Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

tiêu luận Ứng dụng về nguyên nhân gây bệnh theo giáo lý Phật giáo và Y học cổ truyền vào việc tu tập và công tác hoằng pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (97.18 KB, 14 trang )

Như chúng ta đã biết, xã hội càng phát triển bao nhiêu thì ngày càng có
những chứng bệnh lạ xuất hiện, Tất cả những thứ ấy ảnh hưởng trực tiếp đến
sức khỏe con người, nó luôn hành hạ con người làm cho con người muốn
sống không được, chết cũng không an như: Nhất đầu, sổ mũi, trúng gió, ung
thư, tai biếng mạch máu não…Cho nên đã mang thân này thì sẻ có bệnh, tại vì
sao vậy?. Tại vì chúng ta có mặt trên cuộc đời này là do nghiệp lực mà tái
sanh, nên cái sanh thân tứ đại duyên sanh giả hợp này hay còn gọi là thân vật
lý này cũng chịu sự chi phối của thế gian như: Mừng, giận, vui, buồn, khen,
chê, tốt, xấu,… này mà thôi.
Chính vì mang nhiều bệnh như vậy nên ngày nay có nhiều bệnh viện chuyên
khoa, các phòng khám tư, phòng y học cổ truyền, phòng y học dân tộc, phòng
mạch,… ra đời để nhằm đáp ứng một phần nào nhu cầu cuộc sống con người
trong xã hội hiện đại hóa này. Nhưng ở đây các bác sĩ chỉ chửa lành những
căn bệnh về thân mà thôi, còn về tâm bệnh không chửa trị được. Đức Phật thì
khác Ngài chửa trị cả tâm bệnh lẫn thân bệnh. Đức Phật được người đời tự
xưng cho Ngài danh hiệu là bậc “ Vô Thượng Y Vương ”. Nghĩa là Vua của các
thầy thuốc, thầy của các thầy, không ai hơn đức Phật được. Vì thế đức Phật
mới ra đời, Ngài có công năng chữa trị cho tất cả chúng sanh, hễ người nào
có bệnh thì Ngài đều cho thuốc cả. Cho nên đức Phật đã hốt những vị thuốc để
chữa bệnh cho toàn thể chúng sanh các cảnh trời và người. thuốc ấy là: “Tứ
Niệm Xứ, Tứ Chánh Cần, Tứ Thần Túc, Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Giác Chi và
Bát Chánh Ðạo”…Những vị thuốc này chữa cho chúng sanh khỏi bệnh: Tà
Kiến, Tà Tư Duy, Tà Ngữ, Tà Nghiệp, Tà Mạng, Tà Tinh Tấn, Tà Niệm và Tà
Ðịnh, và làm cho chúng sanh nhờm gớm những sự luyến ái và tham dục,
những tâm trạng hôn trầm dã dượi, hoài nghi, ngã mạn, phóng dật, không
biết xấu hổ, không biết thương người và tất cả những điều xấu xa tội lỗi ấy.
Cho nên chúng sanh đa bệnh thì Phật pháp đa phương vậy.
Để thuận tiện cho việc hoằng pháp lợi sanh, đem đạo vào đời bằng phương
pháp trị liệu, người hoằng pháp vừa là vị lương y phải biết vận dụng Phật
pháp cùng phối hợp y học như thế nào để điều trị hai thứ bệnh thân và tâm
cho con người được khỏi hẳn. Đây là một trách nhiệm khá nặng nề đối với


những người mang trọng trách hoằng pháp hôm nay. Ngũ minh trong đó là Y
phương minh là phương pháp hữu hiệu mà ta có thể sử dụng trong việc
hoằng pháp lợi sanh. Cho nên chúng ta phải biết kết hợp hài hòa giữa Y học
và Phật giáo đi vào đời để cùng hòa nhập một cách thiết thực để cứu khổ ban
vui cho nhân loại. Chính vì thấy tầm quan trọng như vậy nên người viết chọn
cho mình đề tài “Ứng dụng về nguyên nhân gây bệnh theo giáo lý Phật
giáo và Y học cổ truyền vào việc tu tập và công tác hoằng pháp” để làm
bài nghiên cứu cho tập tiểu luận này. Người viết tổng hợp nhiều nguồn tài
liệu liên quan và vận dụng phương pháp phân tích bình giải, lập luận, chứng
minh,…để làm sáng tỏ các vấn đề trên. Do đó, trong lúc hành văn cũng như cú
pháp không được xuông câu lắm, ngưỡng mong quý giảng viên cũng như các
thiện tri thức góp ý cho bài tiểu luận lần sau được thành công tốt đẹp hơn.
1. NỘI DUNG
2. Nguyên nhân gây bệnh theo giáo lý Phật giáo
Như vậy, chúng ta có thể nói rằng: đức Phật là một bực lương y đại tài, Ngài
tùy theo bệnh mà cho thuốc, dù đó là căn bệnh nguy hiểm Ngài vẫn chỉ con
đường cứu chửa không hề ngần ngại gian khổ. Đối với chúng sanh đang chìm
đắm lặn hập trong biển sinh tử, Ngài tùy theo hoàn cảnh, căn cơ, mọi đối
tượng, tùy sự mê mờ nhiều ít mà cho phương thuốc chửa trị. Cho nên Ngài
đưa ra tám vạn bốn ngàn pháp môn tu để nhằm đối trị căn cơ của mỗi chúng
sanh cho thuốc, bệnh nhân nào cần thuốc gì thì dùng thuốc đó, ví dụ như:
người nào tâm bất an thì dùng phương thuốc tọa thiền, đếm hơi thở, người
nào muốn cầu an gia đình thì dùng thuốc tụng kinh Phổ Môn, cầu siêu thì
dùng thuốc trị là tụng kinh Di Đà, người nào muốn cầu bệnh tật tiêu trừ thì
dùng thuốc tụng kinh Dược Sư…nhưng chung quy lại thì con người chúng ta
không thoát khỏi quy luật của Tứ Thánh Đế khiến chúng sanh khổ đau. Trước
tiên Ngài nói nỗi khổ của sanh lão bệnh tử là khổ đế. Sau đó ngài nói nguyên
nhân của khổ là tập đế. Con đường đưa đến diệt khổ là diệt đế và cuối cùng
Ngài chỉ con đường tịch diệt, an lạc, niết bàn là đạo đế.
Tóm lại thì bát khổ như cầu bất đắc khổ, ái biệt ly khổ, oán tắng hội khổ, ngũ

ấm xí thạnh khổ…và ba khổ là khổ khổ, hành khổ, hoại khổ nên Phật nói mục
đích của khổ và hãy tìm nguyên nhân của khổ và tìm phương pháp tu tập để
thoát khỏi khổ đâu bệnh tật cho nhân loại. Thân tứ đại này do nhơn duyên
hòa hợp mà có, hết duyên thì tan rả. Cho nên muốn diệt tận khổ đau thì phải
tìm nguyên nhân gây ra, muốn hết bệnh thì uống thuốc. Chỉ rỏ nỗi khổ trong
kiếp sống hiện tại, rồi nói nguyên nhân của khổ là do tham sân si, tất cả các
phiền não cấu uế, ô nhiễm lục trần, triền phược, dục vọng cá nhân…phát bệnh
rồi mới uống thuốc.
Diệt đế như một bản cam đoan nói rỏ sau khi người bệnh lành sẽ ăn ngon ngủ
yên. Thân thể tráng kiện, tâm hồn thoải mái. Đạo đế như cái toa thuốc mà
bác sĩ dùng để kê toa thuốc, là những lời chỉ dẫn mà bệnh nhân y cứ vào đó
mà chửa bệnh. Có biết bao nhiêu chứng bệnh khác có thể xâm nhập cơ thể
chúng ta như: gan, ruột, bao tử, mắt, mũi…bất cứ lúc nào. Cái ám ảnh của
cơn vô thường bệnh hoạn cũng làm cho chúng ta khổ. Hơn nữa cứ mỗi lần đi
vào bệnh viện thì thấy rỏ hiện tượng của bệnh. Con người hầu hết bị động
trước thân bệnh và tâm bệnh. Đây mới là niềm đau lớn nhất của tất cả chúng
ta vậy.
Cho nên nghiệp nhân quá khứ của chúng ta đã tạo nên hình hài và hoàn cảnh
sống của chúng ta, gọi là bệnh nghiệp. Muốn chữa bệnh nghiệp, phải kết hợp
chữa trị cả thân bệnh và tâm bệnh, vì thân bệnh sinh ra tâm bệnh và tâm
bệnh tác hại đến thân bệnh. Thật vậy, thân bệnh hoạn và hoàn cảnh sống xấu
thì tâm không thể nào an vui được và ngược lại, nếu tâm chúng ta bực tức,
khổ đau, phiền muộn sẽ dày vò, hành hạ thân xác ta, khiến cho thân này bùng
phát ra nhiều bệnh tật. Cho nên trong Kinh Hoa Nghiêm gọi đó là muôn sự
muôn vật trùng trùng duyên khởi, nghiệp cũ làm nhân tạo ra nghiệp mới và
nghiệp mới tác động ngược lại cho nghiệp cũ lớn mạnh thêm.
Hiểu được nghiệp nhân quá khứ, chúng ta tìm thầy thuốc thế gian chữa thân
bệnh, nếu là tâm bệnh thì nhờ các bậc chân tu đạo đức chuyển hóa. Nên
thường chúng ta thấy rõ tâm bệnh dễ sanh ra thân bệnh, nghĩa là bệnh phát
xuất từ nghiệp bên trong mới tạo ra hoàn cảnh bên ngoài không tốt. Ý thức

như vậy, chúng ta tu hành, ít bận tâm đến bên ngoài để lo điều chỉnh nghiệp
bên trong, vì hoàn cảnh bên ngoài phản ảnh nghiệp nhân bên trong. Việc đầu
tiên chúng ta trị bệnh nghiệp bằng thuốc Tứ Thánh Đế, tức tu hạnh viễn ly,
sống xa cuộc đời, dù đang sống giữa cuộc đời, nhưng hoàn toàn cô độc.
Ngày nay, bác sĩ cũng nói rằng bệnh tâm lý đã chiếm một nửa số bệnh của
con người và bệnh về thân chiếm một nửa. Như vậy, chúng ta nhận ra sự kết
hợp chặt chẽ giữa thân và tâm. Tâm tham dục và sân hận có mối tương quan
mật thiết với thân, cho nên càng tham và sân thì bệnh càng dễ phát sinh. Tâm
bực tức sẽ làm cho thân không ngủ được và mất ngủ liên tục, chắc chắn sinh
ra nhiều bệnh khác, cho đến chết. Vì thế chúng ta cần phải hiểu rỏ và tìm cho
mình phương thuốc để đối trị cho thích hợp. Đó mới chính là hiệu quả và
cũng là liều thuốc hữu hiệu nhất của việc chửa bệnh theo quan điểm Phật
giáo vậy.
2. Nguyên nhân gây bệnh theo y học cổ truyền
Có thể nói rằng: con người sống trong quả địa cầu này thì chịu quy luật tuần
hoàn của vũ trụ này. Đó là sanh trụ dị diệt, cho nên đã mang cái thân này tức
nhiên phải có bệnh mà thôi. Chính vì thế chúng ta sống trong cõi đời này thì
không ra ngoài quy luật chung đó. Nhưng cũng có thể nói rằng: nếu chúng ta
ăn uống điều độ, tự điều tiết cơ thể, giữ thăng bằng cuộc sống thì tuổi thọ rất
cao. Bằng ngược lại nếu chúng ta sống không đúng theo một quy tắc chung,
mà đụng đâu ăn đó, không biết thể dục, không biết tự bảo vệ sức khỏe thì tuổi
thọ ngắn dần, ngoài ra còn có nhiều nguyên nhân khác nhưng chung quy thì
chỉ có ba nguyên nhân này khiến chúng ta sanh bệnh. Đó là: ngoại nhân, nội
nhân, bất nội ngoại nhân. Giờ đây chúng ta thử tìm hiểu xem những nguyên
nhân này gây bệnh như thế nào.
 Ngoại nhân
Đây là do hoàn cảnh thiên nhiên bên ngoài tác động vào con người như khí
hậu, địa lý…nên chúng được chia ra làm lục khí gồm có: Phong, hàn, thử,
thấp, táo, hỏa và khi nó trở thành nguyên nhân gây bệnh thì gọi là lục tà hay
lục dâm. Lục khí này nó luôn luôn biến đổi theo bốn mùa xuân hạ thu đông

của khí hậu trong năm. Đây cũng là quy luật chung của vũ trụ này. Nhưng khí
hậu của bốn mùa này diễn ra thông thường thì rất tốt cho sức khỏe và sự
sống con người. Có nhiều lúc khí hậu thây đổi thì làm cho cơ địa của mỗi con
người trở nên khó chịu và khó hấp thụ được từ đó dễ sảy ra các dịch bệnh
như bệnh nhiễm trùng, đâu khớp, đâu đầu, đâu thần kinh tọa, tê nhất tay
chân…cho nên mới nói những nguyên nhân gây bệnh này là do bên ngoài tác
động vào như phong (mùa xuân), hàn (mùa đông), thử (mùa hè), táo (mùa
thu)…là vậy.
Vú dụ: người già thường hay bị trái gió trở trời, thây đổi khí hậu thì hay bị
nhất xương, đâu nhất chân tay…người trẻ hay bị cảm cúm, nhất đầu, sổ mũi…
 Nội nhân
Do hoàn cảnh xã hội đưa đến nên gây ra những rối loạn về tâm lý xã hội do
thất tình chí khác nhau gồm: hỷ, nộ, ưu, bi, tư, kinh, khủng. Nghĩa là vui, giận,
buồn, lo, nghĩ, kinh, sợ. Bình thường thì 7 tình chí này biến đổi có chừng mực,
không gây trở ngại gì cho sức khỏe con người cả. Cho nên theo y học cộ
truyền thì giữa thất tình và hoạt động tạng phủ có sự liên hệ mật thiết với
nhau. Khi mà thất tình này có một trạng thái bình ổn không chống trái nhau
thì dẫn đến các hoạt động của tạng phủ hoạt động bình thường. Cho nên sinh
lý con người hoạt động bình thường thì các tạng phủ cũng hoạt động bình
thường, dẫn đến tâm trạng thoải mái, thể chất và tinh thần được bình ôn,
không có mối lo ngại gì nữa. Ngược lại nếu thất tình bị tổn thương thì dẫn
đến kích động tinh thần sẽ dẫn đến mất thăng bằng, làm sáo trộn cuộc sống
của mỗi chúng ta và dẫn đến tổn thương khí huyết, tạng phủ, kinh lạc dẫn
đến nội thương như tâm, cang, tỳ. Nên có câu nói rằng: “giận quá hại gan, vui
quá hại tâm, lo nghĩ quá hại tỳ, lo buồn quá hại phế, sợ hải quá hại thận”.
Ví dụ: thông thường thì chúng ta làm việt tại các công ty, công sở hay một nơi
nào đó mà áp lực công việt quá nhiều khiến ta làm không đạt năng suất,
không đạt yêu cầu bị cấp trên trách mắng khiến ta không vui…thế hệ trẻ bay
giờ hay tập tành yêu đương một thời gian nhưng không đến với nhau được,
điều đó khiến lớp trẻ bế tắc dẫn đến hại cho bản thân…

 Bất nội ngoại nhân (trùng thú cắn, dịch lệ)
Là những nguyên nhân khác như đàm ẩm, ăn uống và lao nhọc, phong thất
không điều độ (tình dục), ứ huyết, do chấn thương và bị thú cắn, trùng tích,
trùng độc. Tác nhân bên ngoài.
Ví dụ: như gái mại dâm hay những nam thanh nữ tú mà nhiều dâm dục khiến
cơ thể mất hết tinh khí dẫn đến suy nhược cơ thể, tinh thần suy giảm…hay
chúng ta làm việt quá sức và do một nguyên nhân nào đó khiến chúng ta
bệnh…
3. Ứng dụng
 Tu tập
Đã mang thân người thì không ai ai cũng đều có bệnh, đều quan trọng là ta
có chấp nhận nó hay không. Vì xu hướng của con người luôn chấp thủ và luôn
mong mỏi mình không được có bệnh, đó là điều sai lầm lớn nhất của nhân
loại. Nên một trong mười bốn điều Phật dạy là: “Nghĩ đến đến thân thể đừng
mong mình không bệnh, vì không bệnh sẽ sinh ngã mạn”. Đây là đức Phật
muốn day ta về một loại bệnh mới đó là tâm bệnh. Thật vậy trên đời này ai
cũng có mang bệnh, không ai tránh khỏi cả, có chăng là bệnh nhẹ hay nặng ở
mỗi người mà thôi.
Về bệnh ta có thể chia làm hai. Bệnh thuộc thân và bệnh thuộc về tâm. Mỗi
loại bệnh đều có cách trị riêng. Về thân bệnh đã có y học. Đức Phật là một đại
Y Vương Ngài rất chu đáo và quan tâm đến sức khỏe và đời sống Tăng đoàn.
Để cho có sức khỏe Ngài đạy các Tỳ kheo năm pháp làm gia tăng tuổi thọ như
sau: “ Này các tỳ kheo có năm pháp làm gia tăng tuổi thọ. Thế nào là năm?
Làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu
hóa du hành phải thời và sống phạm hạnh. Năm pháp này, này các tỳ kheo
làm gia tăng tuổi thọ”[1]. Ta thấy hiện nay trên thế giới có nhiều chứng bệnh
sinh ra do ăn uống không đúng cách, như bệnh béo phì, hoặc những chứng
bệnh do sống buông thả, vô độ…gây ra rất nhiều bệnh tạo thành những nỗi
kinh hoàng cho nhân loại.
Hơn ai hết Đức Phật đã nhận biết điều ấy và bằng phương tiện quyền sảo

Ngài chế ra những giới luật cấm ăn chiều, ăn chay, sống thiểu dục tri túc,
hoặc cấm những việc thuộc phạm hạnh, cấm làm những nghề không lương
thiện…Nếu đứng về phương diện tu tập thì những lời dạy ấy giúp ta được nhẹ
nhàng bổn nghiệp, không bị những quả báo luân hồi. Còn đứng về mặt Y Học
thì ăn chay giúp con người ít tăng độ mỡ, máu không cao. Không ăn chiều thì
thân thể nhẹ nhàng không phải mệt nhọc khi ngồi thiền. Sống buông thả
khiến sức khỏe con người rất hao mòn. Vua Lê Ngọa Triều sở dĩ mất sớm là vì
ông sống vô độ dâm dục quá nhiều đưa đến liệt dương nên yểu mạng. Lối
sống buông thả là một lối sống thiếu đạo đức, thiếu nhân cách. Lời Phật dạy
thật có nhiều chủ ý nếu nhìn một chiều thì chưa đủ hết ý nghĩa lời Phật dạy.
Chúng ta những người mang danh hiệu là những sứ giả Như Lai đem lại hòa
bình hạnh phúc cho chúng sanh. Hơn ai hết ta phải là những người đi đầu
trong việc thực hành lời Phật dạy, sống biết đủ không tham đắm những dục
lạc ô trược của cuộc đời vậy.
Ngoài ra để cho sức khỏe được dồi dào ta phải thường xuyên tập luyện thân
thể. Trong nhà Phật có một phương pháp hành thiền rất hây đó là phương
pháp đi kinh hành. Phương pháp này giúp hành giả có sức dẻo dai, có sự
kham nhẫn tốt, mau tiêu hóa thức ăn…phương pháp này rất hữu hiệu đối với
mọi người và hiện nay thế giới khuyến khích người đi bộ để đạt sức khỏe tốt.
Đó là nói về cách trị bệnh thân của người con Phật. Một điều thú vị khác mà
thế giới này thậm chí Y học hiện nay rất tối tân cũng không thể nào trị được
đó là tâm bệnh. Trong cuộc sống tu tập ta phải luôn sửa tâm mình cho thật
thuần thục. Tâm là một bệnh rất khó trị vì nó không có hình tướng, nó thuộc
tinh thần, nhưng sức công phá của nó rất mãnh liệt. Con người có thể vì nó
mà bị hủy hoại, xã hội ngày nay số người mắc bệnh trầm cảm, hoặc stress rất
nhiều do không khống chế được tâm mình.
Cho nên đức Phật đã tùy tâm bệnh của nhân sinh mà cho thuốc. Người nào
tham nhiều Phật dạy pháp bố thí, ly tham. Người nào sân giận nhiều Phật cho
thuốc từ bi, cứu giúp người. Người nào si mê nặng Phật dạy thiền định hầu
làm cho tâm không tán loạn được định tỉnh. Như vậy đối với người hoằng

pháp là có đủ những phước báo hơn người thế gian rất nhiều, vì ta được
truyền thụ giáo lý căn bản của đức Phật truyền lại như giáo lý Vô Thường, Vô
Ngã, Duyên Sinh, Giáo Lý Tứ Đế…Thực hành tất cả những giáo lý ấy ta có
được một cuộc sống an lành hạnh phúc vì hiểu được cuộc đời này không có gì
là thực thể, thân này sẽ không tồn tại mãi mà nó sẽ theo luật biến hoại của vô
thường. Nó có đây là do nhân duyên hợp lại, khi hết duyên thì nó sẽ rã tan
biến hoại.
Vì thế khi chúng ta biết được rồi ta không chấp vào thủ vào nữa, mà nhìn
nhận một cách triệt để, để rồi chúng ta tự chuyển hóa khổ đau thành an vui
hạnh phúc. Đau khổ lớn nhất của đời người là chấp thủ thân này là tôi, và tự
ngã của tôi. Thật ra không có gì trong năm uẩn, bốn đại này là của ta cả vì nó
không có thật thể nên ta không thể bắt nó trường tồn. Ta khát khao mong
khỏe mạnh nhưng nó luôn lạnh lùng từ bỏ ta ra đi, vận hành theo sự bệnh già
và cuối cùng rồi chết. Nói trăm năm chớ có mấy ai sống đến trăm tuổi. Ta
phải quán sát như vậy mới có thể để thấy rõ rằng không chỉ có thân thể mà
ngay cả trong nhận thức, tư duy của ta cũng không có chủ thể. Khi thấy rõ
như vậy, thì dù thân thể ta có theo năm tháng biến hoại, mục nát ta cũng ung
dung tự tại giữa cuộc đời này, mà không sầu bi ưu não. Đó là sự tự tại của
những vị thiền sư đã thật sự liểu ngộ giáo lý đạo Phật vậy.
 Hoằng pháp
Thế giới hiện nay là một thế giới đầy phức tạp, con người bị chi phối rất
nhiều vì những sinh hoạt, kinh tế, chính trị, môi trường…tất cả những vấn đề
ấy ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe con người. Trách nhiệm người hoằng
pháp là phải đem chánh pháp truyền bá khắp thế gian. Làm cho con người
bớt đi sầu khổ bởi bệnh tật, giúp họ thoát khỏi mọi nguy hiểm của bệnh tật.
Người hoằng pháp phải là người tuyên phong triển khai mọi biện pháp để
đem đạo vào đời. Nếu không thì Phật pháp sẽ bị mai một. Như lời Hòa
Thượng Thiện Hoa nói: “Nếu người hành đạo cứ giữ vững lề lối cũ, không có
những phương thức hoằng pháp thích hợp với xã hội mới, không có những
khả năng thích hợp với các ngành hoạt động trong xã hội thì Đạo Phật sẽ

mất dần ảnh hưởng và không giữ vai trò lãnh đạo của mình nữa”[2]. Với tư
cách là người thầy tâm linh cho chúng sanh, ta hãy là người dẫn đầu trong
việc thực hành giáo pháp Phật dạy. Đó cũng là phương tiện trong việc nhập
thế để đem giáo pháp đi vào đời cứu độ cho nhân loại nên: “đã là phương tiện
nhưng phải áp dụng đúng thời, đúng lúc, xứng hợp với sự ân cần thiết tha
của chúng hội thì phương tiện ấy mới đạt thành cứu cánh”[3] là vậy.
Ta hiểu được rằng đã mang thân người thì không ai không mang theo những
nghiệp lực từ quá khứ. Nếu người nào nghiệp nhẹ thì người ấy ít mang bệnh
tật nơi thân, nhưng chắc chắn họ sẽ mang bệnh khác ở tâm như bệnh hay
sân, hay giận, hoặc hay si mê. Có những người thân thể rất khỏe mạnh nhưng
vì thích uống rượu đến nỗi thân tàng ma dại. Xã hội hiện nay thanh thiếu niên
chết số lượng rất lớn ngoài những bệnh thông thường còn có những chứng
bệnh thuộc si mê gây ra như: ma túy, mại dâm , rượu, bia…Đặt biệt hơn có
những cái chết do thất tình, chán nản cha mẹ, anh em, bạn bè, người yêu…
Rất nhiều và rất nhiều. Là người mang thân phận giáo dục đạo đức cho nhân
loại ta phải làm sao để ngăn chặn những điều ấy? Trước hết ta hiểu rằng tất
cả những nỗi thống khổ của con người ai cũng phải mang. Mà nguyên nhân
của nó đều do tham sân si và chấp thủ mà ra. Ba thứ ấy là dòng thác dữ lôi
cuốn đi bao lớp trẻ, những thế hệ mầm non của đất nước của nhân loại. Với
công tác hoằng pháp trước tiên ta nên đem giáo dục vào học đường, dạy họ
bỏ bớt đi những ham muốn cá nhân, biết nghĩ đến những người có hoàn cảnh
khó khăn hơn mình . Sống biết đủ thì con người ít tham ăn, không gây nên
bệnh béo phì, không bị những chứng ngộ độc khác. Khi đến với người bệnh là
ta đến bằng tâm lòng yêu thương, với ý định luôn mong họ hết bệnh. Thành
tâm, nhiệt quyết hăng say chẩn sát, hết lòng vì mọi người từ tốn nhân hậu,
dịu dàng là những đức tính cần thiết người thầy luôn phải thực hiện. Với
phương chăm “hoằng pháp vi gia vụ, lợi sanh vi bổn hoài”.Ta đem hết tâm
thành cứu giúp chúng sanh. Đó là tâm nguyện của người xuất gia học đạo
thường hành bồ tát vô ngã vị tha vậy.
4. Nhận định và kiến nghị

 Ưu điểm
Đối với việc chữa bệnh bằng phương pháp trị liệu ta đem đạo vào đời. Nước
ta hiện nay, Phật pháp đang trên đà rất phát triển, được nhà nước rất quan
tâm và ưu đãi. Vì thế việc hoằng pháp khá dễ dàng. Các ngành nghề thế gian
được các chùa và các tự viện cho phép Tăng Ni sinh tham gia học tập. Như
ngành sư phạm, ngành y… Chùa là nơi tập trung Phật tử đông đúc nhất vì thế
rất thuận lợi cho việc mở các phòng thuốc từ thiện, các phòng chăm cứu từ
thiện. Cửa chùa luôn rộng mở đón khách thập phương từ khắp nơi đến viếng
chùa hoặc trị bệnh miễn phí.
Với trách nhiệm người hoằng pháp ta phải biết đem kiến thức y học kết hợp
cùng kiến thức Phật học để đem lại niềm hạnh phúc cho nhân loại. Đất nước
ta không thiếu những nhân tài, tuy nhiên tìm được những người vừa biết đạo
hiểu đời và biết đem tâm tư mình trãi đến những chúng sanh đang hoằng
hoại khổ đau trong tư tướng sanh trụ dị diệt của định luật vô thường thì thật
hiếm có người nào đảm nhận nỗi. Người hoằng pháp với trách nhiệm làm lợi
ích cho chúng sanh ta hãy mạnh dạng bắt tay vào cuộc bằng cả tấm lòng vô
ngã vị tha. Thương người như thể thương thân. Tuy nhiên trong công tác
hoằng pháp với thân phận người tu sĩ thì ta gặp không ích những khó khăn
trở ngại. Vậy trở ngại của người hoằng pháp là trở ngại gì ta hãy mổ sẽ phần
khuyết sau.
 Khuyết điểm
Tính cách hoằng pháp còn phụ thuộc quá nhiều vào văn tự Phật giáo khiến
người nghe khó hiểu. Các Tăng Ni luôn bị ngăn trở bởi những điều giới luật.
Thật vậy một người thầy hoặc một sư cô rất khó trị bịnh cho người khác
phái. Đó là một khuyết điểm rất lớn, dù rằng tâm người trị bệnh lẫn tâm
bệnh nhân, dù có trong sáng cách mấy vẫn không sao tránh khỏi những lời
thị phi. Nếu không có tiếng xấu tuy nhiên vẫn ảnh hưởng đến vấn đề tu tập.
Kinh phí phải tự túc trong việc tìm thuốc cho bệnh nhân. Người ta sẽ dễ dàng
ủng hộ xây chùa nhưng thật khó khi họ ủng hộ một phòng thuốc từ thiện vì
sao? Vì tư tưởng người Phật tử luôn nghĩ đến việc xây chùa có phước báo

nhiều hơn làm từ thiện. Còn một điểm nữa là người hoằng pháp so về kiến
thức thì còn quá kém đối thế gian nhất là Phật Tử thời nay. Họ giỏi cả về mặt
thế học lẫn mặt Phật học. Lối giáo dục Phật giáo còn hạng cuộc trong giới
hạng tâm linh nhiều quá. Người Phật tử dù có giỏi cách mấy họ vẫn còn xa lạ
với Đức Phật.
Đây là điểm khuyết của những người truyền giáo không cập nhật thiết thực
đưa Đức Phật gần gũi với người Phật tử. Giáo lý Phật tuy phù hợp mọi căn cơ
của chúng sanh, nhưng nếu người hoằng pháp không biết uyển chuyển để
phương tiện độ người thì giáo lý ấy vẫn là xa lạ đối với mọi tầng lớp người
dân. Điều thiết yếu là sự thực hành tu tập của Các vị Tăng Ni lại còn kém cỏi
nên khó thuyết phục được người. Chính những khiếm khuyết trên đã làm trở
ngại cho việc hoằng pháp rất nhiều. Về mặt y học người hoằng pháp với xứ
mạng truyền trao mạng mạch vì thế cần phải chú tâm chiêm nghiệp nhiều
hơn, không lơ là qua loa mà phải nhiệt tâm bằng tất cả trái tim người nhân
hậu vị tha vô ngã thì mới mong đạt kết quả tốt.
1. KẾT LUẬN
Có sinh thì phải có diệt, có hợp thì phải có tan, sinh già bệnh chết là quy luật
tuần hoàn của kiếp người. con người dù giàu sang nghèo khó, thành công
hay thất bại, công danh sự nghiệp cái thế rồi chỉ phút chốc thì cũng tan tành
may khói. Cho nên dù trãi qua ba vạn sáu nghìn ngày rồi cũng buông hai tay
trắng. Điều quan trọng là ta có nhận thức được điều ấy hay không. Khi nhận
thức được rồi thì ta có thực hành lời Phật dạy hay không đó lại là chuyện
khác nữa. Thật may mắn ta sinh ra biết được Phật pháp hiểu được lý sinh
diệt của vũ trụ nhân sinh thì hãy thực hành lời Phật dạy, hành trì giới luật, tu
tập thiền định. Bên cạnh đó ta nên học thêm những nghề nghiệp giúp ích cho
đạo và đời. Y Học cổ truyền là điển hình một môn học bổ ích cho việc rèn
luyện thân thể và giúp ích cho mọi người.
Cho nên khi chúng ta thấy được tầm quan trọng của việc đem y học và Phật
giáo đi vào đời để chửa trị những căn bệnh cho chúng sanh. Chính vì thế việc
áp dụng y phương minh Phật giáo sẽ giúp chúng ta dễ dàng giáo hóa họ,

đồng thời xây dựng một đất nước phồn vinh, hạnh phúc hơn. Đây là một việc
làm hết sức cần thiết. Cho nên xã hội ngày nay đang mong chờ chúng ta,
những người biết hy sinh, những người biết cúng hiến, những người có lòng
thương vô hạn đối với tất cả chúng sanh, không phân biệt họ thuộc giai cấp
nào, nghèo hay giầu, tốt hay xấu…nên con người ngày nay bị rất nhiều căn
bệnh mà chúng ta không thể đứng nhìn được nhất là người tu như chúng ta.
Chúng ta học giáo lý của đức Phật, chúng ta học y phương minh là nhằm để
đi vào đời cứu khổ ban vui cho nhân loại. Đây cũng chính là tinh thần nhập
thế của đạo Phật đi vào đời để xoa diệu những nỗi khổ niềm đau cho nhân
loại. Bên cạnh đó, nhằm thể hiện tương thân tương ái của đạo Phật, đó là
tinh thần từ bi bình đẳng của Phật giáo “bầu ơi thương láy bí cùng, tuy rằng
khác giống nhưng chung một giàn”[4]. Chính vì thế nên: “Phật thương con
như mẫu ái tử hay lương y như từ mẫu” vậy. Cho nên mới nói rằng: Phật
pháp bất ly thế gian mà Phật pháp không tách rời thế gian này. Phật pháp
luôn luôn song hành cùng với đất nước, cùng dân tộc, cùng xây dựng một thế
giới hùng cường, một thế giới không còn khổ đau, một thế giới an lạc hạnh
phúc. Cho nên chúng ta muốn được như vậy thì ngay trong bản thân của mỗi
con người chúng ta cần phải tự mình hành trì tu tập cũng như áp dụng
những gì mà đức Phật đã chỉ dạy, có như vậy chúng ta mới không bị không bị
đọa lạc bởi tham sân si, những cấu uế, những triền phược của thế gian này.
Thây vào đó là có suy tư biết điều chỉnh hành vi, lối sống hướng thượng qua
từng cử chỉ hành động lời ăn tiếng nói phải ái ngữ nhiếp…từ đó chúng ta mới
có khả năng đối trị được những căn bệnh mà đức Phật đã chỉ dạy trong suốt
hơn hai ngàn năm trăm năm mươi bảy năm qua.
[1] HT Thích Minh Châu dịch, Tăng Chi Bộ II , Chương 5, Viện Nghiên cứu
Phật Học Việt Nam ấn hành, 1996, Tr 543.
[2] HT Thích Thiện Hoa, Phật Học Phổ Thông, quyển IV, NXB Phương Đông,
2006, Trang 643.
[3] H T. Thích Thiện Trí, Kinh Diệu Pháp Liên Hoa giảng giải, Nxb Tp Hồ Chí
Minh, 2000, Tr 27.

[4] H T. Thích Thiện Hoa, Phật Học Phổ Thông, Nxb Tôn Giáo Hà Nội, 2006, Tr
309.

×