Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

Giải quyết việc làm cho thanh niên trên địa bàn xã đại trạch bố trạch quảng bình, lý luận và thực tiễn”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (242.3 KB, 37 trang )

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành đề tài “Giải quyết việc làm cho thanh niên trên địa bàn xã
Đại Trạch - Bố Trạch - Quảng Bình, lý luận và thực tiễn” ngoài sự cố gắng nỗ
lực học hỏi tìm kiếm của bản thân tôi còn nhận được sự giúp đỡ đặc biệt của
Thạc sỹ Lê Văn Đức, người trực tiếp hướng dẫn tôi hoàn thành bài tiểu luận
này.
Qua quá trình nghiên cứu bản thân sinh viên đã cố gắng tìm hiểu, vận
dụng các kiến thức được học tập ở môn học Luật Lao động, dành nhiều thời gian
cho việc tìm kiếm tài liệu và quan sát thực tế, nhưng do năng lực bản thân còn
hạn chế, nhận thức chưa cao, thời gian nghiên cứu không cho phép, do đó đề tài
không tránh khỏi những sai sót. Cho nên bản thân sinh viên mong muốn nhận
được sự góp ý của các thầy cô, các anh chị cũng như các bạn sinh viên. Đặc biệt
tác giả mong nhận được sự đóng góp, giúp đỡ nhiệt tình của giảng viên hướng
dẫn - Thạc sỹ Lê Văn Đức.
Với tấm long tri ân sâu sắc nhất tôi xin chân thành gửi đến Thầy giáo Lê
Văn Đức, Kính chúc Thầy và gia đình luôn luôn mạnh khỏe, hạnh phúc, chúc
thầy đạt được nhiều thành công mới trong cuộc sống.
Vinh, ngày 30 tháng 12 năm 2010
Sinh viên thực hiện
Bùi Thị Thuỷ
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giải quyết việc làm cho người lao động nói chung và việc làm cho đối
tượng thanh thiếu niên nói riêng đang là vấn đề hết sức nan giải của mỗi
quốc gia trên toàn thế giới trong đó có việt nam. Theo báo cáo của tổng cục
thống kê hằng năm nước ta có trên 1,5 triệu trẻ em được sinh ra đó là
nguồn nhân lực hết sức dồi dào, là lực lượng kế cận bổ sung cho một số
lượng lớn lao động đối tượng ngoài độ tuổi lao động. điều đó có nghĩa là
nước ta là một nước có cơ cấu dân số trẻ, tỉ suất sinh tăng( ) tỉ suất tử ở
mức thấp( ) đối tượng trong độ tuổi lao dộng chiem tỉ lệ cao chiếm trên
73% trong cơ cấu dân số việt nam. Có lực luongj lao động dồi dào đó là một


điều kiện hết sức thuận lợi trong việc phát triển kinh tế dặc biệt trong thời
kì đất nước ta dang hội nhập thế giới. song đó cũng là thách thức lớn cho
đảng và nhà nước ta trong việc giải quyết việc làm, tạo ra thu nhập, đảm
bảo điều kien sống cho người lao động đồng thời giải quyết tận gốc vấn đề
việc làm góp phần đẩy lùi các loại tệ nạn xã hội như ma túy, mại dâm, cờ
bạc rượu chè, trộm cắp cướp giật, giết người cướp của đó là nhưng vấn đề
dang gây bức xúc cho nước ta hiện nay.
Tỉnh quang bình chúng ta hiện nay theo số liệu thống kê của tổng cục
thống kê quảng bình thì tỉnh quảng có chiếm trong lực lượng lao độngcả
nước
Đối với Quốc gia, thất nghiệp, thiếu việc làm là một sự lãng phí tài nguyên
sinh lực. Đối với gia đình và xã hội, thất nghiệp thiếu việc làm, “nhàn vi cư bất
thiện” là mầm mống đưa con người vào vòng phạm pháp, làm mất nhân cách
không xa. Vì những ảnh hưởng sâu rộng đó: giải quyết việc làm đi đến toàn
dụng nhân lực được xem là một quốc sách trong chiến lược phát triển kinh tế xã
hội của đất nước.

2
Việt Nam đang trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH với mục tiêu đến năm
2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Để thực hiện được
mục tiêu đó đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải phát huy được mọi nguồn nhân lực,
đặc biệt là nguồn lực thanh niên bởi thanh niên chiếm hơn 50% lao động xã hội
và chiếm gần 29% dân số. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Nước nhà thịnh
hay suy, yếu hay mạnh, một phần lớn là do các thanh niên”. Với tầm quan trọng
đặc biệt như vậy, giải quyết việc làm cho thanh niên là một vấn đề cấp bách
trong giai đoạn hiện nay. Xã Đại Trạch - huyện Bố trạch là một địa bàn đặc thù,
phức tạp và còn gặp nhiều khó khăn của Tỉnh Quảng Bình, lao động chủ yếu tập
trung trong lĩnh vực nông nghiệp. Điều đó đòi hỏi trong quá trình giải quyết việc
làm cho người lao động nói chung và thanh niên nói riêng phải có sự tìm tòi,
sáng tạo phù hợp với tình hình thực tiễn của Phường. Với ý nghĩa đó, tôi chọn

đề tài: “Giải quyết việc làm cho thanh niên trên địa bàn xã Đại Trạch - Bố
Trạch - Quảng Bình, lý luận và thực tiễn” làm đề tài nghiên cứu nhằm một phần
đáp ứng nhu cầu đó.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Cho tới nay đã có một số công trình khoa học nghiên cứu vấn đề giải quyết
việc làm cho thanh niên dưới nhiều góc độ khác nhau, được công bố dưới dạng
sách, đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, luận văn tốt nghiệp và các bài viết trên
một số tạp chí. Tuy nhiên, vấn đề việc làm và giải quyết việc làm cho thanh niên ở
một xã đặc thù như xã Đại trạch - huyện Bố Trạch - Quảng Bình thì chưa có đề tài
nào. Vì vậy, tôi chọn đề tài “Giải quyết việc làm cho thanh niên trên địa bàn xã
Đại Trạch - Bố Trạch - Quảng Bình.Lý luận và thực tiễn ” làm đề tài nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Mục đích: Trên cơ sở đánh giá đúng thực trạng lao động việc làm và việc
giải quyết việc làm cho thanh niên trên địa bàn xã Đại Trạch - Bố Trạch - Quảng
Bình trong những năm vừa qua. Qua đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả công tác giải quyết việc làm cho thanh niên Phường trong thời gian tới.

3
+ Làm rõ một số vấn đề lý luận về việc làm, thanh niên, giải quyết việc làm
cho thanh niên.
+ Phân tích thực trạng việc làm và giải quyết việc làm cho thanh niên xã
Đại Trạch trong thời gian qua.
+ Chỉ rõ những hạn chế của công tác giải quyết việc làm cho thanh niên, từ
đó đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động này.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Đề tài được thực hiện trên cơ sở các nguyên lý của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam,
những chủ trương chính sách của Nhà Nước về vấn đề thanh niên và nghề
nghiệp việc làm. Đề tài sử dụng các phương pháp sau:
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp

+ Phương pháp thống kê
+ Phương pháp phỏng vấn
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần “mở đầu”, “kết luận”, “danh mục tài liệu tham khảo”, thì đề tài
được chia làm 2 chương
Chương I: Những vấn đề lý luận chung về việc làm và thanh niên
Chương II: Thực trạng và một số giải pháp giải quyết việc làm cho thanh
niên xã Đại Trạch- Bố Trạch - Quảng Bình giai đoạn hiện nay.
NỘI DUNG
CHƯƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VIỆC LÀM
VÀ THANH NIÊN
1.1. Một số khái niệm cơ bản về việc làm, thanh niên
1.1.1. Khái niệm việc làm
Việc làm là một phạm trù tồn tại khách quan trong nền sản xuất xã hội, là
vấn đề chủ yếu của toàn bộ đời sống xã hội. Tại hội nghị quốc tế lần thứ 13 của

4
tổ chức lao động thế giới (ILO), các nhà thống kê lao động đã đưa ra khái niệm
người có việc làm như sau: Người có việc làm là những người làm việc gì đó có
được trả tiền công, lợi nhuận hoặc được thanh toán bằng hiện vật, hoặc người
tham gia và các hoạt động mang tính chất tự tạo việc làm vì lợi ích hay thu nhập
gia đình không được nhận tiền công hoặc hiện vật.
Theo Bộ luật lao động thì: “Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập,
không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm”.
Còn theo từ điển Tiếng việt (xuất bản năm 1992) xác định việc làm như
sau: 1. Hành động cụ thể; 2. Công việc được giao cho làm và được trả tiền công.
Như vậy, việc làm được nhận thức là những hoạt động lao động có ích cho
bản thân, gia đình và xã hội và được thể hiện dưới các hình thức:
- Làm các công việc được trả công dưới dạng bằng tiền hoặc hiện vật hoặc
để đổi công.

- Các công việc tự làm để thu lợi cho bản thân.
- Làm các công việc nhằm tạo thu nhập (bằng tiền hoặc hiện vật) cho gia
đình mình nhưng không hưởng tiền lương tiền công.
Hiện nay quan niệm về việc làm đã có nhiều thay đổi, trong thời kỳ bao
cấp, người lao động được coi là có việc làm khi họ tiến hành những công việc
đòi hỏi một chuyên môn nào đó, tạo thu nhập nhất định; người có việc làm hoặc
phải thuộc biên chế Nhà nước, hoặc làm việc trong các hợp tác xã Theo cách
hiểu này, khái niệm việc làm không tính đến những người lao động đang làm
việc ở khu vực kinh tế tư nhân, cá thể, hay làm việc tại nhà. Do quan niệm máy
móc như vậy và để đảm bảo tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội nên trong xã hội
không thừa nhận thất nghiệp, thiếu việc làm, lao động dư thừa Quan niệm này
đã hạn chế rất lớn hoạt động lao động sản xuất của con người, triệt tiêu nhiều
tiềm năng sáng tạo, tính chủ động của họ trong quá trình hoạt động thực tiễn.
Hiện nay quan niệm này đã thay đổi, người có việc làm không thất thiết phải vào
biên chế nhà nước mà có thể làm việc ở mọi thành phần kinh tế hoặc do bản

5
thân người lao động tự tạo ra để có thu nhập. Việc đổi mới nhận thức về việc
làm đã đưa đến sự đổi mới nhận thức, quan niệm về chính sách, biện pháp giải
quyết việc làm trong điều kiện cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
theo hướng khơi dậy mọi nguồn lực và và khả năng to lớn nhằm giải phóng sức
lao động, giải quyết việc làm cho người lao động ở mọi thành phần kinh tế, ở
mọi khu vực, trong đó đặc biệt chú ý đến khả năng tự tạo việc làm của chính bản
thân người lao động. Hơn nữa, quan niệm mới hiện nay không chỉ chú ý đảm
bảo có đủ việc làm cho người lao động, mà còn coi trọng nâng cao chất lượng
việc làm tiến tới việc làm có năng suất, có thu nhập cao và được tự do lựa chọn
việc làm, tức là đảm bảo tính nhân văn của việc làm.
Việc làm trong xã hội thường chịu ảnh hưởng của các nhân tố như: Vốn
đầu tư, sức lao động, nhu cầu thị trường về sản phẩm. Ta nhận thấy rằng: Khối
lượng của việc làm được tạo ra tỉ lệ thuận với các yếu tố trên. Chẳng hạn như

vốn đầu tư để mua sắm thiết bị máy móc, nhà xưởng mở rộng quy mô sản xuất
là một nhân tố ảnh hưởng rất lớn. Khi vốn đầu tư tăng thì tạo ra được nhiều chỗ
làm việc mới và ngược lại đầu tư ít thì quy mô bị thu nhỏ lại kéo theo sự giảm đi
về số lượng việc làm được tạo ra.
Mặt khác nhu cầu của thị trường về sản phẩm sản xuất ra còn ảnh hưởng
không nhỏ đến việc tạo ra chỗ làm mới. Nếu sản phẩm sản xuất ra được đưa ra
thị trường đảm bảo cả về chất lượng và số lượng, mà thị trường chấp nhận, sản
phẩm tiêu thụ được sẽ thúc đẩy sản xuất phát triển, các doanh nghiệp các nhà
xưởng sẽ mở rộng quy mô sản xuất, đi đôi với mở rộng sản xuất là cầu về lao
động tăng lên. Ngược lại khi cầu về sản phẩm hàng hoá giảm sẽ làm ngừng trệ
sản xuất làm cho lao động không có việc làm và dẫn đến tình trạng thất nghiệp.
Ngoài ra còn một số các yếu tố khác cũng ảnh hưởng đến việc làm ở tầng vĩ
mô: Gồm các chính sách kinh tế của nhà nước vì khi các chính sách kinh tế phù
hợp sẽ tạo điều kiện khuyến khích mọi thành phần kinh tế phát triển làm cho cầu
lao động tăng đồng nghĩa với việc tạo ra nhiều chỗ làm mới.

6
Dân số và lao động là hai vấn đề có quan hệ rất chặt chẽ với nhau, quy mô
dân số càng lớn thì nguồn lao động càng nhiều và ngược lại khi nguồn lao động
càng lớn lại là sức ép đối với công tác tạo việc làm cho người lao động bởi vì:
Khi cung về lao động lớn sẽ tạo ra một lượng lao động dư thừa cần giải quyết
việc làm. Ngược lại khi cầu lao động lớn hơn cung lao động sẽ dẫn đến tình
trạng thiếu hụt lao động tham gia vào các ngành kinh tế. Vì vậy tỉ lệ tăng dân số
và nguồn nhân lực có ảnh hưởng đến vấn đề lao động và tạo việc làm cho người
lao động
1.1.2. Khái niệm thất nghiệp
Theo tổ chức lao động thế giới ILO: Người thất nghiệp là những người
không có việc làm nhưng đang tích cực tìm việc làm hoặc đang chờ trở lại làm
việc
Ở nước ta hiện nay thất nghiệp được xác định là người trong độ tuổi lao

động, có sức lao động nhưng chưa có việc làm, đang có nhu cầu làm việc nhưng
chưa tìm được việc làm. Thiếu việc làm là tình trạng có việc làm nhưng do
nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của người lao động, họ phải làm việc
không hết thời gian theo pháp luật quy định hoặc làm những công việc có thu
nhập thấp, không đáp ứng nhu cầu cuộc sống muốn tìm thêm việc làm bổ sung.
Xét theo nguyên nhân người ta phân thất nghiệp thành các loại:
Thất nghiệp cơ cấu: do cơ cấu của cung lao động không phù hợp nhu cầu sản
xuất hàng hoá và dịch vụ, loại thất nghiệp này mang đặc điểm tồn tại lâu dài.
Thất nghiệp công nghệ: Do thay đổi công nghệ và áp dụng những tiến bộ
kỹ thuật mới, làm giảm nhu cầu chung về lao động trong một số ngành nghề
nhất định. Loại này có đặc điểm có thể tồn tại lâu dài hay ngắn hạn tuỳ thuộc
vào khả năng đào tạo lại, để nâng cao tay nghề cho người thất nghiệp và độ tuổi
của những người đào tạo lại.
Thất nghiệp chu kỳ: Loại thất nghiệp này thường gắn với chu kỳ kinh tế, nó
sẽ giảm trong thời kỳ tăng trưởng, và tăng trong thời kỳ suy thoái.

7
Thất nghiệp tạm thời: phát sinh do việc di chuyển lao động giữa các vùng,
các công việc. Người ta gọi loại này là thất nghiệp tự nhiên với ý nghĩa và thời
gian tìm việc ngắn hạn và không ảnh hưởng cân bằng trên thị trường lao động.
Xét theo hình thức biểu hiện có thể chia thất nghiệp thành:
Thất nghiệp ngắn hạn dưới 3 tháng, trung hạn trên 3 tháng đến 12 tháng,
dài hạn trên 12 tháng.
Thất nghiệp lâu dài: Thường xảy ra với những nhóm dân số nhất định, như
thanh niên, phụ nữ, người khuyết tật, người vượt quá giới hạn tuổi nhất định.
Thất nghiệp toàn phần: Bao gồm toàn bộ thời gian làm việc và thất nghiệp
từng phần vì thời gian không đầy đủ.
Thất nghiệp hữu hình: là loại thất nghiệp thống kê được. Loại này có thể
bao gồm toàn phần hoặc từng phần. Thất nghiệp hữu hình từng phần thường là
hậu quả của việc thừa lao động.

1.1.3. Khái niệm thanh niên
Thanh niên là một khái niệm được sử dụng nhiều trong cuộc sống hằng
ngày với nhiều cách hiểu khác nhau. Tuỳ theo từng trường hợp, có khi thanh
niên dùng để chỉ một con người cụ thể, có khi lại được dùng để chỉ tính cách,
phong cách trẻ trung của một người nào đó, có khi lại dùng để chỉ cả một lớp
người trẻ tuổi.
Thanh niên còn là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học, tuỳ theo
góc độ tiếp cận của mỗi ngành mà người ta đưa ra các định nghĩa khác nhau về
thanh niên. Về mặt sinh học, thanh niên được coi là một giai đoạn phát triển
trong cuộc đời con người. Các nhà tâm lý học lại thường nhìn nhận thanh niên
gắn với các đặc điểm tâm lý lứa tuổi và coi đó là yếu tố cơ bản để phân biệt với
các lứa tuổi khác. Từ góc độ xã hội học, thanh niên lại được nhìn nhận là một giai
đoạn xã hội hoá - thời kỳ kết thúc của tuổi thơ phụ thuộc chuyển sang xác lập vai
trò cá nhân qua các hoạt động độc lập với tư cách đầy đủ của một công dân, là
một trong các chủ thể của các quan hệ xã hội. Các nhà kinh tế học lại nhấn mạnh

8
thanh niên với góc độ là một lực lượng xã hội hùng hậu, là nguồn lực bổ sung cho
đội ngũ những người lao động trên các lĩnh vực sản xuất v.v…
Như vậy, mỗi ngành khoa học, tuỳ theo góc độ nghiên cứu của mình, đã
nhấn mạnh khía cạnh cá thể, sinh học hoặc nhấn mạnh khía cạnh tập thể, xã hội
của khái niệm thanh niên.
Về mặt xã hội, thanh niên là một bộ phận đông đảo trong dân cư, những
người trong độ tuổi thanh niên (ở Việt Nam và phần lớn các nước trên thế giới
đều tính độ tuổi thanh niên từ 15 - 35) chiếm một tỷ lệ đáng kể trong dân. Đặc
điểm về cơ cấu xã hội của thanh niên là “họ là một bộ phận của tất cả các giai
cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tôc, tôn giáo…Vì thế, thanh niên là một nhóm
nhân khẩu - xã hội, nhưng là một nhóm nhân khẩu - xã hội đặc thù” [7, 20]
Chúng ta có thể nêu lên một số đặc điểm của thanh niên như sau:
- So với lứa tuổi thiếu niên, ở thanh niên có sự biến đổi nhanh về tâm lý.

Đặc điểm nổi rõ trong tâm lý lứa tuổi thanh niên là khả năng phân tích, suy luận,
ưa thích cái mới, thích công bằng, có khả năng sáng tạo, mong muốn được tin
cậy và có nhu cầu được khẳng định mình…đặc điểm tâm lý này làm cho thanh
niên trở thành lớp người nhạy bén, năng động, không chấp nhận sự trì trệ, bảo
thủ, sẵn sàng đấu tranh cho cái mới. Song nó có thể dẫn đến những hành động
quá khích, phiêu lưu nếu không được hướng dẫn đúng đắn.
- Cùng với sự phát triển của văn minh xã hội, trình độ học vấn, năng lực trí
tuệ của thanh niên ngày càng được nâng cao hơn so với lớp thanh niên thế hệ
trước. Thanh niên là lớp người sung sức nhất, có khả năng chịu đựng khó khăn,
vất vả.
- Là lớp người đang phát triển nhanh chóng để trưởng thành, nhưng sự
trưởng thành về mặt xã hội của thanh niên thường chậm hơn sự trưởng thành về
mặt sinh học. Điều này đòi hỏi sự quan tâm thường xuyên của Đảng và Nhà
nước, gia đình và toàn xã hội tạo điều kiện phát triển toàn diện cho thanh niên.

9
1.2. Giải quyết việc làm cho thanh niên - vấn đề cấp bách trong giai
đoạn hiện nay
1.2.1 Khái quát tình hình việc làm, giải quyết việc làm cho thanh niên hiện
nay
Lao động là yếu tố quan trọng đầu tiên của con người. Ngày nay trong cơ
chế kinh tế mới, nhiều thanh niên thể hiện đầu óc thực tế và tinh thần độc lập,
quyết đoán trong phương hướng sản xuất kinh doanh, mạnh dạn đầu tư và áp
dụng tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại, nhiều thanh niên đã làm giàu
nhanh chóng. Thái độ đối với lao động và nghề nghiệp của thanh niên đã có
những biến đổi, họ quan tâm đến cả giá trị vật chất và giá trị tinh thần, ý nghĩa
xã hội của lao động. Nhiều thanh niên đã tích cực chuẩn bị cả về tâm lý, trình độ
chuyên môn nghề nghiệp, ngoại ngữ để có thể thích ứng nhanh với yêu cầu, điều
kiện của nền sản xuất hiện đại. Do sự đa dạng của các thành phần kinh tế, với
nhiều cơ hội mở ra cho thanh niên về nghề nghiệp, việc làm, thu nhập nên đã

xuất hiện những thay đổi về lựa chọn nghề nghiệp, việc làm và phấn đấu tăng
thu nhập cho bản thân, gia đình và xã hội. Phấn đấu vào biên chế Nhà nước để
được bao cấp không còn là sự lựa chọn duy nhất của thanh niên nữa. Qua bảng
thống kê dưới đây ta thấy cơ cấu lao động phân theo thành phần kinh tế thì khu
vực kinh tế nhà nước chiếm tỷ lệ nhỏ. Đa số lao động tập trung nhiều ở khu
vực kinh tế ngoài nhà nước.
Bảng 1: Cơ cấu lao động phân theo thành phần kinh tế
Chỉ tiêu 2004 2005 2006 2007 2008
Kinh tế nhà nước 9,88 9,50 9,11 9,02 9,07
Kinh tế ngoài nhà nước 87,83 87,84 87,81 87,44 87,20
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 2,29 2,66 3,08 3,54 3,73
100% 100% 100% 100% 100%
Nguồn: Tổng cục thống kê
Chiếm gần một nửa lực lượng lao động trong độ tuổi lao động là lao động
thanh niên (15 -30 tuổi), lực lượng này đã đóng góp không nhỏ cho quá trình đổi
mới và cải cách nước ta trong những năm qua. Giải quyết việc làm cho thanh

10
niên luôn là bài toán khó đặt ra cho toàn xã hội nhằm đảm bảo sự phát triển bền
vững của đất nước. Hệ thống chính sách liên quan tới việc làm cho thanh niên
khá đầy đủ. Nhà nước luôn chú trọng tới việc hoàn thiện hệ thống pháp luật
nhằm điều chỉnh toàn diện quan hệ lao động. Theo báo cáo của Bộ Lao động -
Thương binh và xã hội năm 2009 cả nước đã tạo việc làm cho hơn 1.5 người,
trong đó hơn 70% việc làm được giải quyết từ các chương trình phát triển kinh
tế - xã hội (các dự án đầu tư trong và ngoài nước, đầu tư phát triển nông
nghiệp nông thôn, các doanh nghiệp mới hoạt động…). Trong đó giải quyết
việc làm cho khoảng 700 - 800 nghìn lao động thanh niên thông qua các
chương trình như: Thông qua chương trình kinh tế xã hội của Nhà nước;
chương trình phát triển kinh tế xã hội của miền núi; chương trình xây dựng nông
thôn mới; chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói giảm nghèo; chương trình

quốc gia về việc làm. Thông qua chính sách phát triển khu công nghiệp, khu chế
xuất, hợp tác đầu tư nước ngoài thu hút hàng ngàn lao động thanh niên…
Thông qua chương trình Quỹ quốc gia về giải quyết việc làm: chương trình
cho vay vốn thông qua các dự án để giải quyết việc làm sau nhiều năm đã đạt
được những kết quả đáng trân trọng. Tính đến nay quỹ quốc gia về việc làm sau
nhiều năm đã đạt được những kết quả đáng trân trọng. Tính đến nay Quỹ quốc
gia về việc làm đã tích lũy được trên 3.468 tỉ đồng và được phân bổ cho 63 tỉnh
thành phố trực thuộc Trung ương, các tổ chức đoàn thể chính trị xã hội.
Bên cạnh đó, 31 tỉnh thành phố đã lập quỹ việc làm địa phương với số
vốn trên 752 tỉ đồng, kết hợp với nguồn vốn địa phương từ chương trình và
vốn thu hồi các dự án đã hết hạn nâng tổng doanh số cho vay từ năm 2006
đến năm 2009 đạt 5.766 tỉ đồng với 418 nghìn lượt khách vay, góp phần tạo
việc làm cho 250 - 300 nghìn lao động mỗi năm (chiếm 20% tổng số việc
làm được tạo ra hằng năm). Hỗ trợ, giới thiệu việc làm cho thanh niên thông
qua các trung tâm giới thiệu việc làm. Trên cơ sở các dự án đầu tư nâng cao
năng lực Trung tâm giới thiệu việc làm đã được phê duyệt, từ năm 2006 đến

11
nay Chương trình mục tiêu quốc gia đã đầu tư cho 40 trung tâm giới thiệu
việc làm thuộc ngành lao động - thương binh xã hội với tổng số vốn đầu tư là
318 tỉ đồng. Đến năm 2009 đã có 16 trung tâm giới thiệu việc làm hoàn thành
đầu tư nâng cao năng lực với nguồn vốn 161 tỉ đồng, dự kiến năm 2010 sẽ tiếp
tục đầu tư cho 47 trung tâm giới thiệu việc làm. Từ năm 2006 - 2009 các trung
tâm đã giới thiệu cho 3,5 triệu lượt người (riêng năm 2009 đã giới thiệu cho 1,2
triệu lượt người), trong đó đa số là thanh niên và lao động trẻ. Tổ chức hội chợ
việc làm cũng là một phương thức kích thích hoạt động thị trường lao động.
Năm 2009 với chủ đề “Thanh niên với nghề nghiệp và việc làm” các cấp bộ
Đoàn trong toàn quốc đã tổ chức 7.487 sàn giao dịch, ngày hội việc làm, thu hút
912.544 lượt đoàn viên thanh niên tham gia. Tư vấn giới thiệu việc làm cho
1.095.790 đoàn viên thanh niên tham gia, giải quyết việc làm cho 331.836 đoàn

viên thanh niên, dạy nghề cho 431.2006 bạn trẻ.
Tạo việc làm cho thanh niên thông qua hoạt động xuất khẩu lao động. Hằng
năm với những nỗ lực tìm kiếm thêm thị trường lao động ngoài nước, và nỗ lực
quản lý các doanh nghiệp xuất khẩu lao động đã đưa hàng vạn người lao động đi
làm việc tại nước ngoài. Riêng năm 2009 mặc dù chịu ảnh hưởng của cuộc suy
thoái kinh tế toàn cầu nhưng cả nước đã đưa được 70.000 lao động đi làm việc
tại các nước. Trong những người được đưa đi xuất khẩu lao động hơn 90% lao
động trong độ tuổi thanh niên. Tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm của thanh niên
(15 – 35 tuổi) còn cao, cao hơn mức chung của cả nước. Tỷ lệ thanh niên thất
nghiệp ở các đô thị tương đối cao và không ngừng tăng qua các năm. Năm 2006,
tỷ lệ thanh niên đô thị thất nghiệp ở độ tuổi 15 – 34 là 5,1%. Năm 2007, tỷ lệ
này là 8,5% và năm 2008 đã lên 9,3%, chiếm gần 61% trong tổng số người thất
nghiệp. Bên cạnh những mặt tích cực chủ động của thanh niên trong lao động,
khắc phục khó khăn để vươn lên về nghề nghiệp, việc làm và nâng cao thu nhập,
cải thiện đời sống thì hiện nay vẫn còn một bộ phận thanh niên có lối sống tiêu
cực, lười lao động, lãng phí thời gian, chạy theo lối sống thực dụng. Không nhận

12
thức được giá trị của lao động. Như vậy trong thời gian qua nhờ đường lối đổi
mới của Đảng và Nhà nước, vấn đề việc làm và giải quyết việc làm cho người
lao động nói chung và thanh niên nói riêng đã được thay đổi cơ bản về nhận
thức và cả quá trình thực hiện. Từ chỗ người lao động thụ động chờ vào sự sắp
xếp của nhà nước nay đã tự chủ động tạo việc làm cho bản thân và thu hút thêm
lao động xã hội. Tuy nhiên hiện nay vấn đề lao động, việc làm luôn là vấn đề
bức xúc nhất, mối quan tâm hàng đầu của thanh niên.
1.2.2. Giải quyết việc làm cho thanh niên góp phần đảm bảo ổn định, an
toàn, công bằng xã hội
Việc làm có vai trò rất quan trọng trong đời sống xã hội, nó không thể thiếu
đối với từng cá nhân và toàn bộ nền kinh tế, là vấn đề cốt lõi và xuyên suốt trong
các hoạt động kinh tế, có mối quan hệ mật thiết với kinh tế và xã hội.

Thanh niên có vai trò to lớn trong xã hội, để đảm bảo sự phát triển bền
vững của đất nước thì vấn đề giải quyết việc làm cho thanh niên là một điều tất
yếu và cần thiết. Giải quyết việc làm cho người lao động nói chung, thanh niên
nói riêng có hiệu quả có nghĩa là sẽ sử dụng được tối đa lực lượng lao động vào
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, phát huy được tiềm năng của lượng thanh
niên. Đồng thời tiết kiệm chi phí và nguồn nhân lực cho đất nước. Giải quyết
việc làm cho thanh niên sẽ tạo điều kiện để phát triển nguồn lực lao động cả về
số lượng và chất lượng. Đây sẽ là cơ sở để cho nền kinh tế quốc dân tăng trưởng
bền vững. Việc làm luôn là vấn đề thanh niên quan tâm, nếu nhu cầu này không
được được thoả mãn sẽ là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các vấn
đề về tư tưởng, niềm tin vào lý tưởng cách mạng của Đảng. Thanh niên sẽ sa
vào các tệ nạn xã hội như cờ bạc, mại dâm, ma tuý… làm suy đồi nhân cách
thanh niên. Vì thế giải quyết việc làm cho thanh niên có ý nghĩa chính trị, xã hội
rất to lớn, giáo dục thanh niên trên cơ sở công việc, nghề nghiệp ổn định. Giải
quyết việc làm cho thanh niên tức là tạo điều kiện để thanh niên rèn luyện phấn
đấu trở thành công dân có ích, đem sức mình cống hiến cho đất nước vì đây là lực

13
lượng đông đảo, trẻ trung, đầy nhiệt huyết, năng động sáng tạo. Đồng thời tạo
thời cơ để thanh niên chăm lo cho chính tương lai của bản thân.
1.2.3. Giải quyết việc làm cho thanh niên góp phần nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
Để hội nhập kinh tế quốc tế thì vấn đề đặt ra có tính chiến lược đối với mỗi
quốc gia là: khả năng cạnh tranh. Muốn phát triển, muốn hội nhập bền vững thì
không chỉ đơn thuần phụ thuộc vào sự sẵn có của các nguồn tài nguyên thiên
nhiên, mà phần lớn phụ thuộc vào nguồn nhân lực. Trong khi các nguồn lực tự
nhiên chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng, nếu không được con người khai thác, sử
dụng và phát huy trong quá trình lao động thì sẽ trở thành vô dụng hoặc vẫn ở
dạng tiềm năng. Chính vì vậy, lao động là nguồn lực duy nhất có khả năng phát
hiện khơi dậy và cải biến các nguồn lực tự nhiên và nguồn lực xã hội khác.

Thực tiễn cho thấy, có nhiều quốc gia rất nghèo tài nguyên, thậm chí không
có tài nguyên, nhưng lại có chỗ đứng vững trên thị trường, có năng lực cạnh
tranh cao như Nhật Bản, Hàn Quốc, trong khi đó có nhiều nước có tài nguyên
dồi dào, những đã không thể thành công hoặc thành công rất ít trong cạnh tranh
thị trường (như một số nước Nam Á của Châu Phi). Tìm hiểu kinh nghiệm phát
triển của các nước này, có thể thấy rằng, các quốc gia phát triển trong cạnh tranh
nhất thiết phải có đội ngũ lao động có học thức, có trình độ chuyên môn và tay
nghề cao; được tổ chức hoặc được khuyến khích.
Đặc biệt trong sự phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ và sức
sản xuất của kinh tế thị trường trong những năm đầu của thế kỷ XXI, chẳng
những không làm giảm đi vai trò của nguồn nhân lực mà ngược lại càng làm cho
nó ngày càng quan trọng hơn, khẳng định được vị thế ưu thế của nó. Điều này
hoàn toàn có thể lý giải được vì trí tuệ và kỹ năng của con người là yếu tố không
thể thiếu để lĩnh hội tri thức mới của thời đại và việc áp dụng tiến bộ khoa học
và công nghệ vào cuộc sống. Như vậy nguồn nhân lục có vai trò to lớn đối với
hội nhập kinh tế quốc tế.

14
Thanh niên là lực lượng lao động to lớn, luôn chiếm tỷ lệ lớn trong cơ cấu
dân số của mỗi quốc gia. Chính vì vậy tạo việc làm cho người lao động nói
chung, cho thanh niên nói riêng sẽ giúp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Giải quyết việc làm cho thanh niên sẽ tạo điều kiện cho thanh niên có thu
nhập ổn định. Nếu thanh niên có thu nhập ổn định, hợp lý thì họ sẽ cải thiện
được cuộc sống, đảm bảo việc đầu tư cho học tập, rèn luyện nâng cao tay nghề,
từ đó người lao động được nâng cao về chất lượng.
Tạo việc làm là một trong những động lực thúc đẩy nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực vì khi các công việc được tạo mới bao giờ cũng đòi hỏi một
chuyên môn kỹ thuật cao ở người lao động mà theo quy luật của quá trình tuyển
dụng thì người ứng cử viên cũng phải có một trình độ tương đương bởi thế cho
nên người lao động luôn có xu hướng tích luỹ kiến thức, trình độ lành nghề cho

chính mình để có cơ hội tham gia vào hoạt động kinh tế.
Trong quá trình tạo việc làm cho thanh niên chúng ta xác định được
những điểm yếu của lao động thanh niên, từ đó có điều kiện xây dựng kế
hoạch đào tạo và đào tạo lại cho lực lượng lao động thanh niên, góp phần
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Giải quyết việc làm cho thanh niên sẽ góp phần hoàn thiện hệ thống quản lý
lao động. Tức là qua quá trình tạo việc làm sẽ phân bổ lao động một cách hợp lý,
phù hợp với cơ cấu hệ thống ngành nghề có sự phối hợp hài hoà giữa các bộ
phận tổ chức, bố trí lao động phù hợp với đặc điểm tính chất của công việc sẽ
nâng cao năng suất lao động cá nhân, giúp họ phát triển khả năng và sự sáng tạo
của mình trong lao động sản xuất, thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Tóm lại, thanh niên là một bộ phận cấu thành của xã hội, và là lực lượng
lao động cơ bản. Giải quyết việc làm cho thanh niên là nhiệm vụ cấp bách và
quan trọng của mỗi quốc gia. Giải quyết việc làm cho thanh niên góp phần quan

15
trọng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, giảm thiểu các tệ nạn trong xã hội,
thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM GIẢI QUYẾT VIỆC
LÀM CHO THANH NIÊN XÃ ĐẠI TRẠCH - BỐ TRẠCH - QUẢNG BÌNH
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
2.1. Thực trạng lao động, việc làm, giải quyết việc làm cho thanh niên
xã Đại Trạch - Bố Trạch - Quảng Bình trong giai đoạn hiện nay
2.1.1. Thực trạng lao động, việc làm của thanh niên xã Đại Trạch
Trong giai đoạn từ 2005 - 2009, lao động việc làm của thanh niên xã có
nhiều thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, do nền kinh tế nước ta đang gặp nhiều khó

16
khăn, thêm vào đó là những biến động của nền kinh tế thế giới làm cho vấn đề

giải quyết việc làm cho người lao động đang trở nên bức xúc. Dân số, lao động
và việc làm là 3 yếu tố có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, sự gia tăng dân số là
nguồn cung cấp lao động cho xã hội, nhưng nếu dân số tăng quá nhanh thì vấn
đề đảm bảo việc làm cho lực lượng lao động lại là vấn đề nan giải. Sự biến động
về số lượng dân số ảnh hưởng rất lớn tới quá trình phát triển của lực lượng lao
động, đặc biệt là sự biến động về số lượng lao động.
Bảng 1. Phân bố lao động theo địa giới hành chính
Đơn vị chỉ tiêu
SL lao động CC (%)
Đại Nam 1 510 51.41
Đại Nam 2 498 41.25
Đại Nam 3 623 47.85
Đại Nam 4 675 56.83
Đông Bắc 559 57.09
Lý Nhân 603 54.91
Phúc Lý 687 58.22
Nguồn: Số liệu điều tra
Hiện nay xã Đại Trạch có mật độ dân số không cao khoảng 365 người trên
1km
2
có 3.292 hộ với 7043 nhân khẩu, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên 0.9%. Như vậy
tỷ lệ tăng dân số trên địa bàn xã còn cao, hằng năm sẽ bổ sung một lượng lớn
nguồn lao động thêm vào đó là lượng lao động chưa giải quyết được việc làm
năm trước cộng vào sẽ tạo áp lực trong công tác giải quyết việc làm.
Nhìn chung thanh niên xã còn lệ thuộc vào kinh tế gia đình. Thanh niên
trong trường học gần như 100% phụ thuộc gia đình và người thân, họ chưa tạo ra
nguồn thu nhập. Số thanh niên trong các cơ quan hành chính sự nghiệp, doanh
nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp sử dụng tối đa lực lượng lao động trẻ với
mức thu nhập từ 800.000 đến 1.500.000 đ/tháng.
Bảng 2: Tình hình dân số và lao động trong nhóm hộ điều tra

Chỉ tiêu ĐVT
30 hộ điều tra
Số lượng Cơ cấu (%)

17
1. Tổng số hộ
- Hộ nông nghiệp Hộ 8 26,67
- Hộ phi nông nghiệp Hộ 5 16,67
- Hộ kiêm Hộ 17 56,67
2. Tổng số nhân khẩu Người 143 100,00
- Nhân khẩu nông nghiệp Người 2986 90,21
-Nhân khẩu phi nông nghiệp Người 14 9,79
3. Tổng số lao động Lao động 97 100
- Lao động nông nghiệp Lao động 67 69,07
- Lao động TTCN-XD Lao động 17 17,53
- Lao động DV-TM Lao động 9 9,28
- Lao động khác Lao động 4 4,12
Nguồn : số liệu điều tra
Qua bảng số liệu điều tra ngẫu nhiên 30 hộ trên địa bàn cho ta thấy các hộ
dân ở đây sản xuất nông nghiệp vẫn là chủ yếu. Nhưng do sản xuất nông nghiệp
mang tính mùa vụ nên các hộ chuyển sang lao động kiêm. Cụ thể là 30 hộ được
điều tra thì có tới 25 hộ sản xuất nông nghiệp (chiếm 83,34 %) với 8 hộ là thuần
nông chiếm (26,67 %), còn 17 hộ kiêm chiếm (56,67 %). Có thể nói số lao động
kiêm ở phường chiếm tỷ lệ khá nhiều. Do sản xuất nông nghiệp theo mùa vụ,
trong thời gian nông nhàn lao động nông nghiệp họ chuyển sang ngành nghề
khác. Chủ yếu là xin vào làm thời vụ ở các xí nghiệp gỗ trong khu tiểu công
nghiệp. Cho nên số lao động làm việc trong các nhà máy trên địa bàn chủ yếu là
lao động phổ thông, chưa qua đào tạo khiến cho thu nhập thấp, tính bền vững
của việc làm không cao.
Nguồn thu nhập của thanh niên xã chủ yếu là từ việc làm. Khảo sát 100%

thanh niên cho thấy nguồn thu nhập chính của họ là từ lao động, có tới 70%
nguồn thu nhập là từ nghề chính, 15% từ nghề phụ và các khoản thu nhập khác
không đáng kể.
Bảng 4: Các nguồn thu nhập của thanh niên xã Đại Trạch năm 2008
TT Nguồn thu nhập Tỷ lệ %
1 Nghề chính 70%
2 Nghề phụ 15%
3 Nguồn khác 15%

18
Nguồn: Đoàn thanh niên xã Đại Trạch
Trình độ tay học vấn và tay nghề của lao động phường tuy có rất nhiều
tiến bộ so với trước đây. Tuy nhiên nhìn chung vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu.
Để đánh giá đúng về thực trạng lao động của phường cần phải xem xét đầy đủ
về chỉ tiêu phản ánh về trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn kĩ thuật của
người lao động. Trong thời đại khoa học kỹ thuật đang phát triển mạnh mẽ như
hiện nay thì lao động rất cần có trình độ chuyên môn để có thể áp dụng được các
tiến bộ khoa học và sử dụng thành thạo các thành tựu đó. Do đó mà năng suất
lao động cao hay thấp phụ thuộc rất lớn vào trình độ, chuyên môn kỹ thuật của
lao động đó. Chất lượng lao động là tiêu chí để người sử dụng đánh giá và quyết
định sử dụng lao động và để cho lao động lựa chọn lĩnh vực phù hợp. Chất
lượng lao động được đánh giá qua các chỉ tiêu: Trình độ văn hoá, trình độ
chuyên môn, sức khoẻ.…
Biểu 5: Thực trạng lao động theo trình độ học vấn và chuyên môn
Chỉ tiêu 30 hộ được điều tra
SL (người) %
Tổng số 97 100
1. Trình độ văn hóa
- Chưa tốt nghiệp cấp I 6 805
- Đã tốt nghiệp cấp I 17 15.5

- Đã tốt nghiệp cấp II 55 26
- Đã tốt nghiệp cấp III 19 50
2. Trình độ chuyên môn
- Đại học, cao đẳng 2 4
- Trung cấp 3 3,09
- Công nhân kỹ thuật 1 9.5
Nguồn: số liệu điều tra
Trình độ văn hóa và trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động ở các hộ được
phỏng vấn là thấp, đây là rào cản lớn cho việc phát triển kinh tế trong giai đoạn tới,
tỷ lệ người chưa tốt nghiệp cấp I chiếm vào khoảng 6.19%. Có thể nói trình độ
văn hoá của người lao động tuy chưa cao nhưng người lao động trong xã rất cần
cù chịu khó, luôn luôn tìm hướng để sản xuất theo hướng có giá trị cao nhất.

19
Song trong thời gian tới xã cần có phương hướng, giải pháp đẩy mạnh giáo dục
hơn nữa, nhằm nâng cao trình độ văn hoá cho người lao động. Bên cạnh đó là
trình độ chuyên môn nghiệp vụ tay nghề của lao động nông nghiệp còn yếu, hầu
hết là lao động giản đơn chưa qua đào tạo (87.63%), quá trình sản xuất còn dựa
trên kinh nghiệm sản xuất là chính. Lực lượng lao động lành nghề, lao động chất
xám không đáng kể (12.37%). Do đó xã cần đặt ra giải pháp để giải quyết kịp
thời vấn đề này, đó là tăng cường đào tạo, bồi dưỡng người lao động có trình độ
để theo kịp với xu thế kinh tế hiện nay.
Theo khái niệm thất nghiệp thì thanh niên trên địa bàn xã chủ yếu là thất
nghiệp bộ phận, số thanh niên thất nghiệp hoàn toàn chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Đối
tượng này chủ yếu là thanh niên trong các gia đình công nhân viên chức, gia
đình phi nông nghiệp.
Từ thực trạng lao động việc làm thanh niên xã Đại Trạch nói riêng, có thể
rút ra những nhận xét:
- Lao động trên địa bàn xã còn tập trung nhiều ở khu vực nông nghiệp.
Trong khi đó khả năng sử dụng lao động ở khu vực này rất hạn chế, dẫn đến tình

trạng thừa lao động.
- Chất lượng lao động và thu nhập thấp. Một số lượng lớn lao động nông
nghiệp chưa qua đào tạo, số lao động được đào tạo nhìn chung vẫn chưa đáp ứng
được nhu cầu cần phải đào tạo lại.
- Cơ cấu lao động đã có bước thay đổi những vấn còn những điểm bất hợp
lý. Sự thay đổi cơ cấu lao động còn rất chậm trong khi cơ cấu kinh tế thay đổi
tương đối rõ nét.
2.1.2. Giải quyết việc làm cho thanh niên xã Đại Trạch trong những năm
gần đây
Nhận thức rõ ý nghĩa của công tác giải quyết việc làm Đảng bộ, chính
quyền xã Đại Trạch đã có rất nhiều nỗ lực trong công tác giải quyết việc làm cho
người lao động, đặc biệt là lao động thanh niên. Hàng năm xã tạo được xấp xỉ

20
khoảng 1000 chỗ làm mới, trong đó thông qua kênh đầu tư phát triển tạo được
hơn 800, kênh tín dụng 200. Trong tổng số lao động làm việc hằng năm có tới
60% - 70% trong độ tuổi từ 15 - 30 tuổi. Kênh đầu tư phát triển có vị trí cực kỳ
quan trọng trong giải quyết việc làm, đồng thời thông qua kênh tín dụng hỗ trợ
đối tượng ưu tiên đã tạo được việc làm cũng không kém phần quan trọng. Trong
những năm vừa qua nhờ chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp hoá, hiện
đại hoá mà số người có việc làm tăng lên đáng kể. Trong nông nghiệp bên cạnh
sản xuất hai vụ lúa trong năm, thì xã còn có chính sách quy hoạch vùng trồng
rau sạch, và đặc biệt là triển khai dự án nuôi cá rô phi đơn tính xuất khẩu.Nhờ
vậy đã thu hút được rất nhiều lao động, làm tăng hệ số thời gian sử dụng trong
lao động nông nghiệp.
Hiện nay đã có nhiều doanh nghiệp mở rộng nhà xưởng sản xuất sử dụng
trên 90% là lao động thanh niên. Tuy nhiên nhìn chung thanh niên làm việc
trong các doanh nghiệp trên chủ yếu vẫn là lao động phổ thông, số lao động chất
lượng cao chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Bên cạnh những thành tựu đạt được trong công
tác giải quyết việc làm cho người lao động nói chung và thanh niên nói riêng thì

công tác này còn rất nhiều hạn chế. Công tác tuyên truyền về nghề nghiệp, việc
làm cho thanh niên xã còn mang tính chất hình thức nên số lượng thanh niên
tham gia còn rất ít, thậm chí ở một số chi đoàn không có thanh niên tham gia.
Hạn chế này xuất phát từ việc Đoàn thanh niên chưa phát huy được hết vai trò
của mình. Chất lượng việc làm, tính ổn định và bền vững trong việc làm thấp.
Điều này làm cho thu nhập của người lao động cũng không ổn định. Hiện nay
lao động thanh niên có việc làm ở xã chủ yếu là lao động phổ thông, số lao động
có trình độ chuyên môn kỹ thuật ít. Cho nên thu nhập vẫn thấp, đời sống chưa
được cải thiện bao nhiêu. Chính sách giải quyết việc làm cho lao động trên địa
bàn xã chưa đi sát với thực tế, vẫn còn nhiều vấn đề bức xúc. Trên thực tế mới
chỉ dựng lại ở mức độ đối phó, chủ yếu giải quyết tình hình bức xúc trước mắt,

21
chưa xây dựng được chiến lược ổn định lâu dài phục vụ cho chương trình phát
triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Công tác bố trí lao động giải quyết việc làm thời gian qua còn thiếu tính kế
hoạch. Lực lượng thanh niên đi tìm việc ở các địa phương khác còn mang tính
chất tự phát. Kết hợp lao động và sử dụng các nguồn lực chưa được đồng bộ dẫn
đến lãng phí tài nguyên, vốn và sức lao động. Hệ số sử dụng đồng vốn vào phát
triển kinh tế - xã hội còn thấp, khoa học kỹ thuật tiên tiến chưa được áp dụng
nhiều.
Tóm lại: Qua phân tích thực trạng lao động, việc làm và vấn đề giải quyết
việc làm cho thanh niên xã có thể rút ra một số nhận xét sau: Tỷ lệ lao động qua
đào tạo được tăng lên qua từng năm, song nhìn chung chất lượng lao động chưa
đáp ứng được nhu cầu lao động hiện nay trên thị trường. Đây là một trong
những khó khăn khi đất nước mở cửa hội nhập nền kinh tế thế giới; Tỷ lệ gia
tăng dân số tự nhiên cao (năm 2009 4,81% tăng 1,62% so với năm 2006) nên
hằng năm số người bước vào độ tuổi lao động ngày càng tăng, thêm vào đó là số
lao động chưa có việc làm từ năm trước chuyển sang làm cho vấn đề giải quyết
việc làm trở nên cấp thiết và khó khăn; Sự quan tâm của Đảng bộ, chính quyền

địa phương và các đoàn thể là nhân tố quyết định cho việc thành công mục tiêu về
giải quyết việc làm đã đề ra; Xuất khẩu lao động là việc làm có hiệu quả do đó
đòi hỏi, tìm kiếm mở rộng thị trường xuất khẩu lao động, đồng thời chú ý nâng
cao chất lượng đội ngũ lao động, phải xác định cơ chế, chính sách phù hợp giúp
đỡ các doanh nghiệp, hỗ trợ người lao động có điều kiện đi xuất khẩu lao động.
2.2. Những giải pháp cơ bản nhằm giải quyết việc làm cho thanh niên
xã Đại Trạch.
Để giải quyết vấn đề còn tồn tại trong công tác giải quyết việc làm cho
người lao động nói chung và thanh niên xã nói riêng, quan điểm chung:

22
Một là, Giải quyết việc làm cho người lao động phải gắn liền với việc thực
hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, gắn với sự phát triển và mở rộng các
thành phần kinh tế.
Hai là, Phải lấy giải quyết việc làm làm tại chỗ là chính kết hợp mở rộng và
phát triển việc làm ngoại Tỉnh, nước ngoài và trợ giúp của Nhà nước. Từ đó cần
tiến hành các giải pháp sau:
2.2.1. Đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế địa phương tạo việc làm mới
cho thanh niên
Đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế là cơ sở để thực hiện hàng loạt các vấn
đề kinh tế, chính trị, xã hội. Trong đó, kinh tế phát triển làm cho mức thu nhập
của dân cư tăng, chất lượng cuộc sống được cải thiện. Đồng thời, kinh tế phát
triển sẽ tạo điều kiện giải quyết công ăn việc làm, giảm thất nghiệp. Để đẩy
nhanh tốc độ phát triển kinh tế ở phường hiện nay trước tiên cần đẩy nhanh quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là quá trình thay đổi cấu trúc của các bộ phận
hợp thành nền kinh tế và mối quan hệ giữa chúng có hướng đích, mục tiêu. Xác
Nội dung và yêu cầu cơ bản của chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá là tăng nhanh tỷ trọng giá trị trong GDP
của các ngành công nghiệp, xây dựng (gọi chung là công nghiệp) và thương mại

- dịch vụ (gọi chung là dịch vụ), đồng thời giảm dần tương đối tỷ trọng giá trị
trong GDP của các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp (gọi chung là
nông nghiệp).
Cùng với quá trình chuyển dịch của cơ cấu kinh tế tất yếu sẽ dẫn đến những
biến đổi cơ cấu lực lượng lao động xã hội. Thực tế nhiều địa phương cho thấy
việc đa dạng hoá và chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp sang các cây
trồng, con nuôi có giá trị kinh tế cao đã không chỉ giúp tăng thu nhập cải thiện
đời sống mà còn tạo thêm được việc làm mới cho người lao động cũng như rút

23
ngắn thời gian nông nhàn. Chuyển dịch cơ cấu và đa dạng hoá sản xuất nông
nghiệp hướng vào khai thác tiềm năng, lợi thế so sánh của địa phương.
Đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp là cách giải quyết việc làm cho lao động
ở địa phương có hiệu quả, ít tốn kém và mang tình hiệu quả lâu dài. Các hoạt
động sản xuất nông nghiệp chuyển dần sang cơ giới hoá, đa dạng hoá dưới hình
thức hộ kinh doanh hàng hoá, trang trại. Chính quyền địa phương nên có những
chích sách khuyến khích, hỗ trợ các hộ nông dân đầu tư phát triển các cây trồng,
con nuôi có giá trị kinh tế cao bằng các chính sách thuế, đầu tư, tín dụng, khoa
học, công nghệ, thị trường…
Để phát triển theo định hướng đó, vấn đề quan trọng nhất là cần xây dựng,
nâng cấp hệ thống thuỷ lợi thuận tiện cho sản xuất với sự tham gia của người
dân, hỗ trợ cho người sản xuất thông tin về thị trường và tìm kiếm thị trường, hỗ
trợ về tín dụng và hệ thống các dịch vụ thông tin và chuyển giao công nghệ.
Đồng thời phát triển cơ sở hạ tầng như: đường xá, và các dịch vụ xã hội đảm bảo
cho hộ nông dân từng bước thâm nhập vào các hoạt động sản xuất, lưu thông và
tiêu thụ, tạo ra sức mua mới cho nông dân. Chuyển từ sản xuất lúa sang trồng
cây ăn quả, cây công nghiệp ngắn ngày, rau xanh có giá trị cao, trồng hoa và chế
biến nông sản tại chỗ. Kết hợp trồng lúa với nuôi trồng thuỷ sản (1 vụ lúa, 1 vụ
cá); Kết hợp cấy lúa với trồng cây ăn quả;
Đẩy mạnh phát triển các hoạt động thương mại và dịch vụ: Dựa vào tổ

chức, cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện có, tiến hành sắp xếp lại hệ thống dịch vụ đa
dạng cho sản xuất và đời sống, đa dạng hóa hình thức quy mô hoạt động, những
người tham gia hoạt động trong lĩnh vực thương mại dịch vụ cần thực hiện đúng
trách nhiệm để đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng và xã hội cho địa phương. Tuy
nhiên hiện nay hoạt động thương mại dịch vụ trong phường còn nhỏ bé, tự phát
và chưa có điều kiện tốt để mở rộng hình thức hoạt động. Vì vậy cần nâng cao
năng lực sáng tạo trong quản lý của hệ thống chính quyền cơ sở. Về phía chính
quyền cần đóng vai trò trong việc khuyến khích phát triển, đồng thời quản lý các

24
hoạt động thương mại, dịch vụ. Qua đó sẽ thúc đẩy sự phát triển việc làm tại chỗ
và nâng cao vị trí của địa phương.
Phát triển các cơ sở công nghiệp với quy mô vừa và nhỏ trên địa bàn với
hình thức sở hữu đa dạng và không hạn chế thuê mướn lao động. Phát huy được
vai trò, thế mạnh và sự năng động, sáng tạo của thanh niên trong phường. Đồng
thời tiếp tục thực thi những chính sách ưu đãi nhằm thu hút các nhà đầu tư, sử
dụng hiệu quả quỹ đất của phường.
Phải từng bước đa dạng hoá việc làm, đa dạng hoá thu nhập, giảm dần số
lao động nông nghiệp; đa dạng hoá các ngành nghề để tạo việc làm tại chỗ cho
thanh niên.
2.2.2. Xã hội hoá vấn đề giải quyết việc làm, tăng cường sự lãnh đạo của
nhà nước về việc làm của thanh niên
Xã hội hoá trong giải quyết việc làm cho thanh niên là quá trình mở rộng sự
tham gia của các chủ thể, các đối tác xã hội với các hình thức, phương thức đa
dạng, linh hoạt nhằm huy động tối đa nguồn lực của cộng đồng, xã hội cùng Nhà
nước tạo nhiều việc làm cho lao động xã hội, cho thanh niên. Đây không chỉ là
chủ trương mà còn là giải pháp quan trọng để huy động mọi nguồn lực của xã
hội vào giải quyết việc làm, là vấn đề vừa cơ bản, lâu dài vừa cấp thiết hiện nay
ở nước ta, đặc biệt là đối với thanh niên.
Trước hết cần phát huy vai trò xung kích của tổ chức Đoàn Thanh niên

trong giải quyết việc làm cho thanh niên. Đoàn Thanh niên cần phải được tạo
điều kiện và chủ động tham gia với Nhà nước hoàn thiện chính sách, thực hiện
các hoạt động định hướng nghề nghiệp cho thanh niên; đẩy mạnh phong trào thi
đua “Tình nguyện xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”; trực tiếp quản lý và triển khai
các chương trình, dự án cụ thể về dạy nghề, tạo việc làm, dịch vụ việc làm cho
thanh niên,… theo hướng dẫn của Nhà nước.
Tổ chức Đoàn phải gắn hoạt động của mình sát với điều kiện phát triển
kinh tế xã hội của địa phương, như xây dựng các làng thanh niên lập nghiệp, các

25

×