu cơ (RHC)
từ khâu sản xuất cho đến khâu tiêu thụ còn nảy sinh nhiều bất cập. Người
tiêu dùng không phân biệt được sự khác nhau giữa rau hữu cơ và rau thường,
người sản xuất thì sản xuất với chi phí cao nhưng giá bán không cao nên
không mặn mà sản xuất. Thậm trí chạy theo lợi nhuận mà vi phạm quy trình,
thiếu nhẵn mác, và thậm trí trộn rau thường vào để bán v.v…Sở dĩ có tình
trạng như vậy là do chưa có sự gắn kết chặt chẽ giữa những tác nhân tham
gia sản xuất như người nông dân, nhà nước, các doanh nghiệp, và nhà khoa
học. Một số tỉnh cũng đã áp dụng mô hình trồng rau hữu cơ như Hà Nội,
Hưng Yên… nhưng chưa đạt được kết quả mong muốn. Nhưng đến với
huyện Lương Sơn, Hòa chúng ta sẽ thấy được những thửa ruộng bạt ngàn
màu xanh của rau sạch. Đó là kết quả của một dự án phát triển mô hình hợp
tác xã (HTX) kiểu mới do Viện Nghiên cứu Chính sách Chiến lược Phát
triển Nông nghiệp Nông thôn phối hợp với Tổ chức Hợp tác Phát triển Quốc
tế Tây Ban Nha thực hiện.
1
HTX kiểu mới có sự liên kết “4 nhà” - nhà nông, nhà khoa học, doanh
nghiệp và Nhà nước. Viện Nghiên cứu Chính sách Chiến lược Phát triển
Nông nghiệp Nông thôn hỗ trợ một phần kinh phí xây dựng nhà chế biến,
cung cấp thiết bị quản lý truy xuất nguồn gốc và chất lượng sản phẩm; đầu
tư hệ thống lưới che chắn cây trồng tránh rủi ro về thời tiết, tư vấn thiết lập
mô hình quản lý chất lượng sản phẩm hữu cơ, thông tin tuyên truyền quảng
bá hình ảnh về HTX và các sản phẩm kinh doanh của HTX.
Mô hình này được thực hiện thí điểm trước khi được nhân rộng ra các
khu vực ở tỉnh Hòa Bình và một số tỉnh thành khác, trong cả nước. Kết quả
ban đầu cho thấy hiệu quả đáng kể, góp phần nâng cao thu nhập của nông
dân và đảm bảo tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm. Để đánh giá được
những hiệu quả đó tôi tiến hành thực hiện đề tài “ Nghiên cứu mối liên kết
“4 nhà” trong sản xuất và tiêu thụ rau hữu cơ tại xã Nhuận Trạch huyện
Lương Sơn tỉnh Hòa Bình”
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Nghiên cứu mối liên kết giữa bốn nhà, nhà khoa học, nhà nước, người
nông dân và doanh nghiệp trong quá trình sản xuất và tiêu thụ RHC tại xã
Nhuận Trạch, huyện Lương Sơn, Tỉnh Hòa Bình để từ đó làm cơ sở nhân
rộng quy mô sản xuất trong toàn tỉnh và các tỉnh lân cận.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa cơ sở thực tiễn về sản xuất và tiêu thụ RHC.
- Phân tích thực trạng mối liên kết “bốn nhà” trong sản xuất và tiêu thụ
rau hữu cơ tại xã Nhuận Trạch
- Đánh giá thực trạng và các nhân tố ảnh hưởng đến liên kết “ bốn nhà”
tại địa phương
2
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường mối liên kết “
bốn nhà” trong sản xuất và tiêu thụ RHC tại địa phương
1.3 Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu là mối quan hệ liên kết giữa “ bốn nhà” trong
quá trình sản xuất và tiêu thụ RHC đó chính là nhà nông, nhà nước, nhà
khoa học, và doanh nghiệp
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu về thực
trạng mối liên kết của bốn nhà nhà nông, nhà nước, doanh nghiệp và nhà
khoa học trong quá trình sản xuất và tiêu thụ RHC tại xã Nhuận Trạch huyện
Lương Sơn tỉnh Hòa Bình. Từ đó xác định được những thuận lợi và khó
khăn trong liên kết sản xuất và tiêu thụ RHC. Đưa ra được những giải pháp
chủ yếu nhằm tăng cường mối liên kết “ bốn nhà” trong sản xuất và tiêu thụ
RHC
- Phạm vi về không gian: Đề tài nghiên cứu tại xã Nhuận Trạch, huyện
Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình
- Phạm vi về thời gian : từ ngày 1 tháng 2- ngày 5 tháng 6
PHẦN II
TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
2.1 Cơ sở lý luận của đề tài
2.1.1 Một số khái niệm
2.1.1.1 Khái niệm về sản xuất và tiêu thụ
- Khái niệm về sản xuất:
3
Sản xuất là quá trình phối hợp và điều hòa các yếu tố đầu vào( tài
nguyên hoặc các yếu tố sản xuất) để tạo ra sản phẩm hàng hóa hoặc dịch vụ
(đầu ra). Nếu giả thiết sản xuất sẽ diễn biến một cách có hệ thống với trình
độ sử dụng đầu vào hợp lý, người ta mô tả mối quan hệ giữa đầu vào và đầu
ra bằng một hàm sản xuât
Q = F (X
1
, X
2
, …X
n
)
Trong đó Q là biểu thị số lượng một loại sản phẩm nhất định X
1
, X
2
, X
n
là lượng của một yếu tố đầu vào nào đó được sử dụng trong quá trình sản
xuất. Có hai phương thức sản xuất là:
• Sản xuất mang tính tự cung tự cấp quá trình này thể hiện
trình độ còn thấp của các chủ thể tham gia sản xuất, sản phẩm sản xuất ra chỉ
nhằm mục đích đảm bảo chủ yếu cho các nhu cầu của chính họ, không có
sản phẩm dư thừa cung cấp cho thị trường.
• Sản xuất cho thị trường tức là phát triển theo hướng sản xuất
hàng hóa, sản phẩm sản xuất ra chủ yếu trao đổi trên thị trường, thường
được sản xuất trên quy mô lớn, khối lượng sản phẩm nhiều sản xuất này
mang tính tập trung chuyên canh và tỷ lệ sản phẩm hàng hóa cao.
Phát triển kinh tế thị trường phải hướng theo phương thức thứ 2. Nhưng
cho dù sản xuất theo mục đích nào thì người sản xuất cũng phải trả lời được
ba câu hỏi cơ bản là sản xuất cái gì? Sản xuất cho ai? Sản xuất như thế nào?
Tóm lại sản xuất là quá trình tác động của con người vào các đối tượng
sản xuất thông qua các hoạt động để tạo ra các sản phẩm, hàng hóa dịch vụ
phục vụ đời sống con người.
- Khái niệm về tiêu thụ:
Theo nghĩa rộng: Tiêu thụ sản phẩm là một quá trình kinh tế bao gồm
nhiều khâu có mối quan hệ chặt chẽ với nhau như nghiên cứu thị trường, xác
4
định nhu cầu khách hàng, đặt hàng tổ chức sản xuất, thực hiện các nhiệm vụ
tiêu thụ, xúc tiến bán hàng…nhằm mục đích đạt hiệu quả cao nhất
Theo nghĩa hẹp:
• Tiêu thụ sản phẩm là việc chuyển giao quyền sở hữu sản phẩm
hàng hóa dịch vụ đã thực hiện cho khách hàng đồng thời thu được tiền bán
hàng hoặc được quyền thu tiền
• Tiêu thụ là quá trình thực hiện giá trị cũng như giá trị sử dụng
của hàng hóa. Qua quá trình tiêu thụ thì hàng hóa chuyển từ hình thái hiện
vật sang hình thái giá trị và vòng chu chuyển vốn được hình thành.
• Tiêu thụ sản phẩm được coi là giai đoạn cuối cùng của quá trình
sản xuất kinh doanh, là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp cũng như người sản xuất.
Tóm lại tiêu thụ sản phẩm là hoạt động chuyển hàng hóa từ trạng thái
hiện vật sang trạng thái bằng giá trị nhằm hình thành dòng chu chuyển cảu
mỗi nhà sản xuất kinh doanh thông qua thị trường tiêu thụ sản xuất hàng
hóa.
2.1.1.2 Khái niệm về rau
- Rau là một loại thực phẩm không thể thiếu được trong cuộc sống của
con người. Rau có thể được tiêu dùng dưới dạng tươi hoặc đã qua chế biến.
Theo phân loại sản phẩm thì rau xanh là sản phẩm của nông nghiệp, còn rau
đã qua chế biến là sản phẩm công nghiệp. Như vậy rau xanh không có nghĩa
là rau màu xanh mà là sản phẩm rau tươi ( Tạ Thu Cúc 2006 [1] ). Do yêu
cầu của an toàn rau bao gồm rau thường, rau an toàn và rau hữu cơ.
- Rau thường: Là rau được sản xuất theo phương pháp truyền thống
không theo quy trình sản xuất của ngành. Với nông nghiệp Việt Nam hiện
nay thì rau thường là loại phổ biến, nên khi nói rau thì được hiểu là rau
thường
5
- Rau hữu cơ (RHC)
Khái niệm về RHC được hình thành trên thế giới vào khoảng những
năm 1940. Khi những người tiên phong tìm ra phương pháp canh tác mới
gọi là “ canh tác hữu cơ” nhằm cải tiến phương pháp canh tác truyền thống.
Đây là thời điểm trước khi phát minh ra các hóa chất tổng hợp sử dụng trong
nông nghiệp như phân bón hóa học và thuốc trừ sâu
Đến những năm 1970 cuộc “ cách mạng xanh” trong nông nghiệp bắt
đầu bộc lộ những mặt trái do sử dụng quá nhiều chất trong công tác làm ảnh
hưởng tiêu cực đến môi trường và sức khỏe của người tiêu dung. Người tiêu
dung càng nhận thức rõ hơn lợi ích của nông nghiệp hữu cơ.
Ở nước ta loại cây trồng theo phương pháp canh tác hữu cơ đầu tiên là
cây chè vào đầu những năm 1990. Tiếp theo đó là một số loại cây trồng vật
nuôi khác như cá hữu cơ, lúa hữu cơ, cam hữu cơ, rau hữu cơ…
Hiện nay chưa có một định nghĩa chính thức về RHC tuy nhiên có thể
hiểu RHC là sản phẩm sản xuất theo nguyên lý của nông nghiệp hữu cơ.
Nông nghiệp hữu cơ là một hình thái của nền nông nghiệp trong đó không
dùng phân hóa học, thuốc BVTV, thuốc kích thích tăng trưởng, giống biến
đổi gen ( IOFAM,1992, dẫn theo Nguyễn Thị Thu Trang [5] ).
Các sản phẩm hữu cơ ở đây chủ yếu là các loại phân bón hữu cơ (phân
ủ). Phân hữu cơ là phân đã được ủ hoại mục từ những phế phẩm như rơm,
rạ, phân chuồng. Cây trồng được tưới hoàn toàn bằng nước sạch, ứng dụng
biện pháp quản lý sâu hại tổng hợp( IPM) trong phòng chống sâu bệnh.
Tại Châu Âu, nông nghiệp hữu cơ rất phát triển do người tiêu dùng
không chỉ quan tâm đến sự an toàn tuyệt đối của sản phẩm cho sức khỏe mà
họ còn muốn góp phần gián tiếp bảo vệ môi trường ( Nguyễn Thu Trang,
2008 [5] ). Tại Việt Nam trước thực trạng rau không an toàn, môi trường ô
nhiễm do người dân tự do sử dụng các loại hóa chất thì việc áp dụng biện
6
pháp canh tác hữu cơ sẽ góp phần bảo vệ sức khỏe của chính người sản xuất,
chấm dứt tình trạng ô nhiễm đất, ô nhiễm nguồn nước do không còn sử dụng
hóa chất và đặc biệt là bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng
2.1.1.3 Phân biệt các loại rau
Hiện nay giữa rất nhiều những kênh cung cấp rau với chất lượng rau
khác nhau, việc phân biệt khái niệm các loại rau là rất quan trọng. Trước hết
người tiêu dùng cần phải phân biệt được RHC và rau được gọi là an toàn.
Hai loại sản phẩm trên thường bị lẫn lộn ngay cả trong những báo cáo của
các chuyên gia và trên các phương tiện thong tin đại chúng. Nhưng những
đặc điểm của chúng là khác nhau cho dù cả hai đều an toàn hơn những rau
sản xuất bình thường khác.
Trong sản xuất an toàn ở Việt Nam hóa chất có thể được sử dụng nhưng
so với sản xuất rau thường khối lượng đó rất ít, giới hạn sử dụng này là do
việc áp dụng liều lượng phân bón thích hợp cho giai đoạn phát triển của cây,
lượng thuốc trừ sâu thích hợp với tình hình bệnh, khoảng thời gian sử dụng
các sản phẩm trên và thời gian thu hoạch. Điều này đòi hỏi người sản xuất
phải quan sát thường xuyên và cẩn thận sự sinh trưởng của cây.
RHC là loại rau mà khu trồng được cách ly với những khu vực sản xuất
bên ngoài và trong quá trình sản chăm sóc dùng nguồn nước sạch, phân bón
hữu cơ và phân vi sinh, không dùng phân hóa học.
Sự khác biệt chính giữa sản xuất hữu cơ và sản xuất rau được gọi là an
toàn lien quan tới việc sử dụng các hóa chất. Trong sản xuất hữu cơ không
có hóa chất nào được sử dụng để bón hoặc diệt trừ sâu bọ, chỉ có sản phẩm
tự nhiên như phân xanh được dùng để bón và hỗn hợp gừng tỏi được dùng
để bảo vệ thực vật.
7
Nhưng trong sản xuất rau thường, người nông dân thường sử dụng thuốc
trừ sâu, đôi khi sử dụng cả những loại thuốc trừ sâu độc hại mà Tổ chức
Nông Lương Thế Giới không cho phép
Tiêu chí Rau thường Rau an toàn Rau hữu cơ
Phân bón hóa
học
Sử dụng
không có liều
lượng
Mức độ cho
phép
Tuyệt đối không sử dụng
Thuốc trừ sâu
Sử dụng
không có liều
lượng
Liều lượng cho
phép
Tuyệt đối không sử dụng
Chất kích
thích sinh
trưởng
Sử dụng
không có liều
lượng
Được dùng Tuyệt đối không sử dụng
Việc phân biệt là rất quan trọng vì người tiêu dùng thường suy nghĩ sản
xuất rau an toàn không cần sử dụng một loại hóa chất nào cả, chất luuwongj
của các loại rau là như nhau. Chính vì vậy đã không thúc đẩy phát triển các
phương thức canh tác tiên tiến.
2.1.1.4 Đặc điểm sản xuất và tiêu thụ rau hữu cơ.
- Đặc điểm về sản xuất RHC:
Canh tác hữu cơ là một trong những cách tiếp cận đến nông nghiệp bền
vững. Có rất nhiều kỹ thuật được sử dụng trong công tác hữu cơ như trồng
xen, luân canh, canh tác hỗn hợp, che phủ kết hợp trồng trọt với chăn nuôi.
Quy trình canh tác nông nghiệp hữu cơ nói chung và quá trình kỹ thuật
sản xuất rau hữu cơ nói riêng phải luôn đảm bảo các yếu tố cơ bản sau:
• Yếu tố môi trường: Môi trường phải đảm bảo là một môi trường
sạch (không khí, nước, đất…) được cách ly hoàn toàn với các vùng khác có
thể hình thành các kỹ thuật nhà lồng, nhà lưới.
8
• Yếu tố giá thể: Giá thể sạch, hiện nay có các loại giá thể có thể
dùng trong công tác nghiên cứu là: Đất sạch đã được cách ly( dùng trong sản
xuất hữu cơ có quy mô lớn), giá thể mụn xơ dừa, than bùn, bã mía ( dùng
trong sản xuất hữu cơ quy mô nhỏ)
• Yếu tố nước: Nước dùng trong công tác hữu cơ là nước sạch,
nguồn nước sử dụng phải được kiểm nghiệm là không có hóa chất nhiễm
bẩn…Phương pháp tưới có thể sử dụng phương pháp tưới truyền thống hoặc
là phương pháp tưới nhỏ giọt.
• Hạt giống: Giống kháng bệnh, không biến đổi gen, không xử lý
hạt giống. Nhìn chung khâu giống trong sản xuất hữu cơ mang nhiều tính
truyền thống.
• Phân bón: Trong sản xuất hữu cơ việc sử dụng phân bón luôn
được giám sát rất chặt chẽ để đảm bảo đúng quy trình kỹ thuật và hiệu quả
cao. Các loại phân hóa học không được sử dụng chỉ được sử dụng các loại
phân xanh, phân hữu cơ có nguồn gốc từ sản xuất sinh học ( phân chuồng
trước khi sử dụng phải được đem ử hoại mục)
• Không được phép sưr dụng các loại thuốc BVTV có nguồn gốc
hóa học, các biện pháp BVTV tốt nhất là cách ly, các biện pháp luân canh,
xen canh, dùng thuốc BVTV có nguồn gốc sinh học.
• Quy trình sản xuất nghiêm ngặt, yêu cầu chặt chẽ về điều kiện
sản xuất và đặc điểm sản phẩm nên gây ra cho người sản xuất cung ứng khó
chủ động được hoàn toàn về chất lượng và số lượng rau ra thị trường.
• Tiêu dùng rau hữu cơ còn phụ thuộc vào yếu tố thu nhập, tâm lý,
tập quán, thói quen người tiêu dùng, giá thành sản xuất cao, sản xuất rau hữu
cơ có nhiều ưu điểm nhưng hiện nay vấn đề sản xuất và tiêu thụ RHC vẫn
chưa được phổ biến trong xã hội.
9
- Đặc điểm tiêu thu RHC:
2.1.2 Liên kết trong sản xuất và tiêu thụ RHC.
2.1.2.1 Khái niệm về liên kết và liên kết kinh tế.
- Theo từ điển ngôn ngữ học (1992) thì “ liên kết “ là kết nhau lại với
nhau từ nhiều thành phần hoặc tổ chức riêng rẽ.
- Theo từ điển thuật ngữ kinh tế học của viện nghiên cứu và phổ biến tri
thức bách khoa thì “ Liên kết kinh tế là hình thức hợp tác phối hợp hoạt
động do các đơn vị kinh tế tự nguyện tiến hành nhằm thúc đẩy sản xuất kinh
doanh theo hướng có lợi nhất trong khuôn khổ pháp luật nhà nước. Mục tiêu
của liên kết kinh tế là tạo ra sự ổn định của các hoạt động kinh tế thông qua
các quy chế hoạt động để tiến hành phân công sản xuất, khai thác tốt các
tiềm năng của các đơn vị tham gia liên kết để tạo ra thị trường chung để bảo
vệ lợi ích cho nhau”.
- Theo từ điển kinh tế học hiện đại (David.W.pearce): Liên kết kinh tế
chỉ tình huống mà các khu vực khác nhau của một nền kinh tế thường là khu
vực công nghiệp và nông nghiệp hoạt động phối hợp với nhau một cách có
hiệu quả và phụ thuộc lẫn nhau, là một yếu tố của quá trình phát triển. Nó đi
kèm với phát triển bền vững.
- ( Tác giả Trần Văn Hiếu, 2005 dẫn theo Nguyễn Minh Thương ,2011
[9] ) cho rằng “ Liên kết kinh tế là quá trình thâm nhập, phối hợp với nhau
trong sản xuất kinh doanh của các chủ thể kinh tế đối với hình thức tự
nguyện nhằm thức đẩy sản xuất kinh doanh theo hướng có lợi nhất trong
khuôn khổ pháp luật, thông qua hợp đồng kinh tế khai thác tốt các tiềm năng
của các chủ thể tham gia liên kết kinh tế có thể tiến hành theo chiều dọc
10
hoặc chiều ngang trong một quốc gia hay nhiều quốc gia trong khu vực quốc
tế”.
2.1.2.2 Các chủ thể tham gia liên kết
• Nhà nước
Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, một bộ máy
chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện các chức năng quản lý đặc biệt
nhằm duy trì trật tự xã hội, thực hiện mục đích bảo vệ lợi ích của giai cấp
thống trị trong xã hội (Nguyễn Đình Tuấn, 2006 [6] )
Theo Nguyễn Đình Tuấn (2006) thì Nhà nước là một tổ chức đặc biệt
của quyền lực chính trị trong xã hội có giai cấp, thực hiện chuyên chính giai
cấp và các chức năng quản lý đặc biệt nhằm bảo vệ lợi ích của gai cấp thống
trị trong xã hội, duy trì trật tự xã hội và phục vụ nhu cầu thiết yếu của đời
sống cộng đồng.
Theo Đỗ Kim Chung (2005, [7] ) thì nhà nước là tập hợp các cơ quan
tổ chức có trách nhiệm về các hoạt động hành chính và chỉ đạo thực hiện các
quyết định.
Vậy Nhà nước là tập hợp các cơ quan tổ chức có quyền lực chính trị
trong xã hội. Nhà nước sử dụng quyền lợi đó nhằm bảo vệ lợi ích của mình
trong xã hội, duy trì trật tự xã hội và phục vụ nhu cầu thiết yếu của người
dân.
Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, có bộ máy
chuyên trách để cưỡng chế và quản lý xã hội nhằm thực hiện và bảo vệ trước
hết lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội có giai cấp đối kháng, của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản
trong xã hội xã hội chủ nghĩa.
Trong mối liên kết “4 nhà” trong sản xuất và tiêu thụ RHC tại xã nhuận
Trạch thì nhà nước ở đây chính là chính quyền xã, HTX nông nghiệp. Nhà
11
nước ở đây có vai trò xác nhận hợp đồng tạo điều kiện cho sản xuất RHC,
khuyến khích nông viên, tham gia tập huấn kỹ thuật cho hộ nông dân.
Nhưng sự tham gia của nhà nước ở đây cũng rất ít.
• Nhà khoa học
( Lê Hoa, 2003 dẫn theo Nguyễn Thị Hằng, 2010 [8] ) khoa học là quá
trình nghiên cứu nhằm khám phá ra những kiến thức mới học thuyết mới về
tự nhiên và xã hội. Những kiến thức hay học thuyết mới này tốt hơn, có thể
thay dần những cái cũ không còn phù hợp.
Như vậy, khoa học bao gồm một hệ thống tri thức về quy luật của vật
chất và sự vận động của vật chất, những quy luật của tự nhiên, xã hội và tư
duy. Hệ thống tri thức này hình thành trong lịch sử và không ngừng phát
triển trên cơ sở thực tiễn xã hội.
Nhà khoa học là những người đã nghiên cứu khám phá ra những kiến
thức mới và mong muốn những nghiên cứu đó được áp dụng trong thực tiễn
thay thế cho những nghiên cứu cũ không còn phù hợp. Nhà khoa học đóng
vai trò vô cùng quan trọng trong việc chuyển tải tiến bộ kỹ thuật của mình ra
thực tiễn góp phần nâng cao hiệu quả trong sản xuất kinh doanh.
Nhà khoa học trong mối liên kết này chính là Viện nghiên cứu IPSARP
có vai trò làm cầu nối giữa nông dân và Greenlink dự án ADDA kết hợp tập
huấn. Bên cạnh đó có sự tham gia của trường cao đẳng Bắc Bộ về tập huấn
kỹ thuật cho người dân.
• Nhà doanh nghiệp
Hiện nay trên phương diện lý thuyết có khá nhiều định nghĩa thế nào là
một doanh nghiệp, mỗi định nghĩa đều mang trong nó có một nội dung nhất
định với một giá trị nhất định. Điều ấy cũng là đương nhiên, vì rằng mỗi tác
giả đứng trên một quan điểm khác nhau khi tiếp cận doanh nghiệp để phát
biểu:
12
- Xét theo quan điểm pháp luận: Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế,
có tư cách pháp nhân, có con dấu, có tài sản, có quyền và nghĩa vụ dân sự
hoạt động kinh tế, theo chế độ hoạch toán độc lập, tự chịu trách nhiệm về
toàn bộ hoạt dộng kinh tế trong phạm vi vốn đầu tư do doanh nghiệp quản lý
và chịu sự quản lý của nhà nước bằng các loại luật và chính sách thực thi
- Xét theo quan điểm chức năng: “ Doanh nghiệp là một đơn vị sản xuất
mà tại đó người ta kết hợp các yếu tố sản xuất khác nhau do các nhân viên
của công ty thực hiện nhằm bán ra trên thị trường những sản phẩm hàng hóa
hay dịch vụ để nhận được những khoản tiền chênh lệch giữa giá bán sản
phẩm và giá thành của sản phẩm ấy”
- Xét theo quan điểm phát triển: “ Doanh nghiệp là một cộng đồng
người sản xuất ra những của cải. Nó sinh ra, phát triển, có những thất bại, có
những thành công, có lúc vượt qua những thời kỳ nguy kịch và ngược lại có
lúc phải đóng của sản xuất, đôi khi tiêu vong do gặp phải những khó khăn
không vượt qua đươc ( trích từ sách kinh tế doanh nghiệp của D.Larua.A
Caillat- Nhà xuất bản khoa học xã hội 1992)
- Xét theo quan điểm hệ thống: Doanh nghiệp bao gồm một tập hợp các
bộ phận có tổ chức, có tác động qua lại và theo đuổi cùng một mục tiêu. Các
bộ phận tập hợp trong doanh nghiệp bao gồm 4 phân hệ sau: sản xuất,
thương mại, tổ chúc, nhân sự
Từ các cách nhìn nhận như trên có thể thấy rằng doanh nghiệp rằng
doanh nghiệp là đơn vị kinh tế có tư cách pháp nhân, quy tụ các phương tiện
tài chính, vật chất, và con người nhằm thực hiện các hoạt động sản xuất,
cung ứng, tiêu thụ các sản phẩm hay dịch vụ, trên cơ sở tối đa hóa lợi ích
của người tiêu dùng, thông qua tối đa hóa lợi ích của chủ sở hữu, đồng thời
kết hợp một cách hợp lý các mục tiêu xã hội.
13
Nhà doanh nghiệp trong mối lien kết này là công ty Tâm Đạt và
Greenlink họ có vai trò hỗ trợ kỹ thuật, tập huấn cho người nông dân, mua
sản phẩm.
• Nhà nông
Chủ thể chính trong sản xuất nông nghiệp của nước ta chính là kinh tế
hộ nông dân
Hộ nông dân là tổ chức kinh tế phổ biến nhất cho mọi nền nông nghiệp,
chiếm đại đa số trong cư dân nông nghiệp. Hộ nông dân tồn tại cả ở chế độ
phong kiến, tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Có nhiều cách nhìn khác
nhau về khái niệm và bản chất của hộ nông dân nhưng nhìn chung đều có
điểm chung là : “ Hộ nông dân là hộ có phương tiện kiếm sống dựa trên
ruộng đất, chủ yếu sử dụng lao động gia đình vào sản xuất, luôn nằm trong
hệ thống kinh tế rộng hơn, nhưng về cơ bản được đặc trưng bởi sự tham gia
từng phần vào thị trường với mức độ không hoàn hảo (Đỗ Kim Chung,
2005, [7] )
Từ khái niệm trên ta có các bản chất cơ bản của hộ nông dân đó là:
Hộ nông dân là hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh trong nông, lâm,
ngư nghiệp, bao gồm một nhóm người có cùng huyết tộc hoặc quan hệ huyết
tộc sống trong một mái nhà, có chung một nguồn thu nhập, tiến hành các
hoạt động sản xuất nông nghiệp với mục đích chủ yếu phục vụ cho nhu cầu
của các thành viên trong hộ ( Lê Hoa, 2003 dẫn theo Nguyễn Thị Hằng,
2010, [8])
Hộ nông dân luôn nằm trong hệ thống kinh tế rộng hơn. Sản xuất nông
nghiệp trong kinh tế hộ, tự nó chưa bao giờ là một phương thức sản xuất, nó
luôn nằm trong hệ thống kinh tế rộng hơn, nơi mà có một phương thức sản
xuất khác phổ biến ( kinh tế phong kiến, kinh tế tư bản, kinh tế xã hội chủ
nghĩa), ( Frank Ellis, 1996; Đỗ Kim Chung, 1999).
14
Hộ nông dân tham gia từng phần vào thị trường ở mức độ không hoàn
hảo. Điều đó có nghĩa là hộ nông dân sửu dụng nguồn lực của mình và một
phần nguồn lực mua ở ngoài thị trường. Sự tham gia vào thị trường cao hay
thấp tùy thuộc vào sự phát triển thị trường trong nông nghiệp ở mỗi quốc
gia. Sự tham gia đó thường không hoàn hảo, thể hiện ở chỗ nông dân thường
có sản phẩm trao đổi nhỏ ít biết đầy đủ về thông tin thị trường.
Và nhà nông ở đây chính là những người nông dân tham gia vào công
tác trồng rau hữu cơ.
2.1.3 Các yếu tố ảnh hưởng liên kết sản xuất và tiêu thụ RHC.
2.1.3.1 Phân loại các liên kết
2.1.3.2 Nội dung của liên kết
- Liên kết trong chuyển giao tiến bộ kỹ thuật( giữa nhà khoa học với
người nông dân)
Khái niệm về chuyển gaio tiến bộ kỹ thuật : Theo Swansas và Cloor
1994 thì chuyển giao tiến bộ kỹ thuật hay công nghệ là một quá trình tiếp
diễn nhằm tiếp nhận thông tin có ích cho con người và từ đó giúp họ tiếp thu
được những kiến thức, kỹ năng và quan điểm cần thiết để sử dụng có hiệu
quả lượng thông tin hoặc công nghệ đó. Maunder (Fao, 1973) thì cho rằng :
“ Đó là một dịch vụ hay hệ thống nhằm thông qua các phương thức đào tạo,
giúp đỡ người nông dân cải thiện các phương pháp, kỹ thuật canh tác, tăng
hiệu quả sản xuất và thu nhập, tăng mức sống và nâng cao trình độ giáo dục
xã hội của cuộc sống nông thôn”
Tóm lại, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật đề cập đến một tiến trình, bằng
tiến tình đó, những kỹ thuật được cải tiến sẽ được chuyển giao đến những ai
có thể hưởng lợi hoặc cảm thấy họ có thể hưởng lợi từ những kỹ thuật đó.
Và đây là một hoạt động diễn ra chủ yếu giữa nhà khoa hoc với người nông
dân để giúp cho bà con nông dân có thể cải tiến phương pháp nhằm đem lại
15
hiệu quả sản xuất kinh tế cao nhất. Nhà khoa học đem những kiến thức
những kinh nghiệm khoa học thông qua các cuộc hội thảo, hội nghị để
truyền tải tới người nông dân thậm trí cán bộ khoa học có thể đến tận nơi để
hướng dẫn bà con nông dân thực hiện theo đúng quy trình.
- Liên kết trong việc mua bán nguyên liệu đầu vào trong sản xuất.
Đó là hoạt động chủ yếu diễn ra giữa người nông dân và các doanh
nghiệp. Các doanh nghiệp ở đây có thể là doanh nghiệp tư nhân và doanh
nghiệp nhà nước. Các hộ nông dân để có thể sản xuất được thì cần các
nguyên liệu đầu vào như giống, vốn, phân bón… Và họ phải mua từ các
doanh nghiệp và ngược lại các sản phẩm đầu ra của các hộ nông dân lại là
nguyên liệu đầu vào cho quá trình sản xuất công nghiệp. Vì thế mối liên kết
này diễn ra thông qua các hợp đồng có thể bằng miệng hoặc bằng văn bản để
ký kết mua bán sản phẩm. Các doanh nghiệp có thể hỗ trợ cho người nông
dân đầu vào để họ sản xuất, đồng thời hợp đồng mua lại sản phẩm của họ
sau khi thu hoạch. Để tránh tình trạng cung vượt quá cầu hoặc ngược lại và
hơn nữa để tạo tâm lý yên tâm cho người nông dân khi tham gia sản xuất, và
các doanh nghiệp cũng có sản phẩm cho quá trình sản xuất của mình.
- Liên kết trong tiêu thụ hàng hóa sản phẩm.
Quyết định số 89/ 2002/QĐ- TTg được thủ tướng chính phủ ban hành
ngày 24/06/2002 với nội dung: Khuyến khích các doanh nghiệp thuộc các
thành phần kinh tế ký kết hợp đồng tiêu thụ nông sản hàng hóa với người
sản xuất (Hợp tác xã, hộ nông dân, trang trại, đại diện hộ nông dân) nhằm
gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ nông sản hàng hóa để phát triển sản
xuất ổn định, bền vững. Thông qua đó các doanh nghiệp đã ký kết hợp đồng
mua bán sản phẩm đầu ra với người sản xuất để tạo ra mối tiêu thụ ổn định.
Và ngoài ra nhà nước cũng có vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ người
16
nông dân tiêu thụ sản phẩm. Bằng cách tìm đầu mối tiêu thụ cho họ hay giúp
họ tạo lập thương hiệu cho sản phẩm của mình.
2.1.3.3 Những nguyên tắc cơ bản của liên kết kinh tế.
- Đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh của các chủ thể tham gia
liên kết phát triển và có hiệu quả ngày càng tăng.
Dù liên kết kinh tế dưới hình thức và mức độ nào đi chăng nữa thì yêu
cầu của hoạt động kinh tế ấy phải đảm bảo sản xuất và kinh doanh của các
chủ thế tham gia không ngừng được phát triển, doanh thu ngày càng tăng và
chất lượng sản phẩm ngày càng cao. Liên kết kinh tế phải nâng cao được
trình độ công nghệ, mở rộng mặt hàng sản xuất ngày càng phù hợp với nhu
cầu của thị trường, giá thành hạ đem lại nhiều lợi nhuận cho các chủ thể trên
cơ sở giá bán và chất lượng sản phẩm được người tiêu dùng chấp nhận
- Hai là, phải được hình thành trên tinh thần tự nguyện tham gia của
các bên
Đó là các bên tham gia liên kết phải được hoàn toàn tự nguyện muốn
tham gia. Không được dùng các hình thức để ép buộc, mọi người tham gia
liên kết đều phải nhận thấy được những ích lợi của mình từ việc liên kết và
sẵn sang tham gia trên cơ sở hợp tác cùng có lợi.
- Ba là, phải đảm bảo sự thống nhất hài hoà lợi ích kinh tế giữa các
bên tham gia liên kết
Lợi ích kinh tế chính là động lực thúc đẩy các bên tham gia liên kết kinh
tế với nhau, là chất dính với nhau trong quá trình liên kết. Các bên tìm đến
với nhau thảo thuận tiến hành hợp tác, liên kết với nhau vì họ tìm thấy
những lợi ích lâu dài. Vì vậy, việc đảm bảo thống nhất hài hòa lợi ích giữa
các bên sẽ tạo nên chất kết dính bền vững.
- Bốn là, phải thực hiện được trên cơ sở pháp lý giữa các bên tham gia
liên kết và thông qua hợp đồng kinh tế.
17
Trong nền kinh tế thị trường, mọi hoạt động kinh tế đều phải tiến hành
trên cơ sở pháp luật của nhà nước cho phép, đồng thời được pháp luật bảo
hộ những tranh chấp giữa các bên quan hệ làm ăn với nhau. Cho nên, để có
những căn cứ pháp lý cho các cơ quan pháp luật phán quyết những tranh
chấp giữa các bên có quan hệ kinh tế với nhau đều phải có kế ước hay hợp
đồng kinh tế được ký kết theo đúng luật pháp của quốc gia (Lê Văn Lương,
2009, [10] )
2.1.3.4 Vai trò của liên kết
- Giúp đỡ lẫn nhau tạo nên sức mạnh tổng hợp
Ví dụ nhà doanh nghiệp đầu tư vật tư ban đầu cho nhà sản xuất (nông
dân). Giúp đỡ bao tiêu sản phảm và tiêu thụ đầu ra với giá ổn định cho người
sản xuất an tâm và có lợi nhuận đảm bảo đời sống và phát triển kinh tế.
“Một nhà” là chỗ dựa, là hậu thuẫn, là mốc đầu trong liên hoàn với
“các nhà” khác: Người nông dân dựa vào vốn, chính sách, pháp luật của
Nhà nước (nhà quản lý) để sản xuất đúng hướng và có hiệu quả. Nhà quản lý
cung cấp vốn thông qua ngân hàng, cung cấp thông tin, thị trường cho nông
dân. Nhà quản lý có thể đứng ra tổ chức việc liên kết sản xuất và kinh doanh
đi đúng hướng và có hiệu quả. Nhà khoa học tạo ra giống, quy trình kỹ thuật
và đào tạo, hướng dẫn kỹ thuật sản xuất cho người nông dân…. Là mốc đầu
tiên trong liên hoàn với các nhà khác, chẳng hạn mốc đầu tiên là giống/quy
trình kỹ thuật có từ các nhà khoa học đem đến cho người nông dân sản xuất
và “nhà sản xuất” là mốc đầu tiên trong liên hoàn với “nhà doanh nghiệp” để
tiêu thụ sản phẩm. Nhà doanh nghiệp thường là “mốc cuối cùng” trong liên
hoàn vì là nơi tiêu thụ sản phẩm. Tuy nhiên, cũng có thể là “mốc khởi đầu”
trong nhiều trường hợp. Ví dụ, không những bao tiêu sản phẩm cho nông
dân mà họ còn đầu tư giống ban đầu (để chủ động chất lượng), vật tư, tiền
vốn… Như vậy nhà doanh nghiệp trong liên kết cũng có thuận lợi là chủ
18
động nguồn hàng, định hướng đầu ra, chủ động chất lượng, số lượng ngay từ
đầu để hạch toán và lên kế hoạch kinh doanh hạn chế rủi ro so với kinh
doanh không liên kết.
- Thông qua liên kết, sản xuất mang tính quy mô cao, hiện đại, hạn chế
rủi ro và hiệu quả cao
Do có kế hoạch từ đầu về phương hướng sản xuất, giống kỹ thuật gì? Ai
chịu trách nhiệm từng khâu thế nào, đầu ra ai bao tiêu? Giá cả được định sẵn
có sự thống nhất từ đầu và thị trường đã được các doanh nghiệp định hướng
theo hoạt động kinh doanh thường xuyên của họ. Từ đó, người sản xuất và
người kinh doanh lên phương án và hạch toán sản xuất, kinh doanh ngay từ
ban đầu để biết được chi phí và lợi nhuận một cách chủ động. Với trí tuệ và
sức mạnh tổng hợp của liên kết “nhiều nhà” chắc chắn sẽ hạn chế rủi ro và
thất bại trong sản xuất. Thực tế chứng minh những nơi có sự liên kết tốt, cả
doanh nghiệp và nông dân đều phấn khởi khi mà vụ mùa nào cũng có lợi
nhuận cao và ổn định so với những hộ nông dân sản xuất tự phát và nhỏ lẻ,
manh mún không có cả sự liên kết hoặc hợp tác với nhau.
Như vậy, liên kết chỉ có lợi cho sản xuất của người nông dân và cho cả
nhà doanh nghiệp.
- Liên kết kinh tế giúp cho các tác nhân phản ứng nhanh với các thay đổi
của thị trường.
Đối với nhà sản xuất , liên kết kinh tế sẽ tạo ra sự đa dạng hoá mẫu mã
và chủng loại sản phẩm để đáp ứng được nhu cầu của thị trường. Trong khâu
thương mại liên kết sẽ làm cho sản phẩm được lưu thông nhanh hơn thông
qua hệ thống liên kết của hệ thống nhà thương mại và nhà sản xuất.
Đới với hộ nông dân, liên kết sẽ đảm bảo được thị trường tiêu thụ và
giảm rủi ro về giá cả đối với nông sản sản xuất ra do đã có hợp đồng sẵn
trước đó. Ngoài ra, người nông dân còn được hỗ trợ về giống, vốn, kỹ thuật
19
và các thông tin trên thị trường nên khắc phục được nhiều hạn chế của hộ
nông dân đồng thời tạo điều kiện cho hộ nông dân tiếp cận với công nghệ và
kỹ thuật sản xuất tiên tiến. Do đó sẽ góp phần ổn định sản xuất, tăng thu
nhập cho các hộ nông dân, phát triển kinh tế xã hội của địa phương.
2.1.3.5 Đặc trưng cơ bản của liên kết.
Liên kết là một phạm trù khách quan phản ánh những quan hệ xuất phát
từ lợi ích kinh tế khác nhau của những chủ thể kinh tế cũng như quá trình
vận động và phạm vi của phân công lao động xã hội và chuyên môn hóa sản
xuất kinh doanh ( Trần Văn Hiếu 2002 [11])
Liên kết kinh tế là những quan hệ kinh tế đạt tới trình độ gắn bó chặt
chẽ, ổn định, thường xuyên, lâu dài thông qua những thảo thuận, hợp đồng
từ trước giữa các bên tham gia liên kết. Không phải tất cả các quan hệ kinh
tế nào cũng là liên kết kinh tế. Những quan hệ kinh tế nhất thời, những trao
đổi ngẫu nhiên không thường xuyên giữa các chủ thể kinh tế không hải là
liên kết kinh tế (Nguyễn Thị Hằng, 2010 [8])
Quá trình vận động này, phát triển qua những nấc thang từ quan hệ hợp
tác, liên doanh đến liên hợp, liên minh, hợp nhất lại. Như vậy phân công lao
động và chuyên môn hóa sản xuất, kinh doanh là điều kiện hình thành các
liên kết kinh tế. Còn hợp tác hóa, liên hiệp hóa là những hình thức biểu hiện
của những nấc thang, những bước phát triển của liên kết kinh tế ( Lê Văn
Lương, 2009 [10])
Liên kết kinh tế là những hình thức hoặc biểu hiện của sự hành động
giữa chủ thể liên kết thông qua những thảo thuận, những giao kèo, hợp đồng,
hiệp định, điều lệ nhằm thực hiện những mục tiêu nhất định trong tất cả các
lĩnh vực khác nhau của hoạt động kinh tế ( đầu tư, sản xuất, kinh doanh ).
Tùy theo góc độ xem xét, quá trình liên kết có thể diễn ra liên kết theo
ngành, liên kết giữa các thành phần kinh tế, liên kết theo vùng lãnh thổ
20
2.1.3.6 Ý nghĩa kinh tế xã hội của liên kết
Thực hiện quan hệ hợp tác : Qua liên kết tăng cường quan hệ hợp tác
giữa các bên, giúp cho quan hệ cung cầu phù hợp và hiệu quả hơn.
Tăng cường mối liên minh công nông trí thức: Việc chuyển đổi phương
thức sản xuất nông nghiệp từ tự cung, tự cấp sang sản xuất hàng hóa thì việc
liên minh công nông trí thức có ý nghĩa vô cùng quan trọng, nó giúp cho quá
trình sản xuất- chế biến- tiêu thụ sản phẩm được hiệu quả hơn.
Giải quyết quan hệ phân phối: Thông qua liên kết vấn đề phân phối thu
nhập, trách nhiệm quyền hạn của các bên tham gia liên kết được cụ thể hơn,
sản phẩm đến với người tiêu dùng mạnh hơn.
Thức đẩy nhanh quá trình chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản
xuất mang lại hiệu quả cao hơn, chất lượng sản phẩm làm ra tốt hơn.
Liên kết còn tạo ra sự gắn kết bốn nhà( Nhà nước, nhà khoa học, nhà
nông và doanh nghiệp). Khi các nhà cùng tham gia vào liên kết thì hiệu quả
thu được sẽ cao hơn, đồng bộ hơn trong thực hiện. Với việc tham gia của
nhà nước trong môi liên kết thì tình trạng chồng chéo về cơ chế chính sách
sẽ được hạn chế tối đa thay vào đó là một chính sách đồng bộ trong sản xuất
và tiêu thụ
Với sự có mặt của nhà khoa học, kỹ thuật tiến bộ sẽ được cập nhật và áp
dụng vào trong sản xuất. Còn với các doanh nghiệp và người dân thông qua
liên kết giúp cho họ yên tâm hơn trong sản xuất, mạnh dạn đầu tư cho sản
xuất, ổn định yếu tố đầu vào và thị trường đầu ra, giảm thiểu rủi ro cũng như
được chia sẻ rủi ro trong sản xuất và với sự liên kết như vậy sẽ đạt được hiệu
quả cao nhất trong sản xuất, kinh doanh.
Như vậy liên kết kinh tế sẽ góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế trong sản
xuất và lưu thông hàng hóa, giúp cho nền kinh tế nói chung và nền nông
nghiệp nói riêng ngày càng phát triển bền vững phù hợp với quá trình hội
21
nhập và sự phát triển của nền kinh tế nước nhà theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.
2.1.3.7 Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động liên kết
• Các yếu tố từ hộ sản xuất
Đối vói nhà nông, bộc lộ rõ nhất là sự hạn chế về trình độ học vấn tâm lý
e ngại khi tiếp xúc với các “nhà” khác. Đa số nông dân Việt Nam vẫn chưa
gạt bỏ được tư tưởng hám lợi trước mắt, họ sợ ràng buộc về mặt pháp luật
khi ký kết hợp đồng. Mặt khác có những hộ sản xuất mặc dù đã ký hợp đồng
tiêu thụ với công ty nhưng nơi nào mua với giá cao hơn họ vẫn bán, dẫn đến
tình trạng phá vỡ hợp đồng làm cho các công ty không chủ động được
nguyên liệu. Một yếu tố ảnh hưởng nữa là , mặc dù công ty tạo điều kiện cho
người dân sản xuất bằng cách ứng vốn cung cấp phân bón thu mua với giá
đảm bảo ổn định vậy mà vẫn có trường hợp người dân đơn phương phá vỡ
hợp đồng sẵn sàng bán cho nơi khác khi họ trả giá cao hơn.
Sản xuất của hộ vẫn tự phát, không tập chung, quy mô nhỏ diện tích
manh mún, tư tưởng thay đổi phương thức sản xuất của hộ rất ít, không dám
mạnh dạn đầu tư trong sản xuất, sợ rủi ro trách nhiệm khi tham gia liên kết.
• Các yếu tố từ doanh nghiệp
Các chính sách chế biến thu mua sản phẩm nông sản ổn định nhưng vẫn
còn tình trạng cơ sở chế biến, người mua hoặc giảm giá lại không thông báo
cho người dân nhất là vào thời điểm chính vụ nông sản.
Tình trạng phá vỡ hợp đồng của nông dân vẫn xảy ra nhất là khi thời vụ
khan hiếm mà giá hơn giá thị trường, bởi lẽ chế tài mà các công ty đưa ra để
xử phạt hộ phá vỡ hợp đồng chưa cao mới chỉ dừng lại ở hình thức phạt tiền.
Sự chủ động phối hợp liên kết phục vụ sản xuất, quy hoạch vùng nguyên
liệu của các cơ sở chế biến với cấp chính quyền địa phương với hộ nông dân
chưa cao.
22
• Các yếu tố từ nhà khoa học
Tổ chức khoa học giữ vai trò rất quan trọng trong quá trình liên kết, họ
chính là những người giúp nông dân ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật để nâng
cao năng suất, chất lượng và tăng sức cạnh tranh của hàng hóa. Tuy nhiên sự
tham gia của nhà khoa học còn hạn chế đến nay số đông các cơ quan khoa
học vẫn lúng túng khi thực hiện liên kết “4 nhà”
Trên thực tế vẫn còn thiếu vắng các cơ quan hoặc tổ chức nghiên cứu chủ
động đưa định hướng liên kết thành một ưu tiên trong việc phát triển khai
thác các chương trình, dự án nghiên cứu. Đã có không ít trường hợp nhà
khoa học đưa tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, chế biến sản phẩm, làm lợi hàng
chục tỷ đồng nhưng phần được hưởng của họ hầu như không đáng kể. Nhà
nông và nhà khoa học còn có tâm lý coi công việc của nhà khoa học như một
hoạt động cao cấp mà chưa có sự đền bù thỏa đáng. Đồng thời cũng nảy sinh
ra trường hợp do thiếu quy chế chặt chẽ dẫn đến tình trạng lấy mảnh ruộng
của người dân làm ruộng thí nghiệm của các nhà khoa học hoặc nói cách
khác là “làm thí nghiệm trên lưng người dân” (Nguyễn Phượng Vĩ, trích
theo Nguyễn Thị Minh Thương, 2011, [9]).
• Các yếu tố từ nhà nước
Vai trò, chức năng về trung gian cầu nối của chính quyền các cấp còn
hạn chế do chính sách và do bản thân chính quyền (nhất là chính quyền cấp
cơ sở) đã không phát huy và làm tròn trách nhiệm là trọng tài để giải quyết
các vấn đề ảnh hưởng đến liên kết. Chính quyền cơ sở gần như thả nổi để tự
cơ sở chế biến và hộ sản xuất thảo thuận với nhau trong hợp đồng liên kết
Chính sách chưa thật sự đi sát với người sản xuất nông sản, còn ở dạng
chung chung khiến cho hộ nông dân gặp khó khăn khi vận dụng vào liên kết.
Chính quyền địa phương ít có vai trò trọng tài để giải quyết khi có tranh
chấp xảy ra giữa cơ sở chế biến với hộ nông dân. Nhiều khi chính quyền
23
chưa xác định rõ về sự rằng buộc, trách nhiệm, lợi ích giữa các bên tham gia
dẫn đến phá vỡ quá trình này, nhất là khi cơ sở chế biến vi phạm hợp đồng.
Để có thể duy trì mối quan hệ liên kết “bốn nhà” thì cần có các biện
pháp đối với các tác nhân trong mối liên:
- Nhà nước (chính quyền): Đóng vai trò tổ chức và điều phối giữa các
thành phần (các nhà); có kế hoạch cụ thể cho tiến trình liên kết, thúc đẩy
việc xây dựng các mô hình hợp tác, câu lạc bộ, nhóm sản xuất của nông dân,
có chiến lược quy hoạch các vùng nhiên liệu có tiềm năng, đáp ứng được
nhu cầu của công ty có chính sách hay huy động các nguồn vốn hỗ trợ cho
nông dân và công ty trong sản xuất và tiêu thụ
- Nhà doanh nghiệp:Có chiến lược dài hạn, lấy chữ tín làm đầu và tạo ra
nhiều cơ chế thu hút sự tham gia của các nhà cũng như cần có cơ chế chia sẻ
lợi ích kinh tế cho các bên tham gia, đầu tư xây dựng vùng nguyên liệu và
hợp tác với nông dân để đảm bảo nguồn cung ứng bền vững
- Nhà khoa học: Nhà khoa học tham gia xây dựng quy trình sản xuất tiên
tiến bảo đảm chất lượng và đào tạo nông dân thông qua dự án hay chương
trình tư vấn giúp công ty và cũng cần có những hợp đồng nghiên cứu hay
chuyển giao công nghệ giống như hợp đồng giữa nông dân và doanh nghiệp
thì mới phát huy hiệu quả và bền vững
- Nhà nông: Nông dân cần thay đổi tập quán sản xuất truyền thống và
phải tuân thủ triệt để theo quy trình sản xuất đã được đưa ra bởi nhà khoa
học hay rằng buộc của công ty; nông dân cần năng động liên kết với nhau để
thành lập các HTX, câu lạc bộ hay nhóm nông dân sản xuất để tăng khả
năng cạnh tranh và thuận tiện khi tham gia liên kết cũng như tiếp cận và thụ
hưởng những chính sách của nhà nước và các tổ chức khác; Bên cạnh đó
nông dân cũng cần giữ chữ tín và tuân thủ hợp đồng đã ký kết với các doanh
24
nghiệp, không tự ý phá vỡ khi giá cả biến động, như thế mối liên kết này
mới thực sự đem lại hiệu quả thiết thực.
2.2 Cơ sở thực tiễn của đề tài
2.2.1 Kinh nghiệm về liên kết của một số nước trên thế giới
2.2.1.1 Kinh nghiệm tại Đài Loan
Sự ra đời của các HTX nhóm sản xuất và tiếp thị đã giúp nông dân Đài
Loan yên tâm sản xuất.Trước đây, cũng như bao quốc gia và vùng lãnh thổ
khác, xuất khẩu trái cây là ngành khá xa lạ ở Đài Loan (Trung Quốc). Tại
đây, cây ăn trái lâu năm chiếm tới 80% tổng sản lượng trái cây, trong khi
cây ôn đới chỉ chiếm 20%. Tuy nhiên, từ những năm 1990, khi Đài Loan
tiến hành 6 dự án nhằm làm giảm giá thành sản xuất và tiếp thị, cũng như cải
thiện về mặt chất lượng, tính cạnh tranh của ngành sản xuất trái cây đã có
bước tiến mới.
Diện tích sản xuất nông hộ ở Đài Loan khá nhỏ lẻ, bình quân mỗi hộ chỉ
1,2ha. Làm thế nào để nâng cao giá trị cho nông sản là mối quan tâm hàng
đầu. Nông dân dễ dàng học hỏi những kỹ thuật sản xuất bằng nhiều cách
khác nhau, tuy nhiên làm thế nào để tiếp thị sản phẩm vẫn là vấn đề hóc búa.
Sự yếu kém trong công tác tiếp thị trái cây là do sản xuất còn manh mún,
nhỏ lẻ. Do đó, các nhóm nông dân sản xuất và tiếp thị đã được hình thành
theo mô hình hợp tác xã (HTX) vào năm 1992. Những nhóm này được tổ
chức theo hình thức tự nguyện do những nhóm nông dân trồng cùng một loại
trái cây nằm liền kề nhau. Từng nhóm có từ 10-20 nông dân với diện tích
khoảng 15-30ha. Nhóm này cùng nhau hợp tác để cùng bán và vận chuyển
sản phẩm. Bằng cách này, họ nâng cao năng lực tiếp thị và tăng thu nhập
cho chính họ.
Có khoảng 2.256 nhóm nông dân sản xuất và tiếp thị như vậy ở Đài
Loan và có khoảng 47.613 hộ nông dân sản xuất cây ăn trái tham gia theo
25