Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

HIỆP ĐỊNH QUY ĐỊNH VỀ CÁC BIỆN PHÁP ĐẦU TƯ LIÊN QUAN ĐẾN THƯƠNG MẠI (TRIMs).doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.85 KB, 15 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Trong những thập niên vừa qua, đầu tư trực tiếp gia tăng một cách nhanh chóng
không những ở các nước phát triển mà còn ở các nước đang phát triển. Hơn thế nữa, với
bối cảnh kinh tế quốc tế đã và đang chiếm vị trí quan trọng hơn, các doanh nghiệp Việt
Nam ngày càng có nhiều cơ hội trở thành đối tác với các doanh nghiệp nước ngoài đủ mọi
quy mô và quốc tịch, trở thành điểm thu hút đầu tư khá lớn từ nước ngoài. Việc dỡ bỏ
những ưu thế xuất phát từ hành động bảo hộ, trợ cấp của chính phủ Việt Nam sẽ là một
trong những động thái đầu tiên để Việt Nam chính thức và bình đẳng bước vào sân chơi
cạnh tranh toàn thế giới. Và Hiệp định TRIMS
1
, Hiệp định quy định về các biện pháp
đầu tư liên quan đến thương mại đối với các nước thành viên WTO
2
đã và đang dần
dần nhanh chóng áp dụng một cách toàn diện tại Việt Nam theo lộ trình cam kết.
Việc tìm hiểu, nghiên cứu về hiệp định TRIMs cũng như những quy định xung
quanh hiệp định này trở nên rất bức thiết. Vậy, TRIMs ra đời như thế nào, những quy định
cụ thể của Hiệp định bao gồm những gì? Mục đích của TRIMs hướng đến là gì và tác động
của TRIMs đến mỗi quốc gia nói chung, đến Việt Nam nói riêng và cụ thể đến từng doanh
nghiệp như thế nào?
Đó cũng chính là nội dung của đề tài này: HIỆP ĐỊNH QUY ĐỊNH VỀ CÁC
BIỆN PHÁP ĐẦU TƯ LIÊN QUAN ĐẾN THƯƠNG MẠI (TRIMs).
Bố cục tiểu luận gồm 3 phần :
Phần I : Sơ lược về “Hiệp định quy định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại
– TRIMs”
Phần II : Tác động của việc thực hiện hiệp định TRIMs đến các ngành công nghiệp của
Việt Nam.
Phần III : Một số nhóm giải pháp để giúp Việt Nam thích nghi hơn với hiệp định TRIMs.
1
TRIMs - Trade Related Investment Measures – Hiệp định quy định về các biện pháp đầu
tư liên quan đến thương mại


2
WTO – World Trade Organization - Tổ chức thương mại thế giới
1
I. SƠ LƯỢC VỀ “HIỆP ĐỊNH QUY ĐỊNH VỀ CÁC BIỆN PHÁP ĐẦU TƯ LIÊN
QUAN ĐẾN THƯƠNG MẠI - TRIMs”
Trong thương mại quốc tế, đầu tư nước ngoài là hoạt động đem vốn, tài sản từ nước
này sang một nước khác để kinh doanh, thu lợi nhuận. Đầu tư nước ngoài gồm cả đầu tư
trực tiếp (đầu tư thành lập hoặc mua lại doanh nghiệp) và đầu tư gián tiếp (chủ yếu qua thị
trường chứng khoán). Quy định về đầu tư nước ngoài của nước nhận đầu tư có thể cản trở
hoặc thúc đẩy việc đầu tư và có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả lợi nhuận của hoạt động
đầu tư của nhà đầu tư đến từ các nước khác. Thương mại quốc tế từ đó cũng có thể được
khuyến khích hoặc bị hạn chế vì các quy định về đầu tư nước ngoài.
Vì vậy, để đảm bảo rằng các biện pháp của nước nhận đầu tư không cản trở bất hợp
lý hoạt động đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài và dòng lưu chuyển vốn, tài sản trong
thương mại quốc tế, các nước thành viên WTO đã thống nhất thông qua một Hiệp định về
vấn đề này, gọi là Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (Hiệp định
TRIMs). Biện pháp đầu tư ở đây được hiểu là bất kỳ một quy định, điều kiện hay thủ tục
nào mà nước nhận đầu tư áp dụng đối với nhà đầu tư nước ngoài.
1. Hoàn cảnh ra đời của Hiệp định TRIMs
Cùng với quá trình phát triển của thương mại thế giới, dòng lưu chuyển vốn đầu tư
cũng tăng không ngừng, thực tế đã vượt xa tốc độ tăng trưởng thương mại giữa các nước.
Cho đến nay, 1/3 thương mại trên thế giới là trao đổi giữa các công ty có liên hệ với nhau
về sở hữu, hay nói một cách khác, 1/3 thương mại thế giới ngày nay gắn liền với đầu tư.
Cuối thập niên 40 khi xây dựng nên hệ thống thương mại đa biên, người ta cũng nghĩ đến
cơ chế điều tiết đầu tư trên phạm vi toàn cầu. Tuy nhiên ý tưởng trên khi đó chưa thực hiện
được. Cho đến tận Vòng đàm phán Uruguay thì vấn đề đầu tư mới được đề cập như là vấn
đề riêng trong WTO.
Các thành viên WTO đã ký kết khoảng 30 hiệp định khác nhau điều chỉnh các vấn
đề về thương mại quốc tế. Tất cả các hiệp định này nằm trong 4 phụ lục của Hiệp định về
việc Thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới được ký kết tại Marrakesh, Maroc vào ngày

15/04/1994. Hiệp định về Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMs) là một
trong các hiệp định của WTO mà các thành viên gia nhập tổ chức này phải ký kết. Hiệp
định TRIMS có hiệu lực từ ngày 01/01/1995. Năm 1995, các nước thành viên WTO ký
kết Hiệp định TRIMS chấp nhận ràng buộc rằng các biện pháp TRIMS của nước mình phải
phù hợp với GATT (tiền thân của WTO).
2
Hiệp định TRIMs ra đời là một bước tiến lớn. Mặc dù nhiều ý kiến cho rằng Hiệp
định này chưa giải quyết thỏa đáng lợi ích của tất cả các nước phát triển và đang phát triển,
nó được coi là bước thoả hiệp ban đầu giữa quan điểm các nước phát triển và đang phát
triển về việc đưa ra quy định điều chỉnh hoạt động đầu tư nhằm hạn chế trở ngại cho
thương mại quốc tế.
2. Mục đích của Hiệp định TRIMs
Là một trong 16 Hiệp định đa phương của WTO, Hiệp định TRIMs quy định về các
biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại bị cấm sử dụng đối với các nước thành viên.
Mục tiêu chính của hiệp định là thúc đẩy việc mở rộng, phát triển tự do hoá đầu tư
và thương mại quốc tế để tăng trưởng và phát triển kinh tế của tất cả các nước tham gia
trên cơ sở đảm bảo tự do cạnh tranh. Vì sự phát triển của đất nước, bảo vệ và tăng cường
khả năng cạnh tranh của các công ty nội địa, đồng thời để đảm bảo cân bằng cán cân thanh
toán, chính phủ các nước đang phát triển thường áp dụng TRIMs. Do đó, Hiệp định này
cũng có tính đến các nhu cầu cụ thể về thương mại và khả năng tài chính của các nước
thành viên đang phát triển, nhất là các nước thành viên kém phát triển. Với các điều khoản
đưa ra, mục tiêu của Hiệp định TRIMs là tạo ra công bằng mậu dịch. Các công cụ khuyến
khích đầu tư (như ưu đãi về thuế, tiền thuê đất và các hỗ trợ khác của Chính phủ) sẽ giảm
dần và được áp dụng trên cơ sở không phân biệt đối xử.
Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại là vấn đề có ý nghĩa lớn. Thực hiện
nghĩa vụ của hiệp định TRIMs sẽ tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư tham gia vào các ngành
công nghiệp, chế biến nông sản, xoá bỏ rào cản đối với đầu tư nước ngoài (FDI). Việc điều
chỉnh chính sách nhằm xoá bỏ yêu cầu cân đối thương mại và cân đối ngoại tệ cũng là điều
kiện thuận lợi để thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào các ngành hàng đáp ứng nhu cầu trong
nước. Thực tiễn ở nhiều quốc gia, khi thu hút đầu tư nước ngoài, các doanh nghiệp FDI

thường mở những ngành mới, thực hiện chuyển giao công nghệ và kỹ năng sản xuất kinh
doanh cho lao động của nước sở tại nhằm thu được lợi thế cạnh tranh. Đây cũng chính là
cơ hội để nâng cao trình độ nguồn nhân lực nước ta khi vào WTO.
Thực hiện cam kết của hiệp định TRIMs, nhìn chung sẽ tạo thuận lợi để thu hút đầu
tư nước ngoài, nhưng cũng gặp nhiều khó khăn trong duy trì mục tiêu khuyến khích sử
dụng nguồn lực trong nước (tỷ lệ nội địa hoá), tăng cường xuất khẩu (tỷ lệ xuất khẩu) và
thúc đẩy phát triển một số ngành công nghiệp, đây cũng là vấn đề nhạy cảm ảnh hưởng
trực tiếp đến mục tiêu công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Việt Nam đã cam kết tuân thủ hoàn
3
toàn Hiệp định TRIMs ngay khi trở thành thành viên chính thức của WTO, cam kết xoá bỏ
các rào cản về đầu tư, với mục tiêu tổng thể để tăng cường tính hấp dẫn, thông thoáng và
minh bạch của môi trường đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Việt Nam đã có một quá trình
áp dụng TRIMs với các mục tiêu cơ bản là vừa thu hút được đầu tư trực tiếp nước ngoài,
vừa đẩy mạnh phát triển sản xuất trong nước.
3. Nội dung chính của Hiệp định TRIMs
Có thể nói, Hiệp định TRIMs không bao quát đầy đủ các yếu tố của một Hiệp định
đầu tư quốc tế mà chỉ là cơ chế pháp lý điều chỉnh các biện pháp đầu tư có tác động đến
hoạt động thương mại hàng hóa và các hoạt động có liên quan của các doanh nghiệp. Hiệp
định không quy định cụ thể khái niệm thế nào là một biện pháp đầu tư liên quan đến
thương mại mà chỉ đưa ra Danh mục minh họa một số biện pháp đầu tư không phù hợp với
nghĩa vụ dành đối xử quốc gia (Điều III) và loại bỏ hạn chế về định lượng (Điều XI) của
GATT 1994. Trong GATT 1994 đã quy định việc cấm áp dụng các biện pháp đầu tư vi
phạm nguyên tắc đãi ngộ quốc gia và nghĩa vụ loại bỏ các hạn chế định lượng, nhưng
phạm vi không được xác định rõ ràng. Trong Hiệp định TRIMs các quy định trở nên rõ
ràng hơn bằng việc đưa ra một danh sách minh hoạ các biện pháp đầu tư liên quan đến
thương mại cấm áp dụng đối với các nước thành viên WTO. Theo đó, tất cả các biện pháp
được mô tả trong Danh mục minh họa, cho dù được áp dụng như là điều kiện để thành lập,
mở rộng doanh nghiệp hay là điều kiện để doanh nghiệp đó hưởng ưu đãi đầu tư đều
không được phép áp dụng.
Hiệp định về TRIMs gồm phần mở đầu, 9 điều và một phụ lục kèm theo qui định

những biện pháp đầu tư của nước tiếp nhận không phù hợp với các điều III và XI khoản 1
của GATT. Những biện pháp đó là :
a) Khối lượng nhập khẩu chỉ được giới hạn ở mức tương đương với khối lượng hàng
xuất khẩu của công ty.
b) Qui định về tỷ lệ các phụ kiện được sản xuất tại chỗ trong thành phẩm (tỷ lệ nội địa
hoá sản phẩm), đòi hỏi này trái với điều III của GATT là không được phân biệt đối
xử giữa hàng sản xuất trong nước và hàng nhập khẩu.
c) Những hạn chế liên quan đến sử dụng nguồn ngoại tệ. Khối lượng ngoại tệ dùng để
nhập khẩu chỉ hạn chế ở mức tương đương với khối lượng ngoại tệ mà công ty có
được thông qua xuất khẩu hoặc các nguồn khác.
4
d) Những yêu cầu về tỷ lệ xuất khẩu đối với các sản phẩm được sản xuất trên thị trường
nội địa.
Theo quy định của Hiệp định, tính từ ngày thành lập WTO (01/01/1995), các biện
pháp nói trên phải được loại bỏ trong vòng 2 năm đối với thành viên phát triển, 5 năm đối
với thành viên đang phát triển và 7 năm đối với thành viên chậm phát triển. Thời hạn này
được áp dụng đối với các thành viên sáng lập WTO; các nước chưa phải là thành viên có
thể thỏa thuận thời gian quá độ trên cơ sở đàm phán song phương. Đến nay, các thành viên
mới gia nhập WTO từ sau năm 1995 đã cam kết thực hiện Hiệp định mà không yêu cầu bất
kỳ ngoại lệ nào hoặc chỉ bảo lưu ở mức độ tối thiểu.
Ngoài ra, nhằm bảo vệ lợi ích của các doanh nghiệp đã thành lập đang chịu tác động
của một số biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại, Hiệp định TRIMs có một điều
khoản quy định cho phép nước thành viên trong giai đoạn chuyển đổi được áp dụng những
biện pháp đó đối với các doanh nghiệp mới thành lập nếu sản phẩm của những doanh
nghiệp này là tương tự với những sản phẩm của các doanh nghiệp đã thành lập, và việc áp
dụng những biện pháp đó là cần thiết để tránh làm méo mó điều kiện cạnh tranh giữa các
doanh nghiệp đã thành lập và các doanh nghiệp mới thành lập. Những biện pháp áp dụng
đối với cả 2 loại doanh nghiệp này sẽ được loại bỏ đồng thời.
Các nước thành viên phải thông báo cho WTO tất cả các biện pháp đầu tư liên quan
đến thương mại không phù hợp với Hiệp định TRIMs, cũng như các tài liệu, thông tin liên

quan, kể cả các biện pháp được áp dụng ở cấp chính quyền địa phương.
Nước thành viên có trách nhiệm cung cấp thông tin và tạo điều kiện để tiến hành
tham vấn nếu có nước thành viên khác yêu cầu. Một Ủy ban về các biện pháp đầu tư liên
quan đến thương mại đã được thành lập nhằm giám sát việc thực hiện Hiệp định TRIMs.
II. Thực hiện Hiệp định TRIMs tác động đến các ngành công nghiệp ở Việt Nam
Việt Nam đã có một quá trình áp dụng TRIMs với các mục tiêu cơ bản là vừa thu
hút được đầu tư trực tiếp nước ngoài, vừa đẩy mạnh phát triển sản xuất trong nước. Các
biện pháp Việt Nam đã sử dụng trong thời gian qua là yêu cầu về tỷ lệ nội địa hoá, yêu cầu
cân đối ngoại tệ, yêu cầu phải gắn với phát triển nguồn nguyên liệu trong nước và yêu cầu
tỷ lệ xuất khẩu bắt buộc. Trong đó, biện pháp được tập trung áp dụng nhiều nhất là yêu cầu
về tỷ lệ nội địa hoá trong các ngành sản xuất, lắp ráp ôtô và phụ tùng ôtô; sản xuất, lắp ráp
xe máy và phụ tùng xe máy; sản xuất, lắp ráp sản phẩm hoàn chỉnh và phụ tùng thuộc
ngành điện tử, cơ khí - điện. Ngoài ra, các dự án chế biến gỗ, sữa, dầu thực vật, đường mía
5
cũng thuộc đối tượng các ngành phải thực hiện chương trình nội địa hoá nhằm phát triển
nguồn nguyên liệu trong nước. Song, do tính đặc thù nên phần lớn các dự án thuộc ngành
này được xây dựng với mục đích sử dụng nguồn nguyên liệu rẻ, sẵn có trong nước. Do
vậy, các nhà đầu tư sẽ tự nguyện thực hiện chính sách nội địa hoá, kể cả trong trường hợp
không được khuyến khích hoặc ưu đãi.
Do đó, việc đàm phán thực hiện các nghĩa vụ theo Hiệp định TRIMs của Việt Nam
hoàn toàn không phải là một điều mới mẻ. Theo Hiệp định thương mại song phương Việt
Nam - Hoa Kỳ
3
(BTA) có hiệu lực từ tháng 12/2001, trừ 2 yêu cầu phải thực hiện ngay tại
thời điểm nói trên (xóa bỏ yêu cầu cân đối xuất - nhập khẩu và cân đối ngoại tệ), Việt Nam
đã cam kết thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ theo Hiệp định TRIMs vào thời điểm chậm nhất
cho đến khi Việt Nam gia nhập WTO (gồm việc xóa bỏ yêu cầu xuất khẩu, nội địa hóa,
phát triển nguồn nguyên liệu trong nước). Trong gần 05 năm thực hiện BTA, hệ thống
pháp luật Việt Nam đã liên tục được hoàn thiện nhằm đáp ứng hầu hết các nghĩa vụ theo
BTA. Đặc biệt, Luật Đầu tư có hiệu lực từ 01/07/2006 đã nội luật hóa đầy đủ các cam kết

của Việt Nam bằng việc loại bỏ toàn bộ các biện pháp TRIMs được áp dụng như những
điều kiện bắt buộc để cấp phép đầu tư, nhưng cũng là điều kiện để cấp ưu đãi đầu tư (bao
gồm các yêu cầu bắt buộc xuất khẩu, sử dụng nguồn nguyên liệu trong nước cũng như các
ưu đãi đầu tư gắn với việc thực hiện các yêu cầu này).
Trong khuôn khổ đàm phán gia nhập WTO, Việt Nam đã tiến hành minh bạch hóa
chính sách về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại, đồng thời hoàn thành Thông
báo và Chương trình hành động thực hiện Hiệp định TRIMs. Theo đó, Việt Nam cam kết
sẽ loại bỏ hoàn toàn các biện pháp không phù hợp với Hiệp định TRIMs ngay tại thời điểm
Việt Nam gia nhập WTO. Cụ thể, Việt Nam cam kết sẽ loại bỏ các biện pháp sau như là
điều kiện để cấp phép đầu tư hay là điều kiện để cấp ưu đãi đầu tư, gồm:
- Yêu cầu về nội địa hóa đối với dự án sản xuất, lắp ráp ô tô, xe máy, và các mặt hàng
cơ khí, điện – điện tử.
- Cấp ưu đãi về thuế nhập khẩu theo tỷ lệ nội địa hóa đối với các doanh nghiệp sản
xuất, lắp ráp hàng cơ khí, điện – điện tử và phụ tùng ô tô.
- Yêu cầu về đầu tư phải gắn với phát triển nguồn nguyên liệu trong nước đối với dự
án đầu tư nước ngoài chế biến các sản phẩm: sữa, dầu thực vật, mía đường, gỗ.
3
BTA - Bilateral Trade Agreement – Hiệp định thương mại song phương Việt – Mỹ
6

×