I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Dân tộc Việt Nam có lịch sử lâu đời. Từ xưa, nhân dân ta đã coi trọng việc
lấy lịch sử để giáo dục thế hệ trẻ trong việc dựng nứoc và giữ nước. Năm 1941,
khi về nước Lịch sử nước ta” mở đầu bằng hai câu.
“Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”
Có thể khẳng định rằng, tác dụng của môn lịch sử không chỉ cung cấp kiến
thức về quá khứ mà còn có tác dụng về tình cảm, phẩm chất, đạo đức, quan điểm
chính trị, về nhận thức tư tưởng và khả năng hành động.
Thế nhưng trong nhiều năm qua, do những nguyên nhân khách quan và chủ
quan, chất lượng học tập lịch sử ngày càng giảm sút, đến mức báo động. Trong
thời gian gần đây, các cơ quan truyền thông đang nêu lên một thực trạng mà cả
xã hội quan tâm, đó là sự xuống cấp của bộ môn lịch sử trong ngành giáo dục:
Thái độ thờ ơ của học sinh đối với môn lịch sử và kết quả trong các kì tuyển
sinh, hàng ngàn bài thi môn lịch sử của học sinh không có điểm (điểm 0), những
bài thi “cười ra nước mắt” Với thực trạng đáng lo ngại đó, là một người giáo
viên giảng dạy môn lịch sử, tôi cảm thấy chạnh lòng và thấy mình cũng phải có
trách nhiệm. Thực trạng đó, khiến tôi suy nghĩ nhiều, làm sao để khắc phục tình
trạng đó và nâng cao nhận thức, kết quả học tập môn lịch sử.
Qua kinh nghiệm 12 năm công tác giảng dạy môn lịch sử và tìm hiểu thực
tế, tôi mạnh dạn quyết định viết đề tài: “Một vài biện pháp giúp học sinh phát
triển kỹ năng tự học và ghi nhớ kiến thức lịch sử cấp THPT”.
2. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Tên đề tài đã nói rõ phần nào về đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
sáng kiến kinh nghiệm. Đề tài trình bày những vấn đề về vai trò của giáo viên
1
trong dạy học môn lịch sử cÊp THPT và những biện pháp giúp học sinh phát triển
kĩ năng tự học và ghi nhớ kiến thức lịch sử. Người giáo viên phải xác định được
đối tượng người học và tìm hiểu cũng như nắm bắt, phân tích được tình hình
thực trạng để từ đó có những cách thức biện pháp trong đổi mới phương pháp
dạy học, tránh nhàm chán trong tiết học, tạo hứng thú học tập tập bộ môn; đề cập
một số cách thức biện pháp bồi dưỡng phát triển kĩ năng tự học và dễ dàng ghi
nhớ kiến thức lịch sử.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong việc thực hiện nghiên cứu một vấn đề - đề tài, một sự vật hiện
tượng chúng ta cần thực hiện nhiều phương pháp, trong đề tài sáng kiến kinh
nghiệm này tôi cũng sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu như: Tìm hiểu, điều
tra thực tế, thống kê, phân tích, đánh giá…
Những phương pháp này đã góp phần rất lớn cho tôi hoàn thành đề tài
sáng kiến kinh nghiệm này.
Qua các phương pháp nghiên cứu làm việc như đọc các tài liệu tham khảo,
tìm hiểu thực trạng việc học tập môn lịch sử của học sinh cũng như trao đổi với
học sinh về thái độ tình cảm cũng như phương pháp học tập tôi rút ra được
nhiều kết luận để viết đề tài.
II. NỘI DUNG
1. THỰC TRẠNG
1.1. Thuận lợi.
Hiện nay, cùng với sự phát triển chung của xã hội, người giáo viên cũng
như học sinh có điều kiện tiếp thu nhiều nguồn thông tin truyền hình báo chí, các
tư liệu lịch sử phong phú, đa dạng và các phương tiện bổ trợ cho công tác dạy và
học.
1.2. Khó khăn.
2
Cùng với những thuận lợi như đã nói ở trên, thì trong công tác giảng dạy
tôi cũng nhận thấy được nhiều khó khăn-bất cập, nguyên nhân dẫn đến chất
lượng của bộ môn lịch sử ngày càng sa sút.
Thứ nhất, trong nhận thức chung, chúng ta còn xem nhẹ môn học lịch sử,
coi môn lịch sử là “môn phụ”- không chỉ là là đa số học sinh- cho nên học sinh
chưa thật sự ý thức trong việc học tập môn học này.
Thứ hai, chương trình học và việc giảng dạy bộ môn lịch sử còn nhiều
vấn đề tồn tại: Chúng ta thấy rằng từ sau chương trình đổi mới sách giáo khoa
“dung lượng” kiến thức nhiều mà “thời lượng” thì quá ít
Thứ ba, từ những nguyên nhân dẫn đến học sinh “ngán” - không hứng
thú với môn lịch sử, học lịch sử chỉ là để đối phó trong thi cử, nên đa số học
sinh, học lịch sử theo phương pháp “thuộc lòng” “máy móc” và còn nhiều
nguyên nhân khác nữa.
Chính những vấn đề đó mà có những bài thi của học sinh “cười ra nước
mắt”, những bài thi điểm 0.
2. CƠ SỞ LÍ LUẬN
2.1. Khái niệm.
* Khái niệm về Kỹ năng:
Kỹ năng là khả năng ứng dụng tri thức khoa học vào thực tiễn {Từ điển
tiếng Việt}
Có nhiều định nghĩa khác nhau về kỹ năng. Các định nghĩa thường bắt
nguồn từ góc nhìn chuyên môn và quan niệm của mỗi cá nhân. Tuy nhiên hầu
hết chúng ta đều thừa nhận rằng kỹ năng được hình thành khi chúng ta áp dụng
tri thức khoa học vào thực tiễn. Kỹ năng học được do quá trình lặp đi lặp lại một
hoặc một nhóm hành động nhất định nào đó. Kỹ năng luôn có chủ đích và định
hướng rõ ràng.
3
Vậy, Kỹ năng là năng lực hay khả năng của chủ thể thực hiện thuần thục một
hay một chuỗi hành động trên cơ sở hiểu biết (kiến thức hoặc kinh nghiệm)
nhằm tạo ra kết quả mong đợi.
*Khái niệm về Tự học:
Người ta cũng có nhiều quan niệm về tự học, có người cho rằng: Tự học là
học riêng một mình ?
Trong quá trình học tập bao giờ cũng có tự học, nghĩa là tự mình học tập hoặc
hợp tác với bạn (nhóm) học, không có sự giảng dạy một cách trực tiếp của giáo
viên tự bản thân tìm tòi, lao động bằng tri óc để nắm bắt, hiểu một vấn đề, một
sự vật hiện tượng
Việc tự học của học sinh là việc tự nắm vững kiến thức lịch sử một cách
chính xác, vững chắc, được suy nghĩ nhận thức sâu sắc và có thể vạn dụng một
cách thành thạo.
Vì vậy, có thể quan niệm việc tự học trong quá trình học tập của học sinh là
việc các em độc lập hoàn thành những nhiệm vụ được giao, với sự giúp đỡ,
hướng dẫn, kiểm tra của giáo viên. Việc tự học như vậy bao gồm cả việc tập
dượt nghiên cứu.
* Khái niệm về Kỹ năng tự học:
Từ hai khái niệm trên, chúng ta thấy rằng Kỹ năng tự học là khả năng làm
chủ các hoạt động học tập của bản thân người học, như kỹ năng lập được kế
hoạch tự học - thời gian thời điểm học hợp lý, kỹ năng đọc sách, ghi chép bài,
người học xác định được mục tiêu, phương pháp học tập một cách hợp lý và đạt
hiệu quả cao.
* Khái niệm về Nhớ:
Nhớ là “ghi vào trong trí óc cho khỏi quên” [Từ điển Tiếng Việt, NXB Văn
hoá thông tin, 2001, tr. 524]. Có nhiều nguyên nhân làm người ta nhớ: lặp đi
lặp lại nhiều lần, thấu hiểu vấn đề, có tình cảm, tình yêu, có ấn tượng mạnh
4
2.2. Sự cần thiết phải phát triển kỹ năng tự học của học sinh trong nhà
trường phổ thông.
Xã hội ngày càng phát triển thì việc hình thành “xã hội học tập” và việc
phát triển một nền “Giáo dục suốt đời” càng có ý nghĩa. Việc học tập suốt đời
giúp cho những người đang làm việc luôn được cập nhật với những kiến thức và
những hiểu biết mới có ý nghĩa về mặt xã hội, chính trị, văn hóa, góp phần tích
cực xây dựng một xã hội bền vững. Vì vậy trong việc học thì tự học là cốt lõi để
giải quyết vấn đề học tập suốt đời. Nhưng tự học như thế nào? Và hình thành
năng lực tự học cho học sinh THPT ra sao đối với từng môn học cũng là vấn đề
cần phải bàn đến. Đồng thời xuất phát từ đòi hỏi của thực tiễn giáo dục: Trong
điều kiện của xã hội hiện đại, khi mà khoa học và công nghệ phát triển rất mạnh
mẽ, sự bùng nổ của cách mạng thông tin đã tác động, ảnh hưởng sâu sắc đến
giáo dục nói chung và quá trình dạy học nói riêng thì giáo dục ý thức tự học một
cách thường xuyên theo một phương pháp khoa học cho HS là một nhiệm vụ
nặng nề của người thầy. Chỉ có dạy cách học và học cách tự học, tự học sáng tạo
mới đáp ứng được yêu cầu cao của sự phát triển xã hội.
Học sinh THPT đang trong lứa tuổi phát triển mạnh về thể chất hình thành
những phẩm chất mới về trí tuệ, nhân cách thuận lợi để hình thành năng lực tự
học vì vậy giáo viên phải rèn luyện năng lực tự học để từng bước hình thành kỹ
năng tự học cho họ, đây cũng là vấn đề cốt lõi trong đổi mới cách dạy học hiện
nay.
Trong xu thế phát triển của thời đại và công cuộc cải cách giáo dục của Bộ
Giáo dục và đào tạo, ngành giáo dục hiện nay xác định học sinh là trung tâm, là
người chủ động tích cực và sáng tạo, người giáo viên chỉ đóng vai trò là người
điều khiển hướng dẫn học sinh học tập Với việc xác định học sinh là trung tâm,
giáo viên là người điều khiển, hướng dẫn học sinh thì người giáo viên đóng vai
trò hết sức quan trọng, đó là người giáo viên phải nắm vững kiến thức của toàn
5
bộ chương trình và phải lập được kế hoạch giảng dạy khoa học mang tính bao
quát và cụ thể - đặc biệt là giáo án trong từng tiết dạy
2.3. Một số lưu ý khi học sinh tự học.
Việc tự học của học sinh là rất quan trọng và đóng vai trò cao trong kết
quả học tập của học sinh. Tuy nhiên, khi mới áp dụng cách học này học sinh còn
gặp nhiều khó khăn, bỡ ngỡ và nhiều khi cảm thấy không hiệu quả bằng cách
học truyền thống là thầy đọc - trò chép và về nhà chỉ việc học thuộc lòng những
gì thầy cô cho ghi tại lớp. Cho nên, trong quá trình tự học, học sinh cần lưu ý
một số vấn đề.
- Trước hết, học sinh cần nắm rõ thế nào là tự học; tự học là một chu trình
3 giai đoạn: Tự nghiên cứu, tìm tòi- Tự thể hiên- Tự kiểm tra và điều chỉnh. Chu
trình này thực chất là con đường phát hiện vấn đề, định hướng cách giải quyết và
giải quyết vấn đề học tập.
- Thứ hai, học sinh cần xác định mục tiêu, nội dung học tập. Mục tiêu là
cái đích chúng ta muốn đạt được, từ đó chúng ta mới xác định được nội dung cần
học và xây dựng phương pháp học tập. Chỉ khi nào xác định được mục tiêu-mục
đích thì mới học hiệu quả.
- Thứ ba, học sinh cần xây dựng được kế hoạch học tập một cách khoa học
rõ ràng và cố gắng thực hiện đúng kế hoạch.
- Thứ tư, học sinh phải có phương pháp, cách học hiệu quả. Phương pháp
đúng đắn là chìa khóa đi tới thành công trong học tập.
3. BIỆN PHÁP
Trong đề tài này tôi xin đưa ra một vài biện pháp (phương pháp học tập)
giúp học sinh phát triển kỹ năng tự học và ghi nhớ kiến thức lịch sử.
3.1. Tìm ý cơ bản và tập diễn đạt các ý bằng ngôn ngữ của mình.
Khi học bài học sinh không nên học nguyên văn trong sách giáo khoa ,
hoặc nội dung bài học mà giáo viên chép ở lớp Cách học như vậy mang tính
6
“máy móc” còn gọi là học “thuộc lòng”, dẫn đến nặng nề, khó hiểu và khó nhớ.
Để nhớ được kiến thức cơ bản, các em nên kết hợp sách giáo khoa, bài giảng của
giáo viên, tập vở Trước hết, học sinh cần phải nhớ các phần, mục chính rồi sau
tìm xem mỗi phần, mục gồm mấy ý chính rồi diễn đạt bằng ngôn ngữ của
mình để học; Cách học này học sinh có thể Sơ đồ hóa đơn vị kiến thức theo dạng
cành cây, mô hình, biểu đồ Học sinh chỉ cần nhớ “ý” chứ không cần thiết nhớ
“văn” (có nghĩa học sinh không nhất thiết phải diễn đạt (nói và viết) giống hệt
như sách giáo khoa hoặc như lời giảng của thầy cô, miễn sao đúng là được).
Ví dụ, khi học diễn biễn một cuộc chiến tranh, một quá trình lịch sử thì nhất
thiết phải nhớ mốc mở đầu, đỉnh cao, kết thúc và một số sự kiện tiêu biểu khác
để nhớ. Cụ thể, khi học Cách mạng tư sản Pháp cuối XVIII: Sự kiện mở đầu
14/7/1789 nhân dân Pari nổi dậy phá ngục Baxti; đỉnh cao: 2/6/1793 phái
Giacobanh lên nắm quyền; sự kiện thoái trào - kết thúc: 27/7/1794- tháng
Técmiđo (tháng Nóng) Để dễ học dễ nhớ hơn, nội dung này chúng ta có thể sơ
đồ hóa kiến thức.
Ý nghĩa thắng lợi của mỗi cuộc cách mạng lớn, mỗi cuộc kháng chiến lớn
thường có ý nghĩa dân tộc và quốc tế, ý nghĩa dân tộc thường có hai ý nhỏ là kết
thúc cái gì và mở ra cái gì; ý nghĩa quốc tế cũng có hai ý nhỏ là tác động đến thù
và bạn như thế nào. Cụ thể, khi học về ý nghĩa thắng lợi của cuộc mạng tháng
Tám 1945, cuộc kháng chiến chống Pháp (1945-1954) hay cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước (1954-1975) chúng ta đều nhận thấy những điểm chung như
vậy.
Nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng Pháp (1945-1954), có các ý: Đảng và
Bác Hồ, nhân dân, hậu phương và quốc tế.
Trên cơ sơ các ý cơ bản đã chọn, lập dàn ý sơ đồ hóa kiến thức, học sinh
tập diễn đạt theo ngôn ngữ của mình. Khi mới học theo phương pháp này học
sinh sẽ gặp nhiều khó khăn như trình bày bài dòng,vấp váp và có khi thiếu chính
7
xác, có thể diễn đạt sai kiến thức. Tuy nhiên, khi đã tập học theo cách này nhiều,
thuần thục trở thành kỹ năng thì rất dễ học, dễ nhớ và nhớ lâu. Nhà giáo dục
Geoffrey Petty người Anh cho rằng: “Đọc vở ghi chép hay nghe những lời tóm
tắt chưa đủ, chính tập nhớ lại mới có tác dụng. Các kỹ năng trí tuệ và thể chất
cũng được lưu giữ tốt nhất bằng cách dùng đi dùng lại, chứ không phải bằng
những phương pháp thụ động”. Khi học tập bằng phương pháp này học sinh
cũng cần tự tổ chức các buổi học nhóm- chỉ cần hai học sinh truy bài cho nhau
để kiểm tra nhau và tự điều chỉnh.
3.2. So sánh .
So sánh cũng là cách học hiệu quả để ghi nhớ kiến thức, trong lịch sử có
những đơn vị nội dung kiến thức tương đồng hoặc tương phản Học sinh có thể
so sánh về đơn vị nội dung kiến thức, về sự kiện, số liệu, các nhân vật lịch sử, so
sánh về thuật ngữ gần giống nhau nhưng nội dung hoàn toàn khác nhau so sánh
theo cặp phạm trù hoặc lập bảng và điều đó giúp học sinh tránh tình trạng “râu
ông nọ cắm cằm bà kia” trong trình bày - diễn đạt. Với cách học này, học sinh
chúng ta đưa các nội dung kiến thức lại gần với nhau từ đó nhận rõ hai nội dung
đơn vị kiến thức đó có điểm gì chung nhất và điểm khác biệt nào cần nhớ rõ, từ
đó học sinh có thể học một mà biết được hai và đạt hiệu quả cao hơn.
Tìm hiểu về đơn vị - nội dung kiến thức tương đồng hoặc tương phản, ví dụ:
đường lối cách mạng của Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh (đầu thế kỷ XX),
học sinh cần lập bảng so sánh điểm giống nhau và khác nhau về xu hướng cách
mạng của hai vị lãnh tụ này. Cụ thể, chúng ta có thể lập bảng như sau:
Xu hướng
cách mạng
PHAN BỘI CHÂU PHAN CHÂU TRINH
Giống nhau
Khác nhau
8
Hoặc khi tìm hiểu về nguyên nhân phát triển kinh tế của Mĩ và Nhật sau chiến
tranh thế giới thứ hai, chúng ta thấy rằng hầu hết các nguyên nhân cơ bản là
giống nhau, chỉ có điều sách giáo khoa và các tài liệu thường không sắp xếp các
nguyên nhân một cách thuận tiện cho người học, khi học học sinh nên lập bảng
và trình bày 5 nguyên nhân của Mĩ và 6 nguyên nhân của Nhật bằng sắp xếp
tương đồng theo từng ý phù hợp. Cụ thể, học sinh lập bảng như sau:
Nguyên nhân phát triển kinh tế Mỹ - Nhật Bản sau Chiến tranh thế giới thứ
hai.
Nguyên nhân phát triển kinh tế Mỹ
Nguyên nhân phát triển kinh tế
Nhật Bản
1.Áp dụng thành tựu KHKT
2.Lãnh thổ Mỹ rộng lớn (Điều kiện tự
nhiên )
3.Mỹ lợi dụng chiến tranh để làm giàu
4.Các tổ hợp công ty Công nghiệp quân sự,
các công ty độc quyền có sức cạnh tranh
lớn và hiệu quả ở cả trong và ngoài nước
5.Các chính sách và biện pháp điều tiết của
Nhà nước đóng vai trò quan trọng
1.Áp dụng thành tựu KHKT
2.Con người được coi là vốn quý
nhất, là nhân tố quyết định hàng đầu
(Con người)
3.Chi phí cho quốc phòng thấp
4.Các công ty Nhật năng động, có
tầm nhìn xa, quản lí tốt nên có tiềm
lực và tính cạnh tranh cao
5.Vai trò lãnh đạo, quản lý có hiệu
quả của Nhà nước
6.Tận dụng các yếu tố bên
ngoài:nguồn viện trợ
Từ bảng so sánh trên, học sinh có thể nhận thấy rằng nguyên nhân phát triển
kinh tế Mỹ và Nhật Bản sau năm 1945 cơ bản là giống từ 1,3,4,5 (6), chỉ có
nguyên nhân thứ 2 là có sự khác biệt: Mỹ (điều kiện tự nhiên thuận lợi); Nhật
Bản (Con người là vốn quý- kỷ luật lao động, năng động, sáng tạo, giàu nghị
lực )
9
Trong quá trình học và tự học chúng ta cần có sự so sánh để dễ dàng chiếm
lĩnh tri thức; ví dụ: Cương lĩnh chính trị (2/1930) với Luận cương (10/1930);
Hiệp định Giơnevơ (21/7/1954) với Hiệp định Pari (27/1/1973), Tổ chức Liên
Hợp quốc với tổ chức ASEAN
Học lịch sử có rất nhiều số liệu và ngày tháng khó nhớ, nhưng chúng ta nếu
biết vận dụng tìm những điểm chung tương đối và đưa ra so sánh thì một số sự
kiện ghi nhớ rất đơn giản. Ví dụ, từ khi Đức đánh bại Pháp (22/6/1940) đến khi
Đức tấn công Liên Xô (22/6/1941) là đúng một năm trời và một năm cũng là thời
gian từ khi tướng Nava được cử làm Tổng chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Đông
Dương (7/5/1953) đến khi tướng Đờ Cátơri đầu hàng ở Điện Biên phủ
(7/5/1954). Số người chết và bị thương trong Chiến tranh thế giới thứ nhất và thứ
hai lần lượt là: Lần 1: 10 - 20 triệu ; lần 2: 60 - 90 triệu
Trong thực tế có rất nhiều đơn vị kiến thức nội dung có mà chúng ta có thể
áp dụng đưa vào so sánh để học một cách hiệu quả.
3.3. Sử dụng tranh ảnh, lược đồ-bản đồ.
Sử dụng tranh ảnh, lược đồ thường gây ấn tượng mạnh cho học sinh, ấn
tượng mạnh là một trong những nguyên nhân giúp học sinh ghi nhớ kiến thức
một cách sâu sắc hơn. Ví dụ, bức tranh biếm hoạ: “Tình cảnh người nông dân
Pháp trước cách mạng”, sẽ giúp học sinh nhớ ngay đến nỗi thống khổ của người
nông dân Pháp trước cách mạng 1789, đó cũng là một nguyên nhân dẫn đến
bùng nổ cách mạng tư bản Pháp. Hình ảnh “Quyết tử quân Hà Nội ôm bom ba
càng đón đánh xe tăng Pháp”, sẽ làm học sinh hiểu sâu sắc sự “cảm tử” anh
dũng hi sinh của các Trung đoàn thủ đô trong những ngày đầu kháng Pháp ở Hà
Nội ( ôm bom đánh địch ). Sử dựng lược đồ: “Cuộc chiến đấu của ta ở các đô thị
phía bắc vĩ tuyến 16”, học sinh sẽ dễ dàng nhớ kiến thức và xác định các đô thị:
Hà Nội, Hải Phòng, Bắc Giang, Bắc Ninh, Nam Định, Vinh, Huế, Đà Nẵng
10
Tranh ảnh, lược đồ-bản đồ là phương tiện dạy và học, là một kênh thông tin
hết sức quan trọng, là hình ảnh trực quan sinh động giúp học sinh hứng thú hơn
trong học tập và góp phần rất quan trọng trong việc ghi nhớ kiến thức của học
sinh.
3.4. Lập bảng niên biểu gắn với các sự kiện .
Để dễ dàng cho việc hệ thống hóa kiến thức nội dung bài học, chúng ta có
thể lập bảng niên biểu ngắn gọn, trong đó chia thành các cột thời gian, cột sự
kiện và cột nội dung hoặc diễn biến vắn tắt trong một bài học lịch sử. Việc lập
bảng này sẽ giúp các thí sinh hệ thống hóa được khối lượng kiến thức bài học
nhanh và ngắn gọn nhất, đồng thời sẽ nhìn nhận trực quan và dễ nhớ các mốc
thời gian cùng với các sự kiện, nội dung xảy ra tương ứng với mốc thời gian đó.
Từ đó, thí sinh nắm được nội dung bài học và thuộc bài lâu hơn.
3.5. Dùng các thao tác ghi nhớ linh hoạt.
Việc ghi nhớ các mốc thời gian và các sự kiện ở môn Lịch sử lâu nay được
coi là một trong những vấn đề khó khăn của nhiều häc sinh. Hơn nữa, việc ghi
nhớ các yếu tố này phải có trật tự, logic và phải chính xác nữa. Vì vậy, trong quá
trình học, mỗi häc sinh cần tùy vào khả năng và hoàn cảnh để ghi nhớ sao cho
hiệu quả. Chẳng hạn, để nhớ được lâu các sự kiện và các mốc thời gian trong
một bài học, có thể ghi ra một tờ giấy hoặc sổ tay để khi cần thiết có thể tranh
thủ học.
Khi học ôn, học sinh cần sử dụng kỹ năng tái hiện và xác lập mối quan hệ giữa
bài đang học với kiến thức của các bài đã học để không rơi vào việc quên kiến
thức cũ, chẳng hạn khi học lịch sử giai đoạn từ 1961- 1975, ta nên so sánh ba
chiến lược chiến tranh theo tiến trình học tập để khắc sâu kiến thức. Trong học
ôn môn Lịch sử, không phải ai cũng có khả năng nhớ chi tiết các ngày tháng, con
số. Do đó, mỗi học sinh nên tập cho mình cách ghi nhớ mang tính “tương đối”.
Tức là trong sự kiện hoặc một chiến dịch nào đó, ta không nhất thiết phải nhớ cụ
11
thể ngày, giờ mà chỉ cần nhớ tháng, năm hoặc là khoảng thời gian trong năm xảy
ra sự kiện đó. Ví dụ: đầu năm 1945, cuối năm 1945, thu-đông năm 1947 Tuy
nhiên những sự kiện lớn, quan trọng của tiến trình lịch sử thì bắt buộc phải nhớ
như: Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (03-02-1930), ngày Bác Hå đọc
bản Tuyên ngôn độc lâp (02-9-1945) hoặc ngày giải phóng miền Nam thống nhất
đất nước (30- 4-1975)…
3.6. Hệ thống hóa lại kiến thức.
Sau khi học bài xong, học sinh cần kiểm tra và hệ thống hóa lại kiến thức bài
học một lần nữa, nếu cảm thấy chưa đạt thì phải có biện pháp khắp phục ngay.
Đây là khâu quan trong đối với các môn khoa học xã hội, bởi nếu ta học xong
mà không hệ thống hóa kến thức sẽ dẫn đến tình trạng “học trước quên sau”,
“râu ông nọ cắm cằm bà kia” Thao tác này cũng giúp cho thí sinh có cách nhìn
tổng thể, khách quan về các chặng đường, giai đoạn lịch sử và rút ra những kỹ
năng nắm bắt, so sánh, lý giải. Từ đó, sẽ giải quyết được những yêu cầu của nội
dung bài học.
3.7. Thực hành, luyện tập.
Thực hành luyện tập được ví như chiếc cầu “đưa tri thức chuyển tới năng
lực” vì nó không chỉ giúp học sinh hiểu sâu mà còn nhớ lâu kiến thức. Bác Hồ
kính yêu của chúng ta từng nói “Học đi đôi với hành” “lý luận gắn liền với thực
tiễn” Thành ngữ Trung Quốc cũng có câu “Tôi nghe, thì tôi quên. Tôi thấy, thì
tôi nhớ. Tôi làm , thì tôi hiểu ”. Từ “học tập” là gồm hai động từ “học” và “tập” ;
“học” là quá trình ở lớp giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu kiến thức mới,
“tập” là thực hành, luyện tập ở nhà của học sinh. Trong đó “tập” bao gồm nhiều
hoạt động khác nhau của học sinh: Tập tìm các ý cơ bản, tập diễn đạt, làm bài
tập, vẽ lược đồ, sơ đồ, lập bảng so sánh, tìm tài liệu, đọc sách tham khảo, trao
đổi với ban Trong các môn khoa học tự nhiên thì luyện tập là công việc thường
xuyên, nhưng trong các môn khoa học xã hội, đặc biệt là môn lịch sử thì rất
12
hiếm, mà có yêu cầu học sinh thì giáo viên cũng không có thời gian để kiểm tra
sữa chữa nên cũng chưa thật hiệu quả Như vậy, học tập thì học sinh cần phải
tự thực hành luyện tập nhiều, đấy là điều tối quan trọng để học sinh nhớ lâu kiến
thức, nâng cao hiểu quả học tập.
Ngoài ra còn nhiều cách ghi nhớ khác nữa như: chuyện kể, bài hát, bài
thơ, nhớ theo ngày sinh, số điện thoại, số nhà, tên gọi
4. KẾT QUẢ THỰC HIỆN
Qua 12 năm dạy học lịch sử ở nhà trường phổ thông, tôi nhận tấy rằng
cách học của học sinh trong môn học lịch sử là hết sức thụ động, thầy cô giảng
dạy như thế nào là về nhà học thuộc lòng “máy móc” như thế mà ít chịu nghiên
cứu tìm tòi, dẫn đến những kết quả không mong đợi - học sinh ngày càng ngán
học môn lịch sử và kết quả ngày càng thấp. Với tình hình như vậy, trong dạy
học tôi đã vận dụng nhiều phương pháp nhằm tạo hứng thú học tâp cho học sinh
cũng như hướng dẫn đổi mới phương pháp học tập cho học sinh. Qua nghiên cứu
tài liệu, học hỏi và rút kinh nghiệm từ bản thân tôi thấy rằng việc tự giác học tập
của học sinh là rất quan trọng, đồng thời tự học cũng phải có phương pháp, khi
tôi đưa những phương pháp đã nêu trên hướng dẫn học sinh tự học thì học sinh
rất hứng thú và kết quả ngày càng đáng khích lệ.
* Cụ thể
Kết quả học tập môn lịch sử của học sinh khối 11 năm học 2010-2011
T
T
Lớp
Số
HS
Xếp loại học lực
Giỏi Khá TB Yếu Kém
SL % SL % SL % SL % SL %
1 11A1 40
1 3% 8 20% 26 65 5 12% 0 0
2 11A2 36
0 0 5 14% 24 67% 7 19% 0 0
3 11A3 39
0 0 6 15% 25 65% 8 20% 0 0
Kết quả học tập môn lịch sử của học sinh khối 11 năm học 2011-2012
13
T
T
Lớp
Số
HS
Xếp loại học lực
Giỏi Khá TB Yếu Kém
SL % SL % SL % SL % SL %
1 11C1 42
1 2% 12 29% 25 59% 4 10% 0 0
2 11C2 39
0 0 9 23% 24 69% 3 8% 0 0
3 11C3 41
0 0 10 24% 24 64% 5 12% 0 0
III. KẾT LUẬN
Có thể nói rằng, việc phát triển kỹ năng tự học cho học sinh đóng vai trò tối
quan trọng, góp phần nâng cao hiệu quả học tập, ngọn đèn lớn soi sáng người đi
trong đêm tối, "thiếu phương pháp người có tài cũng không đạt kết quả, có
phương pháp đúng thì người bình thường cũng làm được việc phi thường"
Trong học tập hay bất kỳ một công việc gì đều phải ứng dụng các cách thức
phương pháp phù hợp mới dẫn bạn đi đến thành công và mình phải là người chủ
động tìm tòi nghiên cứu. Cho nên, học sinh phải luôn phải tự trau dồi kiến thức,
tìm kiếm cho mình những phương pháp đúng và bồi dưỡng rèn luyện thuần thục
trở thành kỹ năng cơ bản “kỹ năng tự học và ghi nhớ kiến thức lịch sử”.
Như vậy, tự học Lịch sử không những có ý nghĩa to lớn đối với bản thân học
sinh để hoàn thành nhiệm vụ học tập của họ mà còn đối với chất lượng, hiệu quả
của quá trình dạy học Lịch sử trong nhà trường phổ thông. Tự học là sự thể hiện
đầy đủ nhất vai trò chủ thể trong quá trình nhận thức của học sinh. Trong quá
trình đó, người học hoàn toàn chủ động, tự lực tìm tòi, khám phá để lĩnh hội tri
thức lịch sử dưới sự chỉ đạo, điều khiển của giáo viên. Để phát huy tính tích cực
chủ động, sáng tạo cho học sinh, giáo viên giảng dạy môn lịch sử ở các trường
phổ thông cần có phương pháp rèn luyện năng lực tự học cho học sinh. Đây
không chỉ là một phương pháp nâng cao hiệu quả học tập mà là một mục tiêu
14
quan trọng của học tập. Tự học nói chung và tự học trong môn lịch sử nói riêng
là một vấn đề lớn và cần được nghiên cứu nhiều hơn và sâu hơn nữa
Đề xuất ý kiến :
Trong điều kiện đổi mới phương pháp dạy học hiện nay rất cần có đủ thiết bị,
đồ dùng dạy học vì vậy nếu được cung cấp đầy đủ các thiết bị , phương tiện sẽ
giúp giáo viên có nhiều thời gian vào việc nghiên cứu tài liệu phục vụ việc giảng
dạy tốt hơn .
Cần phải giảm tải dung lượng kiến thức trong chương trình sách giáo khoa hiện
hành.
Thiệu Hóa, Ngày 26 tháng 4 năm 2012
Người viết
Lê Minh Thành
15
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Sách giáo khoa lịch sử lớp 10;11;12- nhà xuất bản giáo dục
2.Từ điển Tiếng Việt, NXB Văn hoá thụng tin, 2001,
3.Hồ chí Minh toàn tập
4.Phương pháp dạy học lịch sử
( tác giả: Phan Ngọc Liên; Trần Văn Trị) NXB giáo dục
5.Tài liệu hướng dẫn thực hiện chương trình SGK.NXB giáo dục.
6.Các tài liệu khác có liên quan.
MỤC LỤC
16
I. Phần mở đầu Trang 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 1-2
3. Phương pháp nghiên cứu 2
II. Phần nội dung 2
1. Thực trạng 2
1.1. Thuận lợi 3
1.2. Khó khăn 2-3
2. Cơ sở lý luận 3
2.1. Khái niệm 3-4
2.2. Sự cần thiết phải phát triển kỹ năng tự học của học sinh trong nhà trường
phổ thông 5-6
2.3. Một số lưu ý khi học sinh tự học 6
3. Biện pháp 6
3.1. Tìm ý cơ bản và tập diễn đạt các ý bằng ngôn ngữ của mình 6-7
3.2. So sánh 8-10
3.3. Sử dụng tranh ảnh, lược đồ-bản đồ 10-11
3.4.Lập bảng niên biểu gắn với các sự kiện 11
3.5.Dùng các thao tác ghi nhớ linh hoạt 11-12
3.6.Hệ thống hóa lại kiến thức 12
3.7. Thực hành, luyện tập 12-13
4. Kết quả 13-14
III. Kết luận 14-15
Së GD&§T Thanh hãa
17
Trung tâm GDTX Thiệu Hóa
***
Sáng kiến kinh nghiệm
Một vài biện pháp giúp học sinh phát triển kĩ năng tự học và
ghi nhớ kiến thức lịch sử cấp THPT
Ngời thực hiện: Lê Minh Thành
Chuyên ngành : Lịch sử
Đơn vị: Trung tâm GDTX Thiệu Hóa
Thiệu Hóa, Tháng 4 năm 2012
18