Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Phát huy giá trị truyền thống của gia đình Nghệ An trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (919.74 KB, 108 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
***



VĂN THỊ HỒNG



PHÁT HUY GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG
CỦA GIA ĐÌNH NGHỆ AN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY


LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC



Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số: 60 22 85



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS. TS. DƢƠNG XUÂN NGỌC












HÀ NỘI - 2008

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
***




VĂN THỊ HỒNG



PHÁT HUY GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG
CỦA GIA ĐÌNH NGHỆ AN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY







LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC













HÀ NỘI - 2008

1
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Tại đại hội toàn quốc lần thứ X của Đảng cộng sản Việt Nam, trong báo
cáo chính trị của Ban chấp hành trung ương Đảng khoá IX, phần VI, Thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách phát triển,
định hướng về việc phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt
Nam truyền thống trong xây dựng gia đình Việt Nam hiện đại đã được Đảng ta
xác định: “Phát huy những giá trị truyền thống gia đình Việt Nam, thích ứng với
điều kiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Xây dựng gia đình Việt Nam
ấm no, bình đẳng tiến bộ hạnh phúc, thực sự là tổ ấm của mỗi người, là tế bào
lành mạnh của xã hội là môi trường quan trọng để nuôi dưỡng và giáo dục nhân
cách con người, bảo tồn và phát huy giá trị truyền thống tốt đẹp, tạo nguồn nhân
lực để phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [10, tr.103 -104].
Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi thân yêu để nuôi dưỡng, giáo dục
nhân cách con người … Từ xưa đến nay, gia đình luôn được các cá nhân, các
giai cấp, các chế độ xã hội quan tâm. Trong quá trình phát triển của lịch sử, gia
đình có sự vận động hay đổi nhất định cùng với quá trình đó là quá trình phát
triển tất yếu của mối quan hệ biện chứng của gia đình và xã hội. Trong sự phát

triển của gia đình các chức năng cơ bản và các giá trị của gia đình ngày càng
được khẳng định và phát huy.
Sự chuyển hướng cơ chế quản lý nền kinh tế nước ta từ cơ chế tập trung
bao cấp sang cơ chế thị trường đã và đang mang đến những thay đổi tích cực
cho sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội của đất nước và cho cả từng gia đình,
từng con người. Nhưng cùng đồng hành với quá trình đó, là những tiêu cực,
những tệ nạn xã hội, đặc biệt là sự xuống cấp về đạo đức lối sống, xem nhẹ
những giá trị truyền thống… Gia đình, một trong những nơi lưu truyền cơ bản
các giá trị truyền thống của dân tộc, nhưng hiện nay những tiêu cực, những tệ
nạn của xã hội, sự xuống cấp về đạo đức của một bộ phận người đã len lỏi vào,

2
trong mỗi gia đình làm cho giá trị truyền thống của một bộ phận gia đình bị biến
dạng suy thoái.
Nghệ An, một tỉnh có diện tích rộng nhất nước, tài nguyên phong phú, đa
dạng và là miền khí hậu khắc nghiệt nhất trong cả nước. Con người nơi đây giàu
truyền thống, hiếu học, cần cù, chịu khó. Trong công cuộc đổi mới, Tỉnh Uỷ, Uỷ
Ban nhân dân tỉnh Nghệ An lãnh đạo nhân dân khắc phục những khó khăn từng
bước xây dựng phát triển kinh tế - xã hội. Đời sống các gia đình ở Nghệ An
ngày càng được nâng cao về chất lượng. Nhưng trong sự phát triển chung của
Nghệ An, ngay từ trong mỗi gia đình xứ Nghệ cũng đã xuất hiện những biểu
hiện của sự suy thoái, mai một các chuẩn giá trị truyền thống đang cản trở quá
trình xây dựng gia đình văn hóa và trong phát triển kinh tế - xã hội.
Xuất phát từ lý luận khoa học và thực tiễn về vấn đề gia đình ở Việt Nam
nói chung, gia đình Nghệ An nói riêng , tác giả đã đi đến lựa chọn và thực hiện
đề tài: “Phát huy giá trị truyền thống của gia đình Nghệ An trong giai đoạn
hiện nay” làm luận văn thạc sỹ chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học.
2. Tình hình nghiên cứu
Đề tài về gia đình nói chung, về truyền thống gia đình, về gia đình Nghệ
An nói riêng đang là đề tài được các nhà khoa học nghiên cứu, phân tích ở nhiều

góc độ khác nhau và các hoạt động thực tiễn nhằm bảo vệ, phát triển gia đình
được Đảng, Nhà nước và các tổ chức xã hội hết sức quan tâm đầu tư hộ trở bằng
nhiều chính sách khác nhau. Tác giả luận văn xin nêu ra một số công trình, bài
viết mà mình được tiếp cận tham khảo trong thời gian qua. Cụ thể:
Nghiên cứu chung về gia đình đã có các công trình, bài viết của các tác
giả: Giáo Sư Lê Thi có công trình nghiên cứu “Gia đình Việt Nam trong bối
cảnh đất nước đổi mới”, Nxb Khoa học xã hội, năm 2002 phản ánh về thực trạng
tình hình gia đình Việt Nam trong giai đoạn đổi mới và giai đoạn đầu của thế kỷ
XXI. Công trình đã đề ra một số biện pháp xây dựng văn hoá gia đình và gia
đình văn hoá trong giai đoạn mới. Giáo sư Vũ Ngọc Khánh có tác phẩm “Văn
hoá gia đình việt Nam”, Nxb Thanh niên, năm 2007 giới thiệu về lịch sử văn hoá
gia đình Việt Nam, phong tục, truyền thống gia đình ở một số vùng miền trên

3
đất nước. và những câu chuyện về phong tục, tập quán, cách giáo dục của các
gia đình một số nước trên thế giới. Qua hệ thống những kiến thức đó tác giả gửi
đến các gia đình hiện đại Việt Nam những kinh nghiệm, những cách nhìn đúng
đắn trong nuôi dạy con cái. Hai tác giả Vũ Hiếu Dân và Ngân Hà biên soạn cuốn
“Văn hoá tâm lý gia đình”, Nxb Văn hoá Thông Tin, Hà Nội, năm 2001. Đưa ra
hệ thống những lời khuyên, phương pháp ứng xử của các thành viên trong gia
đình để xây dựng một gia đình hạnh phúc.Tác phẩm: “Gia đình trên hết” của
tiến sỹ Phil Mc Graw, do Đỗ Thu Hà dịch, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội, năm
2005 tác giả đã nhấn mạnh vị trí của gia đình đối với mỗi người trên trái đất. Tác
giả đã dùng những câu chuyện thực về cuộc đời mình đưa đến cho các bậc cha
mẹ những thông điệp về vai trò trách nhiệm của mình trong tương lai của con
cái, đồng thời tác giả còn gửi đến những kinh nghiệm, phương pháp nuôi dạy
con cho các bậc phụ huynh. Bên cạnh những công trình có rất nhiều bài viết trên
các tạp chí khoa học, ngành khác nhau như: Ngô Ngọc Anh – Hoàng Thị Tây
Ninh với bài viết: “Giáo dục gia đình đối với việc phong ngừa hành vi sai lệch ở
trẻ vị thành niên”, Tạp chí gia đình và trẻ em số 4/2005; Lê thi Quý có bài: “gia

đình Việt Nam – nghiên cứu và đề xuất”, Tạp chí gia đình và trẻ em số 6/2005;
Lương thị Cảnh trong tạp chí gia đình và trẻ em có bài: “Văn hoá truyền thống
gia đình trước thách thức toàn cầu hoá” Tạp chí gia đình và trẻ em, số 8/05.
Đặng Cảnh Khang với bài: “Gia đình là một giá trị”, Tạp chí gia đình và trẻ em
số 9/2005; Phạm Tất Dong với bài: “Gia đình và việc học tập của con cái”, Tạp
chí gia đình và trẻ em số 9/2005…Các bài viết trên nghiên cứu và đề cập đến
các khía cạch khác nhau của gia đình; cho thấy vị trí, vai trò, chức năng của gia
đình đối với cá nhân và xã hội.
Bên cạnh những công trình khoa học những bài viết, về gia đình thì có rất
nhiều những Luân văn, luận án tiến sỹ nghiên cứu về gia đình như: Luận văn
thạc sỹ chuyên ngành CNXH của Trần Đình Tài về: “một số vấn đề về thực hiện
các chức năng gia đình hiện nay”, năm 1995; Luận văn thạc sỹ chuyên ngành
triết học của Hoàng Thị Linh về: “Vấn đề phụ nữ trong gia đình hiện nay, thực
trạng và giải pháp”, năm 1996; Luận văn thạc sỹ chuyên ngành CNDVBC và

4
CNDVLS của Lê Thanh Hà về: “Kế thừa phát huy những giá trị đạo đức của gia
đình truyền thống trong việc xây dựng gia đình văn hoá nước ta hiện nay”,
năm1999; Luận án tiến sỹ chuyên ngành CNXH khoa học của Nghiêm sỹ Luân:
“Vai trò của gia đình trong việc giáo dục thế hệ trẻ nước ta hiện nay”, năm 2001.
Các Luận văn, luận án đã phân tích chi tiết sâu sắc các mặt của gia đình, những
chuyển biến của gia đình Việt Nam từ truyền thống sang hiện đại và đi đến đề ra
những phương hướng xây dựng và phát triển gia đình theo các góc độ được
nghiên cứu.
Những đề tài về giá trị truyền thống gia đình và giá trị truyền thống gia
đình ở Nghệ An. Đề tài này cũng đã có nhiều tác giả và các công trình được
nghiên cứu và công bố như: giáo sư Trần Văn Giàu với cuốn “Giá trị tinh thần
truyền thống của dân tộc Việt Nam”, Nxb Hà Nội Năm 1980, giáo sư đã cho
phân tích quá trình hun đúc, hình thành những giá trị truyền thống của dân tộc
Việt Nam, những giá trị ấy là những bản sắc độc đáo của dân tộc Việt Nam

trong mọi thời đại, đó là thành quả của các gia đình, của các thế hệ người Việt
chắt lọc bảo vệ phát triển lên. Nguyễn Trọng Chuẩn có bài: “Vấn đề khai thác
giá trị truyền thống vì mục tiêu phát triển”, triết học số 2/1998; Lê thị Tuyết Ba
có bài: “Bảo vệ các giá trị đạo đức truyền thống trong nền kinh tế thị trường ở
Việt Nam”, Tạp chí Triết học số 02/1999; Lương thị Cảnh có bài: “Văn hoá
truyền thống gia đình trước thách thức toàn cầu”, Tạp chí gia đình và trẻ em, số
6/2005; Luận văn thạc sỹ chuyên ngành triết học của Nguyễn thị Minh Hạnh về:
“Giá trị đạo đức truyền thống với sự hình thành nhân cách con người Việt Nam
”, năm 2003.
Nghệ An có các công trình nghiên cứu có: Hội thảo về “Văn hoá các
dòng họ ở Nghệ An” do Hội văn nghệ dân gian Nghệ An, sở Khoa học công
nghệ và môi trường Nghệ An, Uỷ ban dân số và kế hoạch hoá gia đình Nghệ an,
Viện nghiên cứu văn hoá dân gian tổ chức, năm 1997. Hội thảo đã thu hút được
đông đảo các nhà khoa học, những người có tâm huyết với văn hoá gia đình
dòng họ tham gia viết bài. Các bài viết đã nghiên cứu giới thiệu các dòng họ nổi
tiếng ở Nghệ An với các truyền thống đạo đức tốt đẹp, đồng thời phân tích

5
khẳng định vai trò của văn hoá dòng họ trong chiến lược xây dựng phát triển con
người thế kỷ XXI. Cuốn: “Hương ước Nghệ An” do phó giáo sư Ninh Viết Giao
chủ biên, Nxb CTQG, năm 1998 giới thiệu về các “lệ làng, phép nước” thời
phong kiến của Nghệ An, những phép vua, lệ làng được nhân dân ửng hộ và
chấp hành nghiên túc, chính cũng là cơ sở để các gia đình vượt qua những khó
khăn về điều kiện hoàn cảnh lúc bấy giờ để xây dựng cuộc sống gia đình, bảo vệ
quê hương. Cuốn “Khoa bảng Nghệ An” của Đào Tỉnh Tam Nxb Nghệ An, năm
2000 giới thiệu cụ thể về các gia đình, dòng họ hiếu học Xứ Nghệ - một truyền
thống tiêu biểu của con người Nghệ An. Và Hội thảo với chủ đề về: “Gia phong
xứ nghệ trong bối cảnh đất nước đổi mới”, do UỶ ban dân số gia đình và trẻ em,
Sở văn hóa thông tin, Hội văn nghệ dân gian tỉnh Nghệ An tố chức, năm 2004,
các bài viết tham gia hội thảo đã phản ánh nhiều góc cạnh khác nhau về vấn đề

gia phong gia đình Nghệ An trước và nay. Trước xu hướng biến thái của hiện
tượng đạo đức xã hội và gia đình hội thảo đã có ý nghĩa lớn đối với việc nhìn lại
truyền thống gia đình xứ nghệ đã và đang được kế thừa phát triển như thế nào
trong các gia đình hiện nay
Các công trình, bài viết về gia đình ở nhiều góc cạnh khác nhau, đến nay
thực sự rất đa dạng, phong phú. Nhưng cũng qua nghiên cứu tham khảo tác giả
thấy chưa có công trình nào cụ thể đi sâu vào nghiên cứu về truyền thống gia
đình ở Nghệ An. Vì vậy tác giả chọn vấn đề “Phát huy giá trị truyền thống của
gia đình Nghệ An trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài nghiên cứu. Những công
trình bài viết trên là những tài liệu tham khảo cho luân văn của mình.
3. Mục đích nghiên cứu của luận văn
3.1 Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở làm rõ về lý luận và thực tiễn giá trị truyền thống của gia đình
và thực trạng việc phát huy giá trị truyền thống của gia đình Nghệ An, luận văn
đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm tiếp tục phát huy giá trị truyền
thống của gia đình ở Nghệ An nói riêng, gia đình Việt Nam nói chung trong thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

6
3.2 Nhiệm vụ của luận văn:
Để đạt được mục đích nói trên, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm
vụ sau:
- Làm rõ những giá trị truyền thống gia đình, những tác động của chúng
đối với sự phát triển cá nhân và xã hội.
- Phân tích, lý giải những xu hướng tích cực và hạn chế của sự vận động,
biến đổi gia đình ở Nghệ An trong tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế
- Đánh giá thực trạng việc phát huy những giá trị truyền thống của gia
đình Nghệ An trong thời gian qua
- Đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm tiếp tục phát huy
những giá trị truyền thống của gia đình Nghệ An nói riêng, gia đình Việt Nam

nói chung trong thời kỳ phát triển mới của đất nước.
4. Đối tƣợng và phạp vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: gia đình ở Nghệ An trong thời kỳ đẩy mạnh toàn
diện công cuộc đổi mới.
- Phạm vi nghiên cứu: truyền thống của gia đình có những mặt tích cực
và hạn chế, nhưng luân văn chủ yếu tập trung nghiên cứu, phân tích những mặt
tích cực cần được kế thừa phát triển trong xã hội mới. Nói cách khác, luận văn
chủ yếu tập trung nghiên cứu những giá trị truyền thống gia đình ở Nghệ An.
- Đề tài nghiên cứu khảo sát thực tiễn thực tế một số dòng họ tiêu biểu ở
Nghệ An và thực tiễn việc phát huy giá trị truyền thống của gia đình Nghệ An từ
năm 2000 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
- Cơ sở lý luận: Dựa trên các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đường lối chính sách của Đảng, Chính sách,
pháp luật của Nhà nước và những tài liệu công trình nghiên cứu về gia đình.
- Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin: DVBC và DVLS , phương pháp kết hợp logic với lịch sử, phương
pháp thống kê, điều tra xã hội học…

7
6. Đóng góp mới của luận văn
- Trên cơ sở khảo sát, điều tra thực tiễn ở Nghệ An, luận văn luận chứng
khoa học về giá trị truyền thống của gia đình và những biến động của những giá
trị truyền thống gia đình Nghệ An.
- Luận văn đề xuất một số phương hướng, giải pháp nhằm phát huy giá
trị truyền thống tốt đẹp của gia đình trong xây dựng gia đình mới ở Nghệ An.
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ đóng góp làm tài liệu tham khảo trong
chiến lược xây dựng phát triển gia đình ở Nghệ An; làm tài liệu tham khảo trong
giảng dạy, học tập các chuyên đề về gia đình của các bộ môn CNXH khoa học;
Tâm lý học; Xã hội học và là tài liệu tham khảo cho các công trình nghiên cứu

khác về gia đình.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo đề tài
gồm có 3 chương, 7 tiết.
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận của việc phát huy giá trị truyền thống của gia
đình.
Chƣơng 2: Thực trạng việc phát huy giá trị truyền thống của gia đình ở
Nghệ An hiện nay.
Chƣơng 3: Phương hướng và những giải pháp tiếp tục phát huy giá trị
truyền thống của gia đình ở Nghệ An.









8
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC PHÁT HUY
GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG CỦA GIA ĐÌNH

1.1. Gia đình và truyền thống của gia đình
1.1.1. Gia đình
Thời đại nào cũng vậy, hai từ gia đình thường được nhắc đến với những
gì ngọt ngào nhất, trân trọng nhất như: Gia đình là tổ ấm; gia đình là cái nôi thân
yêu; gia đình là trường học đầu tiên của mỗi người hay gia đình là tế bào của xã
hội. Vậy gia đình là gì? Theo nghiên cứu của các nhà khoa học xã hội, của các

ngành khoa học?
Gia đình là một phạm trù lịch sử, thay đổi và phát triển cùng với sự thay
đổi và phát triển của lịch sử. Vì vậy từ cổ chí kim, từ đông sang tây có rất nhiều
định nghĩa về gia đình. Trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” (1845), khi luận
chứng về những điều kiện tiền đề cho sự tồn tại của con người C. Mác đã đưa ra
định nghĩa về gia đình: Hàng ngày tái tạo ra đời sống bản thân mình, con người
còn tạo ra những người khác, sinh sôi nảy nở - đó là quan hệ giữa vợ và chồng,
cha mẹ và con cái, đó là gia đình.(30, tr41).
Với quan niệm này, khái niệm gia đình được làm rõ; Thứ nhất, Gia đình
ra đời và tồn tại cùng với sự ra đời và tồn tại của xã hội loài người, cùng với quá
trình tái tạo ra bản thân con người. Thứ hai, con người được tạo ra chủ yếu bởi
hai mối quan hệ hôn nhân và huyết thống. Đồng thời khái niệm gia đình còn
luôn gắn liền với khái niệm xã hội, trong đó gia đình được xem là tế bào của xã
hội.
Trong tác phẩm “nguồn gốc của gia đình, nguồn gốc của chế độ tư hữu và
của nhà nước” (1884) Ph. Ăng ghen đã phân tích mối quan hệ biện chứng giữa
gia đình và xã hội: “Nhân tố quyết định nhất trong lịch sử, quy đến cùng là sản
xuất và tái sản xuất ra đời sống trực tiếp. Nhưng bản thân sự tái sản xuất đó lại
có hai loại - một mặt là sản xuất ra tư liệu sinh hoạt, ra thức ăn quần áo nhà ở và

9
những công cụ cần thiết để sản xuất ra những thứ đó; mặt khác, là sự sản xuất ra
bản thân con người, là sự truyền nòi giống. Những trật tự xã hội, trong đó có
những con người của một thời đại lịch sử nhất định đang sống là do hai loại sản
xuất đó quyết định : một mặt do trình độ phát triển của lao động và mặt khác là
do trình độ phát triển của gia đình” [31, tr.44].
Như vậy, theo Ăng ghen, các mô hình gia đình trong lịch sử luôn gắn với
phương thức sản xuất và chế độ xã hội xác định. Sự vận động, biến đổi của gia
đình luôn vận động biến đổi cùng với sự vận động biến đổi của lịch sử xã hội.
Gia đình luôn gắn liền với đặc trưng và trình độ của phương thức sản xuất

của một xã hội nhất định. Lịch sử đã chứng minh rằng, trong quá trình vận động
của mình, mỗi hình thái kinh tế - xã hội có những hình thức gia đình tương ứng.
Theo quan điểm của Moóc - gan và được Ăngghen tán thành thì: Gia đình là một
yếu tố năng động, nó không bao giờ đứng nguyên một chỗ, mà nó chuyển từ
hình thức thấp lên hình thức cao, như xã hội phát triển từ một giai đoạn thấp lên
một giai đoạn cao.
Trong tác phẩm “xã hội cổ đại”, Moóc gan đã trình bày gia đình dưới góc
độ hôn nhân trong tiến trình lịch sử thông qua những nghiên cứu thực tế về đời
sống của những người da đỏ Ha - Oai đó là: Một bầy người sống trong tình trạng
tạp giao bừa bãi; gia đình huyết tộc: gia đình trên cơ sở quần hôn giữa anh chị
em ruột và anh, em họ; gia đình Panaluan: Giữa trên quần hôn giữa vài anh chị
em ruột và anh chị em họ với những người chồng của mỗi người trong số chị em
đó, những người chồng chung không nhất thiết phải có quan hệ thân thuộc với
nhau; gia đình đối ngẫu dựa trên quan hệ hôn nhân theo từng cặp nhưng hai vợ
chồng không đầy đủ, gia đình phụ hệ dựa trên hôn nhân của một người đàn ông
và vài người đàn bà tuy điều đó không phổ biến ở tất cả và gia đình một vợ một
chồng.
Sự phân chia lịch sử phát triển các loại hình gia đình này chỉ có tính tương
đối có rất nhiều quan điểm đồng tình ủng hổ nhưng cũng có nhiều quan điểm
không nhất trí với sự phân chia của Moóc gan.

10
Ngày nay , cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ và những biến
đổi sâu sắc trên lĩnh vực của đời sống xã hội quan niệm về gia đình cũng có rất
nhiều và có những nét khác trước. Những khái niệm gia đình trước đây chưa bao
giờ xuất hiện thì bây giờ được nhắc đến, bàn luận như: “Gia đình không con”,
“Gia đình hợp đồng”, “Gia đình đồng tính luyến ái”…Trong sự xuất hiện này nó
vừa biểu hiện sự đa dạng phong phú, vừa biểu hiện sự suy thoái biến tướng của
gia đình.
Đấy là những vấn đề lịch sử chung về khái niệm gia đình. Vậy gia đình ở

Việt Nam như thế nào?
Gia đình Việt Nam, ra đời trên cơ sở một nền văn hoá và truyền thống xã
hội đặc thù. Gia đình Việt Nam trong lịch sử được nghiên cứu dưới rất nhiều
góc độ khác nhau. Theo Đại từ điển tiếng việt: “Gia đình là tập hợp những người
có quan hệ hôn nhân và huyết thống, sống chung cùng một nhà” [43, tr.719].
Trong cuốn tâm lý học gia đình, Ngô Công Hoan đã đưa ra khái niệm: “Gia đình
là một nhóm nhỏ xã hội, có quan hệ gắn bó về hôn nhân hoặc huyết thống, tâm
sinh lý, có chung các giá trị vật chất, tinh thần, ổn định trong các thời điểm lịch
sử” [23, tr.9].Cũng dưới góc độ tâm lý học, trong cuốn “Tâm lý gia đình” tác giả
Nguyễn Khắc Viện đã đưa ra định nghĩa: “Gia đình đó là sự chung sống giữa hai
nhóm người, cha mẹ, con cái, nó cùng một mối quan hệ là những người sinh ra
và những người nối dõi” [45, tr.20]. Dưới góc độ luật học nhà nghiên cứu
Nguyễn Quốc Tuấn cho rằng: “Gia đình là tập hợp những người dựa trên các
quan hệ về hôn nhân và huyết thống, nuôi dưỡng đã gắn bó nhiều người có quan
hệ với nhau bởi các quyền và nghĩa vụ về tài sản và thân nhân, bởi sự cộng đồng
về đạo đức và vật chất, để tương trở nhau, cùng làm kinh tế chung và nuôi dạy
con cái” [40, tr.15-16]. Còn tác giả Lê Thi viết: “khái niệm gia đình được sử
dụng để chỉ một nhóm xã hội hình thành trên cơ sở quan hệ hôn nhân và huyết
thống, nảy sinh từ quan hệ hôn nhân đó và cùng chung sống (cha mẹ, con cái,
ông bà, nội ngoại). Đồng thời gia đình cũng bao gồm một số người được gia
đình nuôi dưỡng, tuy không có quan hệ huyết thống. Các thành viên trong gia
đình về trách nhiệm và quyền lợi (kinh tế, văn hoá, tình cảm), giữa họ có nhiều

11
ràng buộc có tính pháp lý được nhà nước thừa nhận và bảo vệ (được ghi rõ trong
luật hôn nhân và gia đình nước ta). Đồng thời, trong gia đình có những nhận
định rõ ràng về quyền được phép và cấm đoán về quan hệ tình dục giữa các
thành viên” (28, tr.20-21). Với những quan niệm đó về gia đình, tác giả đã xem
gia đình như một nhóm tâm lý tình cảm xã hội đặc thù, vừa là một thiết chế xã
hội. Tác giả đã làm rõ mặt nổi bẩt của gia đình là một nhóm tâm lý - tình cảm xã

hội đặc thù. Gia đình vừa được kết cấu, duy trì củng cố bởi các quan hệ nội tại
giữa các thành viên, bắt nguồn từ các quan hệ huyết thống ruột thịt và quan hệ
tình cảm. Quan hệ giữa họ là quan hệ huyết thống, tình cảm là trách nhiệm và sự
quan tâm thường xuyên gắn bó lâu dài, để tạo nên sự bền vững của gia đình.
Trong chỉ thị của Ban Bí Thư số 49 - CT/TW “về xây dựng gia đình thời
kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” khẳng định: Gia đình là tế bào của
xã hội, nơi duy trì nòi giống là môi trường quan trọng hình thành, nuôi dưỡng và
giáo dục nhân cách con người, bảo tồn và phát huy văn hoá truyền thống tốt đẹp,
chống lại các tệ nạn xã hội, nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ tổ quốc… trải qua nhiều thời kỳ lịch sử gia đình Việt Nam được hình thành
và phát triển với những chuẩn mực và giá trị tốt đẹp góp phần xây dựng bản sắc
văn hoá dân tộc.
Gia đình Việt Nam thời kỳ nào cũng có một vai trò quan trọng đối với
mỗi con người cũng như xã hội. Đến nay, gia đình Việt Nam - truyền thống hay
hiện đại đều được xây dựng dựa trên cơ sở mối quan hệ hôn nhân và quan hệ
huyết thống. Vị trí vai trò của gia đình đối với cá nhân là tổ ấm mang lại những
giá trị hài hoà trong đời sống vất chất và tinh thần của mỗi con người; đối với xã
hội gia đình là tế bào, cơ sở xã hội - nhỏ nhất - đầu tiên.
Trong lịch sử Việt Nam khi nhắc đến gia đình, có hai loại hình gia đình
được phân tách rõ ràng bằng hai khái niệm: Gia đình truyền thống và gia đình
hiện đại. Nhưng trên thực tế sự khác nhau giữa hai khái niệm gia đình truyền
thống và gia đình hiện đại chỉ có ý nghĩa tương đối, sự khác nhau đó được biểu
hiện như ở cấu trúc, quy mô, quan niệm sống.

12
Gia đình truyền thống Việt Nam được hiểu cơ bản theo hai dạng: thứ
nhất, Gia đình truyền thống là khái niệm mà các nhà nghiên cứu dùng để chỉ loại
hình đã hình thành và tồn tại trong quá khứ mà trong đó chứa đựng những yếu tố
tích cực, hạn chế được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, ra đời, phát
triển trong nền văn minh nông nghiệp, phản ánh nền văn hoá bản địa và tạo nên

nét đặc sắc của văn hoá dân tộc. Như vậy, gia đình truyền thống Việt Nam là sản
phẩm của nền văn minh lúa nước, tồn tại ở địa bàn nông thôn. Đó là loại gia
đình mà giáo sư Đỗ Thái Đồng viết: “Gia đình truyền thống chắc hẳn gia đình ở
nông thôn, là gia đình ở xã hội nông nghiệp Á đông đã tồn tại lâu đời và gần như
bất biến trên nhiều khía cạnh. Như vậy, đó cũng là kiểu gia đình nông nghiệp, là
một định chế gắn với nền nông nghiệp cổ truyền” [12, tr.67].
Thứ hai, gia đình truyền thống cũng có lúc được hiểu là gia đình nho giáo.
Điều đó hoàn toàn hợp lý, vì xã hội Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc của hệ tư
tưởng nho giáo, điều đó được thể hiện trong nguyên tắc đạo đức lối sống của
con người Việt Nam trong xã hội phong kiến. Trong gia đình những nguyên tắc
đạo đức, bổn phận cách ứng xử của các thành viên trong gia đình đặc biệt là các
gia đình ở thành thị. Vì vậy gia đình truyền thống nước ta chứa đựng đầy đủ các
yếu tố tích cực gia giáo, nho nhã, lẫn yếu tố lạc hậu trì trễ của nền sản xuất nông
nghiệp, tư tưởng bảo thủ cứng nhắc của nho giáo.
Gia đình truyền thống được thể hiện ở cấu trúc, quy mô: “tam, tứ, ngũ đại
đồng đường”, sự tồn tại gia đình nhiều thế hệ phổ biến trong một ngôi nhà hoặc
trong một làng; quan niệm đông con lắm phúc, lắm lộc đã trở thành một giá trị
trong gia đình truyền thống; các gia đình có mối liên kết chặt chẽ theo dòng họ
và vì cơ sở xây dựng hôn nhân gia đình phải dựa trên lợi ích của gia đình, gia
tộc phải là “môn đăng, hộ đối”; “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”,… Người già
trong gia đình không có khả năng lao động cũng không phải sống độc thân vẫn
có vị thế cao nhất trong gia đình như việc quán xuyến trật tự kỹ cương gia đình,
dòng họ trông nom nhà cửa, giáo dục con cháu. Quan niện sống: Gia đình truyền
thống Việt Nam ảnh hưởng của tư tưởng nho giáo và quan niệm “trọng nam
khinh nữ”, trong gia đình con trai luôn được coi trọng và có tiếng nói quyết

13
định, còn phụ nữ phải tuân theo lệ giáo “tam tòng, tứ đức”, trật tự gia phong, gia
giáo trong gia đình, gia tộc rõ ràng chặt chẽ đối với các thành viên.
Có thể nghiên cứu về gia đình truyền thống nước ta có rất nhiều đặc điểm

khác nữa nhưng để đưa ra một định nghĩa chính xác và khoa học về gia đình thì
đến nay vẫn còn được nghiên cứu. Nhưng qua những đặc điểm của gia đình Việt
Nam trong lịch sử tôi có thể khẳng định: gia đình truyền thống Việt Nam là
những gia đình hình thành, tồn tại và phát triển trong lịch sử Việt Nam đến nữa
đầu thế kỷ XX, đây là loại hình gia đình gắn liền với nền nông nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp Việt Nam: gia đình mở rộng, chụi ảnh hưởng của nền sản xuất nông
nghiệp, sản xuất thủ công và tiểu thương nghiệp nhỏ, lạc hậu và của tưởng đạo
đức nho giáo, văn hoá dân tộc bản địa.
Gia đình Việt Nam đang trong bước chuyển từ truyền thống sang hiện đại
trên nhiều phương diện khác nhau, chứa đựng cả yếu tố tích cực và tiêu cực. Sự
biến đổi mang tính toàn diện cả về cơ cấu các quan hệ, các chức năng và vai trò
của người phụ nữ trong gia đình.
Gia đình hiện đại, nghiên cứu về gia đình hiện đại và để đưa ra một định
nghĩa gia đình hiện đại là gì ở nước ta là một vấn đề rất khó. Gia đình hiện đại là
sản phẩm của một nền công nghiệp phát triển còn nước ta hiện nay chỉ đang đặt
ra mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 trở thành một nước công nghiệp phát triển.
Vì vậy để đưa ra một định nghĩa về gia đình hiện đại chỉ có tính chất tương đối;
là cơ sở để phân biệt gia đình truyền thống. Gia đình hiện đại thể hiện trước hết
ở quy mô gia đình. hiện nay gia đình hạt nhân đang trở nên rất phổ biến ở cả
thành thị và nông thôn, biểu hiện cơ bản của gia đình hạt nhân là: trong gia đình
có một cặp vợ chồng và con cái do họ sinh ra. Trong điều kiện nền kinh tế thị
trường gia đình hạt nhân tồn tại như một đơn vị độc lập, gọn nhẹ, linh hoạt và có
khả năng thích ứng với những biến đổi xã hội; trong các mối quan hệ hôn nhân,
gia đình cơ bản được xây dựng trên cơ sở tình yêu tự nguyện của đôi nam nữ
quyết định; không khí dân chủ bình đẳng trong gia đình được hình thành. Các
thành viên gia đình dần tham gia vào các hoạt động xã hội ở bên ngoài khuôn

14
khổ gia đình ngày càng phổ biến; đặc biệt là người phụ nữ trong gia đình ngày
càng phát huy vai trò và năng lực của mình ngoài xã hội.

Trong gia đình hiện đại các chức năng của gia đình không thay đổi không
mất đi mà nó ngày càng được san sẻ bởi các tổ chức, các nhóm xã hội khác; các
thành viên trong gia đình ngày càng được giải phóng bớt đi những trách nhiệm
và nghĩa vụ trong việc chăm sóc và giáo dục. Nhưng cũng chính vì thế trong gia
đình hiện đại lại xuất hiện những nhược điểm riêng của nó mà gia đình truyền
thống không có.
Trong xã hội Việt Nam hiện nay, cũng như nhiều nước trên thế giới với sự
phát triển của nền kinh tế thị trường làm xuất hiện nhiều biến thái của gia đình
nhiều dạng gia đình tồn tại như: gia đình “mẫu hệ mới” hoặc “gia đình thiếu”
đây là kiểu gia đình chỉ có mẹ - con, mà không có cha hoạc gia đình chỉ có cha
con; “gia đình đồng giới” đây là kiểu kết cấu gia đình không phải là những
người khác giới mà là những người đồng giới … Nhưng nghiên cứu gia đình ở
đây chúng ta lưu ý chỉ bàn đến gia đình hiện đại với ý nghĩa đầy đủ chính thống.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, gia đình Việt Nam hiện đại
trước hết là kiểu gia đình hạt nhân, gia đình chỉ có một đến hai thế hệ thành
viên, được xây dựng trên cơ sở hôn nhân tự nguyện, các thành viên trong gia
đình có quan hệ bình đẳng, dân chủ, yêu thương và có trách nhiệm cùng chia sẽ
với nhau các chức năng gia đình và vai trò với xã hội.
1.1.2. Truyền thống của gia đình
Truyền thống gia đình là một bộ phận của truyền thống dân tộc Việt Nam.
Nó là sản phẩm của những điều kiện tự nhiên, xã hội được hun đúc hình thành
phát triển trong quá trình lịch sử Việt Nam. Nó bao gồm những giá trị truyền
thống văn hoá tốt đẹp và cả những hủ tục lạc hậu.
Khi nói đến truyền thống gia đình hay truyền thống dân tộc Việt Nam
trước hết phải nói đếnnhững điều kiện tự nhiên, xã hội hình thành nên truyền
thống đó.

15
Địa bàn cư trú của tổ tiên người Việt Nam là một vùng đất bồi đắp phù sa,
nằm giữa núi và biển cả. Môi trường sông nước ảnh hưởng rất lớn đến người

Việt, dấu ấn của nó còn in khá đậm đến tư duy thói quen của con người. Vì lẽ đó
mà các nhà nghiên cứu đã kết luận: “Người Việt có một truyền thống văn hoá
sông nước và quen với sông nước, thạo nghề sông nước, có tư duy của một cư
dân sông nước” [25, tr.17].
Chính yếu tố địa lý và điều kiện tự nhiên khí hậu nhiệt đới gió mùa đã tạo
điều kiện thuận lợi cho việc phát triển trồng lúa nước. Trong quá khứ người Việt
đã từng tạo dựng nên một nền văn minh lúa nước nổi tiếng ở khu vực Đông
Nam Á Tuy nhiên, thiên nhiên Việt Nam cũng vô cùng khắc nghiệt với nhiều
thiên tai như lũ lụt, bão tố hạn hán, sâu bệnh phá hoại mùa màng. Những điều
kiện đó đã rèn luyện cho con người Việt Nam những phẩm chất đặc biệt để có
thể tồn tại và phát triển.
Một đặc điểm nữa ảnh hưởng đến truyền thống Việt Nam là vị trí địa lý
chiến lược, trong quá khứ cũng như hiện tại Việt Nam luôn là một miếng mồi
hấp dẫn đối với những kẻ xâm lược nói chung cũng như đế chế Trung Hoa nói
riêng. Theo dòng lịch sử từ đế chế Tần đến Mãn Thanh, không một triều đại
Trung hoa nào không vài lần xâm lược nước ta. Cũng có những thời kỳ đô hộ
kéo dài mà điển hình là thời kỳ bắc thuộc hơn ngàn năm. Tính từ thế kỹ thứ III
trước công nguyên khi quân Tần xâm lược đến khi đánh thắng đế quốc Mỹ,
người Việt có khoảng thời gian chống giặc ngoại xâm lên đến XI thế kỷ, chiếm
hơn nữa thời gian của lịch sử. Những cuộc đấu tranh dành độc lập dân tộc hoặc
bảo vệ độc lập dân tộc diễn ra quyết liệt. Quá trình đó đã tạo nên truyền thống
anh dũng, bất khuất cho con người Việt, “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh” là một
đặc sắc trong lịch sử dân tộc.
Yếu tố văn hoá xã hội còn chịu sự tác động của môi trường văn hoá khu
vực và thế giới. Việt Nam ở khu vực Đông Nam Á đây là khu vực tuy mỗi nước
có sắc thái riêng nhưng có mẫu số chung về văn hoá. Việt Nam trước hết chịu
ảnh hưởng của nền văn hoá Trung Hoa rõ ràng và đậm nét, có thể nói các quan
điểm của nho giáo chi phối rất lớn đến đời sống văn hoá tinh thần của người

16

Việt và trong các gia đình. Tuy nhiên người Việt theo nho giáo nhưng không
sùng nho một cách tuyệt đối, vì vậy các chuẩn mực của nho giáo khi du nhập đã
được pha trộn, điều chỉnh lại cho hợp với văn hoá bản địa.
Bên cạnh ảnh hưởng của văn minh Trung hoa là văn minh Ấn Độ mà chủ
yếu là sự du nhập của phật giáo. Tuy nhiên phật giáo Việt Nam khác với Phật
giáo Ấn Độ. Sự truyền bá rộng rãi tư tưởng Phật giáo đã góp phần làm nên
những truyền thống quý báu của người Việt như lòng nhân ái, vị tha và bao
dung, độ lượng.
Những điều kiện tự nhiên xã hội ấy đã hun đúc lên con người Việt Nam
với những truyền thống quý báu những cũng không thiếu những truyền thống
lạc hậu tiêu cực cùng tồn tại trong suốt chiều dài lịch sử.
Truyền thống gia đình Việt Nam được thể hiện từ kết cấu, tổ chức, lễ nghi
gia đình đến các quan hệ trong gia đình, là sợi dây cột chặt các thành viên trong
gia đình lại với nhau bởi tình cảm, đạo đức, trách nhiệm nghĩa vụ để gia đình trở
thành một trục trung tâm trong mỗi con người việt từ xưa đến nay.
Trước hết nói đến truyền thống gia đình tác giả luân văn nói đến những
giá trị tích cực: Từ xưa đến nay, trong gia đình Việt Nam chủ yếu là gia đình
nhiều thế hệ và gia đình hạt nhân. Trong gia đình khi các con lớn lên lập gia
đình con gái sẽ về nhà chồng, con trai thứ chỉ ở trong gia đình ít lâu rồi ra ở
riêng (thành lập một gia đình mới) và sẽ được chia một ít tài sản theo điều kiện
gia đình có. Con trai cả ở lại trong gia đình với bố mẹ già thừa hưởng ngôi nhà
và một phần tài sản lớn nhất. Do đặc thù của nền kinh tế trồng lúa nước nên các
gia đình tuy ở riêng nhưng cũng chủ yếu quây quần trong một không gian làng
xã. Vì thế trong làng xã ở Việt Nam quan hệ gia đình, họ tộc rất chặt chẽ, có
những làng xã trong làng chỉ có một đến hai dòng họ. Sự ưu việt của kiểu gia
đình này là sự gắn bó về tình cảm của các thế hệ trong gia đình, dòng họ, giữ gìn
truyền thống gia đình cũng như các tập tục lệ nghi, sự cấu kết chặt chẽ về huyết
thống và sự giúp đỡ lẫn nhau về kinh tế.
Tuy nhiên kiểu gia đình này cũng có nhược điểm đó là sự kép kín trong
nội bộ thân tộc, trong quá trình gìn giữ các giá trị truyền thống tốt đẹp thì đồng


17
thời cũng tồn tại các phong tục tập quán lạc hậu hạn chế sự tự do cá nhân. Quan
niệm trong hôn nhân bao giờ cũng đặt lợi ích gia đình gia tộc tạo nên một lề lối
khó thay đổi trong các địa phương bên cạnh phép vua còn có lệ làng khắt ke
rườm rà, tục nhà nghiêm khắc, cứng nhắc.
Phong tục thờ cúng tổ tiên của các gia đình đã trở thành một truyền thống
hay còn được coi như một tôn giáo của người việt. Truyền thống này vừa có ý
nghĩa lưu truyền những nét văn hoá dân tộc, vừa giáo dục con người về tổ tiên
nòi giống “con người có tổ có tông, như cây có cỗi, như chim có đàn”. Việc thờ
cúng tổ tiên của người việt là rất quan trọng, một số nhà nghiên cứu đã cho rằng:
việc thờ cúng tổ tiên là một chức năng truyền thống gia đình. Vì thế trong nội bộ
gia đình, người cha, người anh cả, cháu đích tôn giữ vị trí quan trong hơn các
thành viên khác. Con gái sẽ về nhà chồng, con dâu đặc biệt là dâu trưởng có vai
trò vị trí cao chính vì thế dân gian Việt Nam có câu thành ngữ: “con gái là con
người ta, con dâu mới thật mẹ cha mua về”. Quan hệ mẹ chồng con dâu vồn là
mối quan hệ rất khắt ke từ xưa đến nay, chính quan niệm đó đã làm quan hệ mẹ
chồng con dâu xích lai gần nhau , cảm thông chia sẽ với nhau những khó khăn
của cuộc sống cùng xây dựng, bảo vệ cho gia đình, dòng họ nhà chồng. Thờ
cúng tổ tiên công việc trang trọng của gia đình người thực hiện công việc này là
người cao tuổi nhất trong dòng họ, người cha của gia đình. Người kế thừa công
việc thờ cúng tổ tiên phải là người con trai cả, cháu đích tôn. Thờ cúng tổ tiên là
một nét văn hoá của người Việt, nó thể hiện tình cảm, lòng biết ơn sâu sắc của
người đang sống và người đã khuất. Nhưng bên cạnh đó cũng có những hạn chế
nhất định sự bất bình đẳng trong gia đình, chế độ đa thê cũng có cơ sở bắt nguồn
từ đây. Do vai trò của người con trai cả, người cháu đích tôn nên việc sinh con
trai để nối dõi tông đường là rất quan trọng. Trong gia đình khi người con trai
trưởng lấy vợ chẳng may không sinh được con trai thì bị xem là tội bất hiếu,
trong xã hội phong kiến đây là tội bất hiếu nghiên trọng nhất trong những tội bất
hiếu. Cũng chính như vậy người chồng sẽ phải lấy thêm những người vợ khác

để làm sao sinh được con trai.

18
Truyền thống của gia đình thể hiện trong lễ giáo: đó là lễ nghi, phép tắc
và giáo dục gia đình. Trong gia đình Việt Nam xưa lễ nghi gia đình được thể
hiện trong các hình thức: Quan, hôn, tang, lễ (Quan là lễ để trân trọng sự ra đời
và trưởng thành của con người. Hôn là sự cưới vợ gả chồng; Tang là việc ma
chay; Lễ là việc thờ cúng). Những lễ nghi trong gia đình việt không quá rườm rà
lễ nghi như trong gia đình nho giáo Trung Hoa. Nhưng cũng không sề xoà đơn
giản, đặc biệt các lễ nghi này trong gia đình quý tộc, địa chủ giàu có lại càng rất
được chú trọng. Những lễ nghi ấy dần hun đúc thành những truyền thống riêng
của người Việt trong quá trình thực hiện những nghi lễ như: cưới hỏi, ma chay,
thờ cúng.
Ngoài các lễ nghi gia đình thì phép tắc gia đình là một yếu tố quan trọng
trong việc giáo dục hoàn thiện nhân cách con người. Người quân tử, kẻ trưởng
phu bắt đầu phải biết “tu thân - tề gia” sau đó mới nói đến làm những việc lớn
lao khác. Tu thân bắt đầu thể hiện từ cách ứng xử và mối quan hệ gia đình, vì
vậy phép tắc luật lễ gia đình như một thước đo đạo đức lối sống mỗi cá nhân.
Thứ hai gia đình hoà thuận, hạnh phúc tuân thủ phép tắc gia đình “phu phu, tử
tử, huynh huynh, đệ đệ, phụ phụ, nhi giả đạo chính” (cha ra cha, con ra con, anh
ra anh, chồng ra chồng, vợ ra vợ, thế là gia đạo chính).
Ngoài những phép tắc của gia đình mỗi cá nhân còn tuân thủ những phép
tắc của gia tộc. Phép tắc - gia pháp nhằm mục đích bảo vệ và đề cao uy thế của
gia đình, gìn giữ sự đoàn kết đạt sự nhất trí trong nội bộ gia đình hoặc giữ gìn
những bí mật gia truyền. Nắm giữ gia pháp trong gia đình là người trưởng tộc.
Trong gia đình người nắm gia pháp là cha, là mẹ. Gia pháp gia đình biểu hiện sự
nghiêm khắc, sức mạnh của cha, mẹ đối với con, anh đối với em, người lớn tuổi
đối với người trẻ tuổi.
Giáo dục gia đình hay gia giáo là nói đến hình thức và nội dung giáo dục
của gia đình đối với các thành viên. Việc học tập của các cá nhân trong xã hội

phong kiến Việt Nam cơ bản là sự học tập từ các thành viên trong gia đình cha
dạy cho con, ông dạy cho cháu, anh dạy cho em, trường học và thầy dạy thực sự
đều rất hiếm trong xã hội bấy giờ và có chỉ dành cho những gia đình địa chủ quý

19
tộc, vua chúa. Nội dung chủ yếu của việc giáo dục trước hết là học đạo lý làm
người, biết cách cư xử với mọi người trong gia đình, làng xóm, láng giềng, thầy
trò, tôn trọng phép nước lệ làng. Sau mới đến các kinh nghiệm trong lao động
sản suất.
Những nội dung, nhiệm vụ trong gia đình, những mối quan hệ ứng xử
giữa các thành viên đã hình thành gia phong - “nếp nhà” trong gia đình truyền
thống Việt Nam.
Trong gia đình cũng như trong mỗi cá nhân, việc giáo dục học tập của
con cái luôn được các gia đình đặc biệt quan tâm, vì vậy khi nói đến những
truyền thống tiêu biểu đặc sắc nhất của truyền thống gia đình thì không thể nói
đến truyền thống hiếu học. Cái triết lý “Nhân bất học bất tri lý” là nhân sinh
quan của người Việt Nam. Con người Việt từ những bậc quan lại quý tộc đến
nông dân tiều phu đều hiểu “Ấu học ngũ ngôn thi”, “Dĩ tử kim mãn doanh, hà
như giáo nhất kinh” nghĩa là: Để cho con đầy hòm vàng sao bằng dạy cho con
một quyển sách. Với đời sống khó khăn thiếu thốn nhưng với sự giáo dục ấy giai
đoạn nào cũng tạo ra những hiền tài cho dân tộc, sự giáo dục ấy đã thiết lập một
trật tự xã hội theo đúng luân thường đạo lý.
Truyền thống gia đình được thông qua các mối quan hệ của các thành
viên. Trước hết là mối quan hệ chồng - Vợ đây là mối quan hệ đầu tiên hình
thành nên một gia đình theo đúng nghĩa. Trong quan hệ hôn nhân truyền thống,
quan hệ hôn nhân được xây dựng trên cơ sở “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” hay
phải “môn đăng hổ đối”. Vì vậy hôn nhân trước hết thể hiện trách nhiệm của cá
nhân đối với gia đình dòng họ tình yêu, tự do cá nhân chưa có chỗ đứng nhưng
không vì vậy tình yêu đôi lứa không tồn tại. Tình yêu, sự thuỷ chung ấy được
hình thành phát triển trong chính cuộc sống gia đình, trong khó khăn vất vả của

cuộc mưu sinh: “trên đồng cạn dưới đồng sâu/chồng cày vợ cấy con trâu đi
bừa”, “râu tôm nấu với ruột bầu/chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon” hay
“chồng em áo rách em thương/chồng người áo gấm sông hương mặc người”.
Hôn nhân trong gia đình truyền thống được xuất phát từ ý thức trách nhiệm của

20
cá nhân với tập thể với gia đình, họ hàng tình yêu đôi lứa thường nảy nở phát
triển sau đó, nên trong gia đình truyền thống ly hôn là điều hiếm khi xẩy ra.
Tuy nhiên quan hệ vợ chồng trong gia đình Việt Nam không có sự bất
bình đẳng nặng nề như gia đình nho giáo Trung hoa, nhưng cũng chịu ảnh
hưởng ít nhiều, trong gia đình quan hệ vợ chồng vẫn là bất bình đẳng sự thuỷ
chung tuyệt đối mới chỉ tồn tại ở người phụ nữ.
Quan hệ giữa cha mẹ đối với con cái đây là mối quan hệ chủ yếu chi phối
các mối quan hệ khác trong gia đình; Thứ nhất là tình yêu thương vô bờ bến của
cha mẹ với các con. Trong thực tế tình yêu thương đối với các con không thể
cân đong đo đếm, không lời nào kể hết, mà chỉ là sự cảm nhận của con cái đối
với các bậc sinh thành: “Công cha như núi thái sơn/Nghĩa mẹ như nước trong
nguồn chảy ra” hay “công cha nặng lắm ai ơi/công mẹ bằng trời chín tháng cứu
mang”; thứ hai là quyền lực của cha mẹ đối với con đó là: “gọi dạ, bảo vâng”,
đó là việc phục tùng những quy ước của gia đình, dòng họ trong cuộc sống. Bên
cạnh tình cảm bao la không bờ bến của cha mẹ, uy quyền của cha mẹ “đạo hiếu
“là tình cảm, trách nhiệm của con đối với bố mẹ. Đạo hiếu hay sự hiếu thảo là
một nguyên tắc đạo đức rất được coi trọng trong gia đình truyền thống, là cốt lõi
của luân lý gia đình. Nó nhấn mạnh nghĩa vụ, đức hy sinh, sự phục tùng của con
cái đối với cha mẹ, ông bà. Mở rộng ra là sự phục tùng của người dưới đối với
người trên theo nguyên tắc trên ra lệnh dưới phục tùng. Đạo hiếu thể hiện khi
còn nhỏ sống trong gia đình phải luôn hiếu thuận, vâng lời cha mẹ không được
làm trái ý cha mẹ, ông bà, sống làm việc theo gia pháp dòng họ. Khi trưởng
thành các cá nhân phải luôn giữ mình để phụng dượng cha mẹ, ông bà “trẻ cây
cha, già cậy con” là đạo lý của gia đình truyền thống, trong cuộc sống cũng

không làm điều gì xấu ảnh hưởng đến gia phong, gia pháp.
Tuy nhiên đạo hiếu trong gia đình truyền thống Việt Nam không quá khắt
khe, máy móc như trong gia đình nho giáo chính thống, không phụ nhận hoàn
toàn nhu cầu lợi ích cá nhân. Điều ấy thể hiện trong những suy nghĩ:
“con hơn cha là nhà có phúc” của các bậc sinh thành đối với con cái; thể
hiện trong hôn nhân của các con. Trong hôn nhân của gia đình truyền thống xuất

21
phát từ chân lý “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” nhưng thực ra trong các gia đình
phong kiến Việt Nam điều đó chỉ tập trung cơ bản ở tầng lớp quý tộc, địa chủ
còn trong các gia đình nông dân, thợ thủ công hôn nhân của con cái thường
được dựa trên cơ sở tình yêu, sự lựa chọn của đôi trai gái.
Quan hệ anh, chị em ruột quan hệ này được biểu hiện bằng tình cảm gắn
bó của những người ruột thịt với nhau trong gia đình. Đó là tình cảm “thúc bá”
được ví: “Anh em như thể tay chân/rách lành đùm bọc khó khăn đỡ đần”;
“Anh em như thể dòng nước/như cây một cội như sông một nguồn”. Tình
cảm anh em được ví như chân với tay trong gia đình đó là sự thể hiện tình
thương yêu, trách nhiệm của anh, chị đối với em; đó là sự gương mẫu, hiền hoà,
biết chăm sóc em. Ngược lại em phải là người biết nhường nhịn, vâng lời anh
chị. Trong gia đình truyền thống tình cảm trách nhiệm của anh chị lớn có những
lúc được xem như cha, như mẹ trong gia đình. Tình cảm, mối quan hệ anh em
ruột được coi trọng trên cả tình cảm vợ chồng.
Tuy nhiên, quan hệ này cũng có những nhược điểm nhất định, chế độ phụ
hệ đề cao vai trò của người con trai trong xã hội, con trưởng trong gia đình đã
làm nảy sinh sự bất bình đẳng, mâu thuận giữa anh em với nhau khi xem xét vị
thế và quyền lợi được hưởng giữa các anh em trai nếu có. Đặc biệt là quan niệm
con gái là con người ta đã làm tâm lý ngăn cách quan hệ tình cảm giữa các thành
viên trong gia đình.
Việc nhận thức rõ những mặt tích cực trong đạo đức truyền thống nói chung,
trong gia đình nói riêng và cả những hạn chế mang tính lịch sử trong nội dung của

các giá trị đạo đức là yêu cầu bắt buộc đối với thời đại. Nó giúp ta xác định rõ
những mặt gì cần được kế thừa, bổ sung, phát triển và những gì cần loại bỏ, như
vậy mới tồn tại và phát triển được một nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân
tộc. Truyền thống gia đình Việt Nam là cả một hệ thống các truyền thống được thể
hiện trong kết cấu, tổ chức, quan hệ sinh hoạt gia đình, là cả những giá trị tích cực
đồng thời chứa đựng những tập tục lạc hậu, được hình thành phát triển qua các thời
kỳ lịch sử, đến hôm nay đã tạo thành một bộ phận của truyền thống dân tộc Việt

22
Nam. Nhiệm vụ của gia đình hiện đại hôm nay là kế thừa phát triển những giá trị
truyền thống đó, loại bỏ những tập tục lạc hậu.
1.2. Giá trị và giá trị truyền thống của gia đình
1.2.1. Giá trị
Giá trị là khái niệm trung tâm của giá trị học, với tính cách là một khoa
học, được sự dụng rộng rãi trong ngành khoa học xã hội và khoa học nhân văn
như: triết học, tâm lý học, đạo đức học, xã hội học…với những nội dung rộng,
hẹp khác nhau.
Giá trị là những hiện tượng vật chất và tinh thần có khả năng thoả mãn
nhu cầu tích cực của con người, là những thành tựu góp phần vào sự phát triển
xã hội phục vụ cho lợi ích và hạnh phúc của con người.
Giá trị có vai trò quan trọng trong cuộc sống của con người. Nó là cơ sở
để con người căn cứ vào đó mà xác định mục đích phương châm sống cho mọi
hoạt động của mình. Vì vậy nói đến giá trị tức là khẳng định mặt tích cực, mặt
chính diện, là nói đến cái đúng cái tốt, cái hay, cái đẹp, là nói đến cái có khả
năng thúc đẩy con người phấn đấu vươn tới. Như vậy có những giá trị chung
toàn xã hội có những giá trị lâu bền được kế thừa qua mọi thời đại, và được nâng
lên thành phong cách sống của thời đại, có những giá trị phạm vi ảnh hưởng
trong một quốc gia dân tộc trở thành truyền thống, lý tưởng sống của dân tộc đó.
Nhưng cũng có giá trị sẽ mất đi hoặc mờ nhạt khi hoàn cảnh lịch sử thay đổi …
Trong việc nghiên cứu hệ thống những giá trị, ở cấp độ chung nhất giá trị

được chia thành giá trị vật chất và giá trị tinh thần. Giá trị tinh thần gồm các loại
giá trị cơ bản như: giá trị khoa học, giá trị đạo đức, giá trị thẩn mỹ,… (ở đây tác
giả chỉ nghiên cứu và dừng lại giá trị ở góc độ giá trị tinh thần).
Giá trị truyền thống gia đình là một một bộ phận của giá trị đạo đức
truyền thống của dân tộc. Giá trị đạo đức ấy được hình thành từ trong lịch sử,
được trường tồn đến hiện tại, tạo thành giá trị đạo đức của thời đại; giá trị đạo
đức ấy trở thành thước đo tinh thần – văn hoá của dân tộc.

23
Dân tộc Việt Nam với các đặc điểm về địa lý, khí hậu, lịch sử xã hội đã
hình thành nên những giá trị truyền thống riêng. Bên cạnh những giá trị chung
của nhân loại những giá trị đạo đức ấy đã tạo ra một dân tộc Việt cùng hội nhập
giao lưu với thế giới qua các giai đoạn lịch sử từ cổ chí kim nhưng vẫn giữ
nguyên sắc thái của mình.
Giá trị đạo đức truyền thống dân tộc là một bộ phận trong hệ thống giá trị
tinh thần của dân tộc, nó là kết quả hun đục từ dòng chảy liên tục trong suốt quá
trình dựng nước và giữ nước của dân tộc, được tích luỹ, chắt lọc, chuyển giao từ
thế hệ này sang thế hệ khác.
Gia đình chính là một trong những cơ sở quan trọng nhất trong việc lưu
truyền chuyển giao hệ thống giá trị đạo đức dân tộc, đồng thời trong đó vừa có
hệ giá trị truyền thống đặc thù của gia đình, như chỉ thị của Ban Bí Thư Trung
Ương Đảng khẳng định: “trải qua nhiều thế hệ, gia đình Việt Nam được hình
thành và phát triển với nhiều chuẩn mực giá trị tốt đẹp góp phần xây dựng bản
sắc văn hoá dân tộc. Những giá trị lòng yêu nước, yêu quê hương, yêu thương
đùm bọc lẫn nhau, thuỷ chung hiếu nghĩa hiếu học, cần cù và sáng tạo trong lao
động, bất khuất kiên cường, vượt qua mọi khó khăn, thử thách đã được gia đình
Việt Nam gìn giữ, vun đắp và phát huy trong suốt quá trình lịch sử dựng nước
và giữ nước” [6].
1.2.2. Giá trị truyền thống của gia đình
Giá trị truyền thống của gia đình là nói đến những giá trị tích cực được

lưu giữ bảo tồn phù hợp với mọi gia đình trong các giai đoạn lịch sử.
Một là, sự thủy chung, chung lưng đấu cật giữa vợ và chồng trong xây
dựng gia đình
Giá trị truyền thống gia đình thể hiện trong quan hệ chồng vợ đó là: sự
thuỷ chung, sự chung lưng đấu cật để chia sẽ những khó khăn của cuộc sống.
Những giá trị đó được dân gian dệt nên thành những câu ca dao, tục ngữ sống
động trong các thời đại: “trên đồng cạn dưới đồng sâu/chồng cày vợ cấy con trâu
đi bừa”, đặc biệt ở đây khi nói đến sự thuỷ chung trong quan hệ vợ chồng trước

×