Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

GIẢM THIỂU SỰ CỐ Y KHOA KHÔNG MONG MUỐN TRONG CÁC BỆNH VIỆN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (506.91 KB, 10 trang )

1

GIẢM THIỂU SỰ CỐ Y KHOA KHÔNG MONG MUỐN
TRONG CÁC BỆNH VIỆN

TS. Nguyễn Xuân Trường
Ths. Phạm Đức Mục
TS. Đào Quang Vinh

TÓM TẮT
Bài trình bày này nhằm mục đích: (1) Cung cấp các thông tin về tần suất sự cố y khoa đã được
đăng trong các Tạp chí y học quốc tế; (2) Nhận định xu hướng sự cố y khoa; (3) Nguyên nhân của các
sự cố y khoa không mong muốn; (4) Đề xuất một số giải pháp nhằm giảm thiểu sự cố y khoa không
mong muốn trong các bệnh viện.
Phương pháp: Tổng hợp các nghiên cứu và báo cáo được đăng tải trên các Tạp chí y học của
Mỹ, Canada, Úc, Anh quốc, Hà Lan… về an toàn người bệnh và một số Tạp chí y học trong nước.
Kết quả nghiên cứu cho thấy: (1) Đã có nhiều công trình nghiên cứu y học của các nước đi tiên
phong như Mỹ, Úc, Anh quốc, Canada, New Zealand trong lĩnh vực an toàn người bệnh. Tuy nhiên chưa
có sự thống nhất cao về thuật ngữ cũng như tiêu chuẩn trong việc phân loại và xác định các sai sót, sự
cố y khoa; (2) Bệnh viện là nơi có nhiều sự cố y khoa từ 3,8%-16,7% người bệnh nhập viện
10-16
; (3)
Nguyên nhân của các sai sót sự cố y khoa chủ yếu do lỗi hệ thống (70%) và chỉ có khoảng 30% sai sót
và sự cố liên quan tới cá nhân người hành nghề
10
; (4) Chiều hướng sự cố y khoa trong thập kỷ đầu Thế
kỷ XXI hầu như chưa giảm
17-20
; (5) Tổ chức Y tế Thế giới và các nước tiên phong đã nỗ lực thực hiện
nhiều giải pháp quan trọng như thành lập Hiệp hội an toàn người bệnh toàn cầu, thành lập các Ủy ban
An toàn người bệnh quốc gia, các Viện nghiên cứu An toàn người bệnh và ban hành các hướng dẫn


chuyên môn kỹ thuật, cũng như thiết lập các hệ thống báo cáo sự cố y khoa bắt buộc và tự nguyện để
nâng cao nhận thức và đưa ra các giải pháp làm giảm thiểu sai sót, sự cố y khoa trong các cơ sở khám
chữa bệnh.
Trên cơ sở kinh nghiệm của các nước, các tác giả khuyến nghị Việt Nam cần: (1) Tăng cường
chính sách An toàn người bệnh, đặt An toàn người bệnh trở thành vấn đề y tế công cộng để có sự đầu
tư tương ứng; (2) Thành lập các tổ chức có qui mô quốc gia để điều phối các nỗ lực về an toàn người
bệnh như Hội đồng quốc gia về chất lượng dịch vụ y tế và an toàn người bệnh, viện nghiên cứu an toàn
người bệnh để tư vấn cho Bộ Y tế ban hành các chính sách, các hướng dẫn và tiêu chí quốc gia về an
toàn người bệnh; (3) Xây dựng các quy định báo cáo bắt buộc các sai sót sự cố y khoa nghiêm trọng;
(4) Triển khai sớm hệ thống bảo hiểm rủi ro nghề nghiệp theo Luật Khám chữa bệnh; (5) Cải thiện môi
trường làm việc của cán bộ y tế và đổi mới văn hóa an toàn người bệnh.

1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Y văn thế giới đã sử dụng các thuật ngữ khác nhau để mô tả những rủi ro trong
thực hành y khoa như: “Bệnh do thầy thuốc gây nên - Iatrogenic”, “Sai sót y khoa -
Medical Error”, “An toàn người bệnh - Patient Safety” và “ Sự cố y khoa - Medical
Adverse Events”.
Theo định nghĩa của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO): Sự cố y khoa là tác hại liên
quan đến quản lý y tế khác với biến chứng do bệnh, bao gồm các lĩnh vực chẩn đoán,
điều trị, chăm sóc, sử dụng trang thiết bị y tế để cung cấp dịch vụ y tế. Sự cố y khoa có
thể phòng ngừa và không thể phòng ngừa được
23,25
.
Tiêu chí xác định sự cố y khoa được sử dụng trong các nghiên cứu của Mỹ và các
nước gồm: (1) Sự cố nằm trong danh mục các sự cố nghiêm trọng phải báo cáo theo quy
định của Mỹ; (2) Sự cố trong danh mục bị từ chối trả chi phí ở mức cao; (3) Sự cố dẫn
đến 1 trong 4 mức độ nghiêm trọng là: Kéo dài ngày nằm viện, tổn thương vĩnh viễn,
can thiệp để cứu người bệnh, chết.
2


Ở nước ta, một số sự cố y khoa không mong muốn xảy ra gần đây gây sự quan
tâm theo dõi của toàn xã hội đối với ngành Y tế. Khi sự cố y khoa không mong muốn
xảy ra, người bệnh và gia đình người bệnh trở thành nạn nhân, phải gánh chịu hậu quả
tổn hại tới sức khỏe, tính mạng, tài chính, tai nạn chồng lên tai nạn. Và các cán bộ y tế
liên quan tới sự cố y khoa không mong muốn sẽ là nạn nhân trước những áp lực của dư
luận xã hội và cũng cần được hỗ trợ về tâm lý khi rủi ro nghề nghiệp xảy ra. Bài viết này
sẽ cung cấp thông tin liên quan đến sự cố y khoa không mong muốn trong bệnh viện với
mục đích:
1) Cung cấp thông tin về tần suất sự cố y khoa;
2) Đánh giá xu hướng sự cố y khoa;
3) Xác định nguyên nhân và phân loại sự cố y khoa;
4) Đề xuất một số giải pháp nhằm giảm thiểu sự cố y khoa trong các cơ sở y tế.
Phương pháp: Nghiên cứu tài liệu thông qua tổng hợp các đề tài nghiên cứu, các
báo cáo trong nước và quốc tế về lĩnh vực an toàn người bệnh được đăng tải trên các
Tạp chí y học của Mỹ, Canada, Úc, Anh quốc, Hà Lan và Việt Nam.
2. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
2.1. Tần suất sự cố y khoa
Bảng 1. Tổng hợp sự cố y khoa tại các nước phát triển
Nghiên cứu
Năm
Số NB
NC
Số
sự cố
Tỷ lệ
(%)
1. Mỹ (Harvard Medical Practice Study)
1984
30.195
1.133

3,7
2. Mỹ (Utah-Colorado Study)*
1992
14.565
787
5,4
3. Úc (Quaility in Australia Health Case Study)
1992
14.179
2.353
16,6
4. Úc (Quaility in Australia Health Case Study)**
1992
14.179
1.499
10,6
5. Anh (Adverse event in British hospitals)
2000
1.014
119
10,8
6. Canada (The incidence of adverse events among
hospital patients in Canada)
2000
3.745
255
7,5
7. Đan Mạch
1998
1.097

176
9,0
8. Hà Lan (Adverse Events and potentially
preventable deaths in Dutch hospitals)
2004
7.926

5,7
* Áp dụng phương pháp nghiên cứu của Úc; ** Áp dụng phương pháp nghiên cứu của Mỹ.
Bảng 1 cho thấy các nghiên cứu về tần suất sự cố y khoa của các quốc gia tiên
phong đã bắt đầu từ những năm 2000, các nghiên cứu đều sử dụng phương pháp hồi cứu
trên bệnh án và giống nhau về tiêu chí đánh giá cho thấy tần suất sự cố y khoa từ 3,7%-
16,6% người bệnh nhập viện
10-16
. Các nghiên cứu so sánh áp dụng cùng phương pháp
của Mỹ và Úc cho thấy tần suất sự cố y khoa trong khoảng từ 5,4% - 10,6%
10,11,21,22
.
Viện nghiên cứu y học Mỹ hồi cứu 30.195 bệnh án đã công bố tỷ lệ người bệnh nhập
viện gặp sự cố y khoa là 3,7%
10
. Một báo cáo gần đây của Viện Y học Mỹ cho thấy
có từ 44.000 - 98.000 trường hợp tử vong trong các bệnh viện của Mỹ hàng năm do các
sự cố y khoa, gây thiệt hại về kinh tế khoảng 6,5 tỷ USD. Nhưng một số chuyên
gia còn cho rằng con số thực tế có thể cao hơn nhiều vì có những trường hợp
không được báo cáo đầy đủ. Số người chết vì sự cố y khoa trong các bệnh viện của
3

Mỹ cao hơn tử vong do tai nạn giao thông, ung thư vú, tử vong do HIV/AIDS là ba vấn
đề sức khỏe mà người dân Mỹ quan tâm hiện nay

10,11,17-22
. Còn ở Châu Âu, NKBV
kéo dài số ngày nằm viện mỗi năm của các bệnh nhân thêm 16 triệu ngày, gây ra
37.000 trường hợp tử vong. Bên cạnh đó, gánh nặng kinh tế mà những bệnh nhân
bị NKBV gây ra cho hệ thống y tế vào khoảng 7 tỷ euro.
Nghiên cứu về chất lượng chăm sóc y tế của Úc (1994) do Bộ Y tế và dịch vụ
con người tiến hành (1994) đã công bố tần suất sự cố y khoa đối với các bệnh nhân nhập
viện tại các bệnh viện của Úc là 16,6%
11
.
Nghiên cứu sự cố y khoa trong các bệnh viện của Anh Quốc ghi nhận tần suất
người bệnh gặp sự cố y khoa chiếm 10,8% người bệnh nhập viện và một nửa sự cố có
thể phòng ngừa
12
.
Nghiên cứu về tần suất sự cố y khoa tại các bệnh viện Canada báo cáo tần suất sự
cố y khoa là 7,5% người bệnh nhập viện, 36,9% sự cố có thể phòng ngừa. Hàng năm
Canada có 2,5 triệu người bệnh nhập viện và ước tính có 185.000 người bệnh gặp sự cố
y khoa
13
.
Nghiên cứu về sự cố y khoa tại Đan Mạch (1998) báo cáo tần suất sự cố y khoa
9% đối với người bệnh nhập viện, 40% sự cố có thể phòng ngừa
14
. Nghiên cứu tại
21/101 bệnh viện của Hà Lan (2004) báo cáo tần suất sự cố y khoa là 5,7% người bệnh
nhập viện, trên 50% sự cố không mong muốn liên quan tới người bệnh có phẫu thuật
15
.
Nghiên cứu sự cố y khoa tại New Zealand (1998) trên tổng số 6.579 bệnh án của 13

bệnh viện đại diện công bố tần suất sự cố y khoa là 6,3%. Trong đó, trên 50% sự cố liên
quan tới người bệnh có phẫu thuật và gần 50% sự cố có thể phòng ngừa, 1/3 sự cố liên
quan tới sử dụng thuốc, lỗi hệ thống có thể phòng ngừa chiếm 50%
16
.
Bảng 2. Nhiễm khuẩn bệnh viện (NKBV) tại một số bệnh viện ở Việt Nam
Nghiên cứu
Năm
NKBV (%)
Phạm Đức Mục và cộng sự. Nhiễm khuẩn bệnh viện tại 11
bệnh viện Trung ương.
2005
5,8
Nguyễn Thanh Hà và cộng sự. Nhiễm khuẩn bệnh viện tại
6 bệnh viện phía Nam.
2005
5,6
Nguyễn Việt Hùng. Nhiễm khuẩn bệnh viện tại 36 bệnh
viện phía Bắc.
2006
7,8
Nguyễn Văn Xáng. Nhiễm khuẩn bệnh viện tại bệnh viện
đa khoa tỉnh Khánh Hòa.
2013
5,4
Trần Hữu Luyện. Giám sát nhiễm khuẩn vết mổ của 1.000
người bệnh có phẫu thuật tại Bệnh viện TW Huế.
2008
4,3
Trịnh Hồ Tình và cộng sự. Giám sát nhiễm khuẩn vết mổ

của 622 người bệnh có phẫu thuật tại Bệnh viện đa khoa
Bình Định.
2012
8,4
Mai Thị Tiết. Giám sát nhiễm khuẩn vết mổ của 810 người
bệnh có phẫu thuật tại bệnh viện đa khoa Đồng Nai.
2013
2,5
Lê Thị Anh Thư. Giám sát viêm phổi bệnh viện liên quan
thở máy của 170 người bệnh tại Bệnh viện Chợ Rẫy.
2011
39,4
Phạm Thái Dũng, Kiều Chí Thành. Giám sát viêm phổi
bệnh viện liên quan tới thở máy của 122 người bệnh tại
khoa Hồi sức cấp cứu Bệnh viện 103.
2012
51,6
4

2.2 Xu hướng sự cố y khoa
Sau hơn một thập kỷ kể từ khi Viện Nghiên cứu y học Mỹ và các nước công bố
các báo cáo về sự cố y khoa, một câu hỏi được đặt ra là các nước sau những nỗ lực
nghiên cứu, đầu tư về kinh phí và nguồn lực có làm giảm được sự cố y khoa không?.
Báo cáo của Tổng thanh tra y tế Mỹ, nghiên cứu 780 bệnh án ngẫu nhiên của các
người bệnh trong tháng (10, 2008) công bố 13,5% người bệnh nhập viện gặp sự cố y
khoa (cứ 7 người bệnh ra viện thì có 1 người gặp sự cố y khoa thỏa mãn ít nhất 1 tiêu
chuẩn xác định sự cố y khoa); 51% không thể phòng ngừa, 44% sự cố y khoa hầu như
có thể phòng ngừa và 5% không xác định
17
.

Nghiên cứu tổng quan của John T Jame đăng trên Tạp chí Lippincott William &
Wilkin sử dụng Bộ công cụ đánh giá sự cố y khoa của Viện cải thiện chăm sóc y tế-Mỹ
“Global Trigger Tool of the Institute for Healthcare Improvement” ước tính thấp nhất
210.000 trường hợp tử vong hàng năm liên quan tới sự cố y khoa so với nghiên cứu của
Viện y học Mỹ (Institute of Medicine) năm 1999 ước tính hàng năm có tới 98.000 người
tử vong liên quan tới sự cố y khoa
18
.
Một nghiên cứu hồi cứu trên 11.883 bệnh án của Hà Lan tại 20 bệnh viện, trong
đó có 7.787 bệnh án (2004) và 3.966 bệnh án (2008) công bố tỷ lệ sự cố y khoa tăng từ
4,1% (2004) lên 6,2% (2008), sự cố y khoa đối với người bệnh ngoại khoa tăng lên và
chiếm tỷ lệ trên 50% các sự cố
19
. Các tác giả đều nhận định sự cố y khoa mang tính bền
vững, sự cố y khoa là vấn đề rất khó để tạo tác động thay đổi và cần thiết vận động
người bệnh tham gia vào quá trình làm giảm sự cố y khoa
17,18,19
.
Báo cáo y tế lần thứ 9 của Bang Minisota-Mỹ (1.2013) ghi nhận năm 2012 có
nhiều sự cố y khoa hơn các năm trước, bình quân mỗi tháng có 26,1 sự cố, 28% các sự
cố y khoa gây hậu quả cho người bệnh và 4% sự cố y khoa dẫn đến chết người; Các sự
cố liên quan tới phẫu thuật sai phương pháp, sai vị trí vẫn có xu hướng tăng nhẹ
20
.

2.3. Nguyên nhân sự cố y khoa
2.3.1. Phân loại nguyên nhân theo tính chất chuyên môn
Hiệp hội an toàn người bệnh Thế giới phân loại sự cố y khoa theo 6 nhóm gồm:
- Do nhầm tên người bệnh
- Do thông tin bàn giao của cán bộ y tế không đầy đủ

- Do sai sót dùng thuốc, bao gồm kê đơn thuốc, cấp phát thuốc, pha chế thuốc và
sử dụng thuốc. Viện Nghiên cứu Y học Mỹ ước tính tại Mỹ có khoảng 1,5 triệu sai sót,
sự cố do dùng thuốc xảy ra hàng năm và có tới 7.000 người chết do sai sót dùng thuốc
hàng năm
21
.
- Do nhầm lẫn liên quan tới phẫu thuật (nhầm vị trí, nhầm phương pháp, nhầm
người bệnh). Sự cố y khoa do phẫu thuật theo ước tính của Tổ chức Y tế Thế giới
(WHO): Cứ 25 người có một người có phẫu thuật, hàng năm có khoảng 230 triệu phẫu
thuật, tử vong liên quan tới phẫu thuật từ 0,4%-0,8% và biến chứng do phẫu thuật từ
3%-16%
23
. Sự cố y khoa không mong muốn có tần suất cao trên những người bệnh có
phẫu thuật (50%)
21,22,23
.
- Do nhiễm khuẩn bệnh viện: Các báo cáo đã được đăng trên các tạp chí y học ghi
nhận nhiễm khuẩn bệnh viện (NKBV) hiện mắc từ 5,4%-8% người bệnh nội trú, nhiễm
khuẩn vết mổ (NKVM) trên những người bệnh có phẫu thuật chiếm từ 2,5%-8,45% và
5

viêm phổi bệnh viện trên các người bệnh có thở máy từ 40%-50%
2,9
. WHO công bố
NKBV từ 5%-15% người bệnh nội trú và tỷ lệ NKBV tại các khoa điều trị tích cực từ
9%-37%; Tỷ lệ NKBV chung tại Mỹ chiếm 4,5%
17
. Năm 2002, theo ước tính của Trung
tâm Kiểm soát bệnh tật (CDC) tại Mỹ có 1,7 triệu người bệnh bị NKBV, trong đó
417.946 người bệnh NKBV tại các khoa hồi sức tích cực (24,6%)

21,23
. Tình hình NKBV
tại các bệnh viện Việt Nam đã triển khai nhiều đề tài nghiên cứu trong những năm gần
đây và đã thiết lập được những bằng chứng khá đầy đủ.
- Do người bệnh ngã trong thời gian đang điều trị tại các cơ sở y tế.
2.3.2 Phân loại nguyên nhân theo lỗi cá nhân và hệ thống

Sơ đồ 1. Mô tả các lớp hàng rào bảo vệ của hệ thống phòng ngừa sự cố y khoa
Nguồn: Reason J. Carthey, Diagnosing vulnerable system sysdrome

Trong y tế, các quy trình chuyên môn, các hoạt động của thầy thuốc như khám
bệnh, chẩn đoán, kê đơn, can thiệp thủ thuật, kể cả các hoạt động hành chính gián tiếp
cũng đều có thể gây rủi ro trực tiếp hoặc gián tiếp trên người bệnh. Vì vậy, thường quy
làm việc của các bệnh viện, mọi quy trình công việc cần được thiết kế sao cho toàn bộ
hệ thống có khả năng phát hiện và phòng ngừa sự cố xảy ra với người bệnh.
Các lỗi do cá nhân người hành nghề hay còn gọi là lỗi hoạt động (active errors)
liên quan trực tiếp tới người hành nghề vì họ ở lớp hàng rào phòng ngự cuối cùng trực
tiếp với người bệnh. Khi sự cố xảy ra, người làm công tác khám chữa bệnh trực tiếp
(bác sĩ, điều dưỡng, hộ sinh…) dễ bị gán lỗi. Trên thực tế có nhiều lỗi cá nhân do hệ
thống gây ra. Theo các nhà nghiên cứu y khoa, 70% các sự cố y khoa không mong muốn
có nguồn gốc từ các yếu tố của hệ thống và chỉ có 30% là do cá nhân người hành
nghề
6,12
. Quy chụp trách nhiệm cho cá nhân sẽ dẫn đến văn hóa giấu diếm sự thật, sẽ ít
hiệu quả trong việc mang lại những kết quả dài hạn.
Các lỗi do hệ thống (latent factors) liên quan tới các sai sót, sự cố y khoa có thể
là: Các chính sách không phù hợp, các quy định chuyên môn chưa lấy người bệnh làm
trung tâm, thiếu nhân lực, ca kíp kéo dài, thiếu phương tiện phục vụ người bệnh, cơ chế
tự chủ Những yếu tố này thường ít được chú ý xem xét liên quan khi phân tích nguyên
nhân sự cố y khoa. Do vậy nếu chỉ tập trung vào lỗi cá nhân thì nguyên nhân gốc gây ra

sự cố vẫn chưa được giải quyết và lỗi tương tự sẽ tiếp tục xảy ra.
Các nhà nghiên cứu đã đưa ra Hội chứng hệ thống suy yếu của tổ chức
(Vulnerable System Syndrome). Hội chứng này có ba nhóm triệu chứng chính là: (1) Đổ
lỗi cho cá nhân trực tiếp (bác sĩ, điều dưỡng, hộ sinh…); (2) Phủ nhận sự tồn tại các
điểm yếu của lỗi hệ thống; (3) Theo đuổi lợi nhuận dẫn đến lạm dụng các chỉ định
chuyên môn, xa rời mục tiêu lấy người bệnh làm trung tâm (xem sơ đồ 1).
Sự cố
Lỗi hệ thống (Latent conditions)
Lỗi hoạt động (active errors)
Nguy

6


2.3.3. Phân loại nguyên nhân theo các yếu tố liên quan
a. Yếu tố người hành nghề
Sai sót không chủ định: (1) Do thói quen công việc như một người pha thuốc và
một người tiêm; sao y lệnh thuốc; (2) Do dựa vào trí nhớ như bác sĩ khám bệnh cho tất
cả bệnh nhân sau đó mới ghi bệnh án, điều dưỡng cuối ngày mới ghi nhận xét vào hồ sơ
bệnh nhân…; (3) Do quên như quên không lấy bệnh phẩm xét nghiệm, quên không bàn
giao cho ca trực sau, quên không cho người bệnh dùng thuốc đúng giờ, ra y lệnh miệng
sau đó quên không ghi bệnh án ; (4) Do tình cảnh của người hành nghề như mệt mỏi,
ốm đau, tâm lý…; (5) Do kiến thức, kinh nghiệm của người hành nghề. Một số trường
hợp sự cố y khoa không mong muốn xảy ra ngay đối với các thầy thuốc có kinh nghiệm
nhất và đang trong lúc thực hiện công việc chuyên môn có trách nhiệm.
Sai sót do cố ý: (1) Cắt xén hoặc làm tắt các quy trình chuyên môn (chưa tuân thủ
vệ sinh tay, mang găng tay ); (2) Vi phạm đạo đức nghề nghiệp, lợi ích của người bệnh
không được đặt lên hàng đầu dẫn đến lạm dụng thuốc, lạm dụng kỹ thuật cao và các
thiết bị y tế can thiệp trên người bệnh không bảo đảm chất lượng.
b. Yếu tố chuyên môn

Y học mang tính xác suất và bất định cao. Người bệnh trong các cơ sở y tế phải
trải qua nhiều can thiệp thủ thuật, phẫu thuật, đưa thuốc, hóa chất vào cơ thể dễ gây
phản ứng dẫn đến rủi ro bất khả kháng. Vì vậy, cần nhận thức không phải sự cố y khoa
nào cũng do thầy thuốc thiếu trách nhiệm và thiếu y đức.
Hạn chế của y học. Những thành tựu y học trong y tế đã giúp phát hiện sớm bệnh
tật và nhiều người mắc bệnh nan y đã được điều trị thành công mang lại hạnh phúc cho
hàng triệu người bệnh. Tuy nhiên, những hạn chế của y học trong một số trường hợp tác
động tạo nên sự cố y khoa nghiêm trọng. Ví dụ, tại Đài Loan (2012) đã dùng tạng của
người bệnh HIV(+) để ghép tạng cho 5 người bệnh khác.
Dây chuyền khám chữa bệnh phức tạp. Nhiều người phối hợp, nhiều đầu mối,
ngắt quãng, nhiều cá nhân tham gia trong khi hợp tác chưa tốt, thông tin chưa đầy đủ và
chưa kịp thời.
c. Yếu tố môi trường chăm sóc y tế
Môi trường chăm sóc y tế có nhiều áp lực do quá tải, ca kíp trái với sinh lý bình
thường (trong khi mọi người ngủ thì cán bộ y tế phải trực). Nơi làm việc chật chội,
nhiều tiếng ồn, cán bộ y tế nhiều khoa/bệnh viện phải làm việc với cường độ rất cao và
áp lực tâm lý luôn căng thẳng.
d. Yếu tố chính sách, quản lý và điều hành
- Một số chính sách, những quy định cần nghiên cứu điều chỉnh để khắc phục
những mặt trái tác động tới sự an toàn người bệnh như: Quy định cho thuốc 2-3 ngày;
đăng ký nơi khám chữa bệnh ban đầu dẫn đến giữ người bệnh ở tuyến dưới; thu viện phí
theo dịch vụ dẫn đến lạm dụng xét nghiệm, thuốc, kỹ thuật cao v.v.
- Cơ chế bệnh viện tự chủ cũng mang theo những rủi ro tiềm ẩn cần kiểm soát
như: Giảm chi phí đầu vào đặc biệt là giảm nhân lực điều dưỡng chăm sóc người bệnh,
giảm sử dụng vật tư, hàng tiêu hao y tế, thầy thuốc trước khi chỉ định thuốc, xét nghiệm
cho người bệnh phải xem xét khả năng chi trả của người bệnh v.v.
7

- Tổ chức cung cấp dịch vụ chưa thực sự hợp lý như: Hoạt động bệnh viện tập
trung nhiều vào buổi sáng; ca-kíp kéo dài (24 giờ/ngày); nhân lực trực đêm và ngày

nghỉ, ngày lễ chưa thực hiện được nguyên tắc “Bệnh viện hoạt động 24 giờ/ngày và 7
ngày/tuần”. Nhiều bệnh viện tuyến huyện, bố trí 1 bác sĩ trực theo khối (nội - ngoại) dẫn
đến bác sĩ không đáp ứng tốt được yêu cầu chuyên môn chuyên khoa (ví dụ, bác sĩ
chuyên khoa mắt trực khối ngoại khám sản v,v,).
Phân tích các yếu tố liên quan tới sự cố y khoa
YẾU TỐ QUẢN LÝ ĐIỀU HÀNH
Chính sách, cơ chế vận hành, tổ chức cung cấp dịch vụ, bố trí nguồn lực,
đào tạo nhân viên và kiểm tra, giám sát.

YẾU TỐ MÔI TRƯỜNG NƠI LÀM VIỆC
Môi trường vật lý (ánh sáng, nhiệt độ, tiếng ồn, nơi làm việc chật hẹp),
quá tải công việc, áp lực tâm lý.

YẾU TỐ CHUYÊN MÔN
Bệnh bất định, rủi ro do thuốc, phẫu thuật, thủ thuật dễ gây phản ứng.

YẾU TỐ NGƯỜI HÀNH NGHỀ
Thói quen, kiến thức, kinh nghiệm, đạo đức nghề nghiệp, sức khỏe, tâm lý



Sơ đồ 2. Các yếu tố liên quan tới sự cố y khoa
2.3.4. Phân loại sự cố y khoa theo mức độ nghiêm trọng đối với người bệnh
Chưa sai sót
A
Hoàn cảnh hoặc tình huống có khả năng gây sai sót
Sai sót
không gây
tổn hại cho
người bệnh

B
Sai sót đã xảy ra nhưng không ảnh hưởng tới người bệnh
C
Sai sót đã xảy ra ảnh hưởng tới người bệnh nhưng không gây tổn hại
D
Sai sót đã xảy ra ảnh hưởng tới người bệnh, yêu cầu giám sát và báo
cáo kết quả có tổn hại đến người bệnh không hoặc có biện pháp can
thiệp làm giảm tổn hại.
Sai sót, gây
tổn hại cho
người bệnh
E
Sai sót đã xảy ra gây tổn hại tạm thời đến người bệnh, yêu cầu có can thiệp
F
Sai sót đã xảy ra gây tổn hại tạm thời đến người bệnh, yêu cầu nằm
viện hoặc kéo dài thời gian nằm viện.
G
Sai sót đã xảy ra gây tổn hại vĩnh viễn đến người bệnh,
H
Sai sót đã xảy ra, yêu cầu tiến hành các can thiệp cần thiết để duy trì
cuộc sống của người bệnh.
I
Sai sót xảy ra gây tử vong.
Nguồn: NCC MERP Index, Medication Errors Council Revises and Expended Index for
categorizing Errors, June 12,2001.
SỰ CỐ XẢY RA
8

3. Một số nhận xét và đề xuất
Trên cơ sở tổng hợp các nghiên cứu trong nước và các quốc gia tiên phong, tác

giả có một số nhận xét và khuyến nghị:
1. Tăng cường hệ thống chính sách, văn bản pháp quy về An toàn người bệnh
(ATNB): Sự cố y khoa cần được xem xét như một vấn đề y tế công cộng (public health
issue) vì những lý do sau đây: (1) Sự cố y khoa mang tính toàn cầu, vượt ra tầm điều
chỉnh các sai sót mang tính cá nhân người hành nghề, xảy ra mọi lúc, mọi nơi, tại mọi
cơ sở y tế, có quy mô rộng (cá nhân, tổ chức, quốc gia và quốc tế); (2) Sự cố y khoa có
tần suất cao (3,7-10,6% người bệnh nhập viện, hậu quả sự cố y khoa rất nghiêm trọng
trực tiếp ảnh hưởng tới kết quả điều trị, tính mạng người bệnh, uy tín, sự an toàn và an
ninh của mọi cơ sở y tế; (3) Việc khắc phục và làm giảm sự cố y khoa là một công việc
khó khăn, lâu dài và đòi hỏi sự tham gia của toàn bộ hệ thống, kể cả sự tham gia của
người bệnh và cộng đồng. Mọi nỗ lực của hệ thống y tế chỉ có thể làm giảm nhẹ sự cố y
khoa mà không có thể phòng ngừa được mọi sự cố y khoa; (4) Cần có sự phối hợp giữa
các ngành nghề trong lĩnh vực y tế và ngoài y tế, đặc biệt là các cơ quan báo chí, truyền
thông trong việc cung cấp thông tin để tăng cường nhận thức của cộng đồng và người
hành nghề về an toàn người bệnh. Tổ chức Y tế Thế giới đã có Nghị quyết số
WHA55.18 kêu gọi các quốc gia thành viên giành sự quan tâm cao nhất có thể để cải
thiện sự an toàn người bệnh. Đồng thời, yêu cầu Giám đốc của Tổ chức Y tế thế giới
đưa ra các hướng dẫn, các chuẩn toàn cầu về an toàn người bệnh, hỗ trợ thiết lập các hệ
thống đo lường, báo cáo sự cố y khoa và thực hiện những giải pháp để làm giảm rui ro
cho người bệnh
24
.
2. Xem xét thành lập các tổ chức An toàn người bệnh: Các quốc gia tiên phong
như Mỹ, Úc, Anh, Canada, New Zealand từ thập kỷ đầu của thế kỷ XXI đã thành lập các
tổ chức chuyên trách để tư vấn, giám sát, đánh giá ATNB như: Ủy ban quốc gia về chất
lượng y tế và an toàn người bệnh (Mỹ, Úc, Malaysia); Viện nghiên cứu quốc gia an toàn
người bệnh (Mỹ, Canada); Hiệp hội an toàn người bệnh (Úc); Cơ quan an toàn người
bệnh quốc gia (Anh quốc, Mỹ); Liên minh an toàn người bệnh Đức (German Coalition
for Patient Safety) v.v. Các tổ chức trên đóng vai trò rất quan trọng trong việc tham
mưu, tư vấn, điều phối các nỗ lực về ATNB.

3. Triển khai hệ thống báo cáo sự cố y khoa bắt buộc: Hiện nay, những sự cố y
khoa đã biết chỉ là phần nổi của tảng băng do đó việc thiết lập hệ thống báo cáo sự cố y
khoa là cấp thiết để đánh giá hiện trạng và theo dõi xu hướng. Hệ thống báo cáo sự cố y
khoa bao gồm các thành tố sau: (1) Văn bản hướng dẫn báo cáo sự cố y khoa và quy
định sử dụng thông tin về sự cố y khoa; (2) Ban hành danh mục các sự cố y khoa phải
báo cáo bắt buộc bất cứ khi nào về Bộ Y tế; (3) Chuẩn hóa khung Báo cáo sự cố y khoa
và báo cáo đánh giá định kỳ về các sự cố y khoa, phân tích nguyên nhân gốc và các giải
pháp khắc phục. Từng bước minh bạch thông tin về sự cố y khoa thể hiện sự tôn trọng
của các hệ thống y tế đối với người bệnh và thể hiện trách nhiệm của các cấp của hệ
thống y tế khi sự cố xảy ra. Kinh nghiệm một số nước tiên phong, việc công khai minh
bạch thông tin về sự cố y khoa làm giảm áp lực của cộng đồng đối với ngành Y tế và
ngành Y tế nhận được sự thông cảm, chia sẻ của người bệnh và cộng đồng về tính chất
phức tạp và đa dạng của sự cố y khoa.
4. Triển khai bảo hiểm nghề nghiệp. Việc triển khai bảo hiểm nghề nghiệp sẽ làm
tăng niềm tin của người bệnh và gia đình người bệnh về khả năng đền bù khi có sự cố
xảy ra, gia đình người bệnh giảm bớt việc gây căng thẳng và gây áp lực cho thầy thuốc
và cơ sở y tế. Những trải nghiệm đối với các cá nhân và cơ sở hành nghề ở nước ta trong
9

thời gian qua rất phức tạp: (1) Cán bộ y tế bị hành hung, thậm chí bị bắn chết, bị đâm
chết ngay trong khi làm nhiệm vụ. Nhiều trường hợp phải trốn, phải rời bỏ vị trí làm
việc trong khi đang phải thường trực cấp cứu người bệnh; (2) Gây rối loạn trật tự xã hội
như đưa quan tài vào bệnh viện, vào nhà lãnh đạo bệnh viện, vào nhà bác sĩ trực, đưa
quan tài diễu phố; (3) Đập phá tài sản, máy móc trong bệnh viện và lực lượng bảo vệ
hầu như rơi vào tình trạng mất kiểm soát; (4) Gây áp lực bồi thường tài chính theo mức
tăng dần, trong khi bệnh viện thu một phần viện phí.
5. Cải thiện môi trường làm việc và văn hóa an toàn người bệnh: Bảo đảm nhân
lực đáp ứng yêu cầu bệnh viện hoạt động liên tục 24 giờ/ngày và 7 ngày/tuần. Rà soát
lại các thường quy làm việc (khám bệnh, kê đơn, phát thuốc, bàn giao ca kíp ) phát hiện
các khoảng trống có nguy cơ tiềm tàng tới sự ATNB để chủ động khắc phục, rà soát và

cập nhật các hướng dẫn chuyên môn, khắc phục lỗi hệ thống và tăng cường giáo dục,
kiểm tra sự tuân thủ của người hành nghề, tăng cường chuyên nghiệp và luôn đặt lợi ích
của người bệnh lên trên các lợi ích của cá nhân trong khi hành nghề.

4. KẾT LUẬN
Sự cố y khoa có tần suất cao (3,8%-16,7% người bệnh nội trú). Sự cố y khoa
mang tính toàn cầu, là thuộc tính của can thiệp y tế, hậu quả nghiêm trọng vừa là thách
thức trước và lâu dài của mọi hệ thống y tế. Trong hơn một thập kỷ, các nước tiên phong
trong lĩnh vực an toàn người bệnh đã tiến hành các nghiên cứu so sánh và nhận thấy tần
suất sự cố y khoa chưa có xu hướng giảm. Sự cố y khoa chủ yếu do lỗi hệ thống (70/30)
trong khi các cá nhân trực tiếp khám chữa bệnh có xu hướng dễ bị gán lỗi, vì vậy, cần có
sự định hướng khách quan của các cơ quan báo chí và truyền thông. Sự cố y khoa được
phân loại theo các cách khác nhau như phân loại theo mức độ nguy hại cho người bệnh,
phân loại theo lỗi cá nhân và lỗi hệ thống, phân loại theo tính chất chuyên môn của sự
cố. Có nhiều sự cố y khoa không phải do cán bộ y tế thiếu y đức hay thiếu trách nhiệm
gây nên mà do bản chất chuyên môn đặc thù của y học là khoa học chẩn đoán nên luôn
có xác suất. Các can thiệp y tế và việc đưa thuốc, hóa chất vào cơ thể có thể đưa tới
những sự cố không thể lường trước. Theo các tác giả, trên 50% sự cố y khoa có thể
phòng ngừa. Vì vậy, các cơ sở y tế cần đánh giá thường kỳ và thiết kế lại các thường
quy có nguy cơ cao tới người bệnh để chủ động phòng ngừa. Ở nước ta, cần tăng cường
nghiên cứu về sự cố y khoa và từ đó có các giải pháp phòng ngừa hiệu quả. Đồng thời,
cần ban hành các hướng dẫn về quy trình giải quyết sự cố y khoa, cũng như tiến tới
minh bạch thông tin về sự cố y khoa trong các cơ sở y tế.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Y tế. Thông tư Số 19 /2013/TT-BYT Hướng dẫn thực hiện quản lý chất lượng dịch vụ khám
bệnh, chữa bệnh tại bệnh viện.
2. Nguyễn Thanh Hà (2005), “Giám sát nhiễm khuẩn bệnh viện tại 6 tỉnh phía Nam”.
3. Nguyễn Việt Hùng (2005). “Tình hình nhiễm khuẩn bệnh viện tại các bệnh viện khu vực phía Bắc”.
4. Trần Hữu Luyện. “Nhiễm khuẩn bệnh viện trên NB có phẫu thuật”.

5. Phạm Đức Mục và cộng sự (2005). “Nhiễm khuẩn bệnh viện tại các bệnh viện trực thuộc Bộ Y tế
năm 2005”.
6. Lê Anh Thư. “Nhiễm khuẩn bệnh viện trên các bệnh nhân có thở máy”.
7. Nguyễn Văn Xáng. Nhiễm khuẩn bệnh viện tại bệnh viện đa khoa tỉnh Khánh hòa, 2013. Tạp Chí y
học thực hành (2014), số 904: 65-69.
10

8. Trịnh Hồ Tình và cộng sự. Giám sát NKVM của 622 NB có phẫu thuật tại BVĐK Bình Định. Tạp
Chí y học thực hành (2014), số 904: 57-64.
9. Mai Thị Tiết. Giám sát NKVM của 810 người bệnh có phẫu thuật tại bệnh viện đa khoa Đồng Nai.
Tạp Chí y học thực hành (2014), số 904: 53-56.
10. Results of Harvard Medical Practice Study II. New England Journal of Medicine, 1991,323:377.384.
11. Wilson, R.M., Runciman W.B., Gibberd R.w., Newby,L., & Hamilton, J.D. (1995). The quality in
Austrailia health care Study. The medical Journal of Australia,163 (9), 458-471.
12. Vincent, C., Neale, G., & Woloshynowych,M. (2001). An adverse events in British hyospitals:
Preliminary retrospective record review. British Medical Journal, 322 (7285), 517-519.
13. Baker, G.R., Norton P.G., Flintoft, W., Blais, R., Cox,J., et al. (2004). The Canadian adverse event
study: The incident of adverse events among hospital patient in Canada, CMẠ,170 (11), 1678-1686
14. Mette Lundgaard, Louise Raboel, Elizabeth Broegger Jensen. Danish Society for patient Safety. The
Danish patient experience: the Act on patient safety in the Danish health care system.
15. M Zegers, M C de Bruijne, C Wagner. Adverse events and potentially preventable deaths in Dutch
hospitals. Results of retrospective patient record review study.
16. Davis P, Lay-Yee R, Briant R, Ali W, Scott A, Schug S. Adverse events in New Zealand public
hospitals II: preventability and clinical context.
17. Daniel R. Levinson. Advrese events in hospitals: National incident among medical beneficiaries.
Offic of Investigator General.
18. Rebecca J Baines, maaike Langelaan. Change in adverse event rates in hospital over time: a
longitudinal retrospective record review study.
19. Trends in adverse events events over time: why are we not improving
20. Adverse health events in Minnesota. Ninth Annual Report/Jannuaryy 2013

21. WHO (2011). Patient Safety curriculum guide. Multi-professional Edition,2011, 96-97.
22. Vincent C et al. “Systems approaches to surgical quality and safety: from concept to measurement”.
Annuals of Surgery , 2004, 239:475–482.
23. R. Monina Klevens, Jonathan R. Edwards, Chesley L. Richards (2002). “Estimating Health Care-
Associated Infections and Deaths in U.S. Hospitals”
24. WHO (2002). Fifty fifth World health Assembly WHA55.
25. WHO (2011). Guidelines for Adverse Event Reporting and Learning System
26. Bates DW, Spell N et al (1997), "The costs of adverse drug events in hospitalized patients",
JAMA 1997; 277:301-34.
27. Serious Reportable Events in health care-2011 Update: A consensus report. National Quality forum.
Washington, DC: NQF,2011

×