Tải bản đầy đủ (.docx) (43 trang)

Giải pháp hoàn thiện chính sách phát triển mối quan hệ giữa Asean và Trung Quốc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (548.75 KB, 43 trang )

MỤC LỤC
Lời mở đầu…………………………………………………………………………….2
Chương 1: Giới thiệu về Trung Quốc, ASEAN và mối quan hệ giữa ASEAN vàTrung
Quốc……………………………………………………………………… …………3
1.1. Giới thiệu về ASEAN và Trung Quốc………………………………………… 3
1.1.1 Vài nét cơ bản về ASEAN………………………………………………………3
1.1.2 Một vài nét về Trung Quốc…………………………………………………… 8
1.2. Tiến trình phát triển mối quan hệ giữa Trung Quốc và ASEAN…………….…17
Chương 2: Các chính sách phát triển mối quan hệ với ASEAN của Trung Quốc.…25
2.1. Các chính sách mà Trung Quốc đề ra để phát triển mối quan hệ với ASEAN 25
2.2. Hạn chế trong quan hệ giữa ASEAN và Trung Quốc……………………… …34
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện chính sách phát triển mối quan hệ với ASEAN của
Trung Quốc……………………………………………………………………….…40
Kết luận…………………………………………………………………………… 42
Tài liệu tham khảo………………………………………… ………………………43
Lời mở đầu
Thế kỉ 21 là thời đại của toàn cầu hóa,các quốc gia cũng như các hiệp hội quốc gia đều
không thể phát triển một cách bền vững nếu không đặt mình trong mối quan hệ với các
quốc gia,hiệp hội quốc gia khác.Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN là một tổ
chức năng động,phát triển về nhiều mặt và đóng vai trò quan trọng trong khu vực cũng
như trên thế giới.Cùng với đó Trung Quốc là một quốc gia đang ngày càng chứng tỏ vị
thế ngày càng to lớn của mình về mọi mặt đặc biệt là sự phát triển kinh tế,đang dần vươn
lên trở thành cường quốc trên thế giới.Chính vì vậy,để góp phần không nhỏ vào sự phát
triển của mình,Trung Quốc đã và đang có những chính sách để phát triển mối quan hệ với
ASEAN để hai bên cùng nhau hợp tác,phát triển vì mục tiêu đôi bên cùng có lợi.Nội
dung nghiên cứu gồm ba vấn đề tương ứng với kết cấu ba chương:
Chương 1: Giới thiệu về ASEAN, Trung Quốc và mối quan hệ giữa ASEAN và Trung
Quốc
Chương 2:Các chính sách phát triển mối quan hệ với ASEAN của Trung Quốc.
Chương 3:Giải pháp hoàn thiện chính sách phát triển mối quan hệ với ASEAN của Trung
Quốc.


Chương 1: Giới thiệu về Trung Quốc, ASEAN và mối quan hệ giữa
ASEAN và Trung Quốc.
1.1. Tổng quan về mối quan hệ giữa ASEAN và Trung Quốc.
1.1.1 Vài nét cơ bản về ASEAN
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (Association of Southeast Asian Nations, viết tắt
là ASEAN) Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á , liên minh về chính trị, kinh tế, văn hóa
và xã hội ,là tổ chức liên chính phủ được thành lập ngày 8/8/1967 tại Băng-cốc, Thái Lan
trên cơ sở Tuyên bố Băng-cốc với 5 thành viên ban đầu, với mục tiêu tăng cường hợp tác
chính trị, an ninh, kinh tế và văn hoá - xã hội giữa các nước thành viên, tạo điều kiện hội
nhập sâu hơn với khu vực và thế giới….

Tổng diện tích các nước ASEAN vào khoảng 4,43 triệu km2, với dân số gần 616
triệu người vào năm 2012. Tổng thu nhập quốc dân của các nước ASEAN năm 2012 đạt
2,3 tỷ đô-la Mỹ.

1.1.1.1 Sự ra đời của ASEAN
Từ sau năm 1945, nhiều quốc gia đã ra đời dưới những hình thức khác nhau ở Đông
Nam Á. Năm 1945, Indonesia, Việt Nam và Lào tuyên bố độc lập. Năm 1946, Mỹ trao trả
độc lập cho Philippines.Năm 1947, Anh trao trả độc lập cho Miến Điện (nay là
Myanmar). Năm 1965, Singapore tách khỏi Liên bang Malaysia, tuyên bố thành nước
cộng hòa độc lập. Ngày 31/12/1983, Anh trao trả độc lập cho Bruney. Thái Lan không là
thuộc địa trực tiếp của một đế quốc nào nên sau Chiến tranh Thế giới lần thứ II vẫn là
quốc gia độc lập.
Sau khi giành được độc lập, nhiều nước Đông Nam Á đã có dự định thành lập một tổ
chức khu vực nhằm tạo nên sự hợp tác phát triển trên các lĩnh vực kinh tế, khoa học kỹ
thuật và văn hóa; đồng thời hạn chế ảnh hưởng của các nước lớn đang tìm cách biến
Đông Nam Á thành “sân sau” của họ.
Trong quá trình tìm kiếm sự hợp tác giữa các nước Đông Nam Á, nhiều tổ chức khu
vực đã xuất hiện và một số hiệp ước giữa các nước trong khu vực được ký kết.
-Tháng 1/1959, Hiệp ước Hữu nghị và Kinh tế Đông Nam Á (SEAFET), gồm

Malaysia và Philippines ra đời.
-Ngày 31/7/1961, Hiệp hội Đông Nam Á (ASA) - gồm Thái Lan, Philippines và
Malaysia - được thành lập.
-Tháng 8/1963, một tổ chức gồm Malaysia, Philippines và Indonesia, gọi tắt là
MAPHILINDO, được thành lập. Tuy nhiên, những tổ chức và Hiệp ước trên đây đều
không tồn tại được lâu do những bất đồng giữa các nước về vấn đề lãnh thổ và chủ
quyền.
ASA, MAPHILINDO không thành công, nhưng nhu cầu về một tổ chức hợp tác khu
vực rộng lớn hơn ở Đông Nam Á ngày càng lớn.
Trong khi đó, sau Chiến tranh Thế giới thứ II, các trào lưu hình thành “chủ nghĩa khu
vực” trên thế giới đã xuất hiện và cùng với nó là sự ra đời của Cộng đồng Kinh tế Châu
Âu (EEC); Khu vực Thương mại Tự do Mỹ Latin (LAFTA); Thị trường chung Trung Mỹ
(CACM) Việc thành lập các tổ chức khu vực này đã tác động đến việc hình thành
ASEAN.
Từ kinh nghiệm của EEC, các nước Đông Nam Á đều thấy rằng việc hình thành các tổ
chức khu vực sẽ giúp thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế thông qua tăng cường hợp tác kinh
tế, buôn bán và phân công lao động.
Về mặt chính trị, các tổ chức khu vực giúp củng cố tình đoàn kết khu vực và giúp các
nước vừa và nhỏ có tiếng nói mạnh mẽ hơn trong các vấn đề quốc tế. Còn về mặt xã hội,
chủ nghĩa khu vực có thể đưa ra các phương hướng hợp tác để giải quyết có hiệu quả các
vấn đề đặt ra cho các nước thành viên.
Sau nhiều cuộc thảo luận, ngày 8/8/1967, Bộ trưởng Ngoại giao các nước Indonesia,
Thái Lan, Philippines, Singapore và Phó Thủ tướng Malaysia ký tại Bangkok bản Tuyên
bố thành lập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN).
Từ 5 nước thành viên ban đầu, đến nay ASEAN đã có 10 quốc gia thành viên, gồm
Indonesia, Thái Lan, Philippines, Singapore, Malaysia, Bruney (năm 1984), Việt Nam
(năm1995), Lào (năm 1997), Myanmar (năm 1997) và Campuchia (năm1999).
Thực tiễn đã chứng minh rằng, một Đông Nam Á thống nhất đã thúc đẩy cho hợp tác
và vị thế ASEAN ngày càng lớn mạnh, là tiền đề quan trọng để ASEAN trở thành một
cộng đồng.

1.1.1.2.Những cột mốc phát triển quan trọng
+ Tuyên bố ASEAN:
Ngày 8/8/1967, tại Bangkok, Thái Lan, Bộ trưởng phụ trách các vấn đề chính trị
kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Indonesia, Phó Thủ tướng Malaysia, Bộ trưởng Ngoại giao
Philippines, Bộ trưởng Ngoại giao Singapore và Bộ trưởng Ngoại giao Thái Lan đã ra
Tuyên bố ASEAN.
Đây là Tuyên bố thành lập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á với mục tiêu đẩy
mạnh tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội, phát triển văn hóa; tăng cường hợp tác, giúp đỡ
lẫn nhau cũng như thúc đẩy hòa bình, ổn định trong khu vực.
+ Tuyên bố về khu vực hòa bình, tự do và trung lập:
Ngày 27/11/1971, tại Kuala Lumpur, Malaysia, Bộ trưởng Ngoại giao Indonesia,
Malaysia, Philippines, Xingapo và Đặc phái viên của Hội đồng Hành pháp Quốc gia Thái
Lan đã ký và công bố “Tuyên bố về khu vực hòa bình, tự do và trung lập ở Đông Nam
Á”- Tuyên bố ZOPFAN.
Tuyên bố quan trọng này đã định ra các mục tiêu cơ bản và lâu dài của ASEAN là
xây dựng Đông Nam á thành một khu vực hòa bình, tự do và trung lập, không có sự can
thiệp dưới bất cứ hình thức nào của các cường quốc bên ngoài.
+ Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác Đông Nam Á:
Ngày 24/2/1976, tại Bali, Indonesia, nguyên thủ quốc gia các nước ASEAN ký Hiệp
ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam Á (Hiệp ước Bali).Hiệp ước nhằm thúc đẩy hòa
bình vĩnh viễn, tình hữu nghị và hợp tác lâu bền giữa nhân dân các bên tham gia Hiệp
ước, góp phần tăng cường sức mạnh, tình đoàn kết và quan hệ chặt chẽ hơn giữa các
nước Đông Nam Á.
+ Hiến chương ASEAN:
Từ Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 10 (năm 2004), lãnh đạo các nước ASEAN đã
nhất trí xây dựng bản Hiến chương ASEAN. Tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 13
(năm 2007), lãnh đạo các nước ASEAN đã ký thông qua Hiến chương ASEAN và ra
Tuyên bố chung khẳng định quyết tâm hoàn tất việc phê chuẩn Hiến chương trong vòng
một năm.
Ngày 15/12/2008, Hiến chương ASEAN chính thức có hiệu lực sau khi được tất cả

các nước thành viên ASEAN phê chuẩn. Đây là một sự kiện quan trọng, là bước ngoặt
lịch sử của Hiệp hội trong hơn 40 năm hình thành và phát triển.
Hiến chương ASEAN đánh dấu một bước chuyển mình cơ bản của Hiệp hội sang một
giai đoạn mới, trở thành một tổ chức liên chính phủ, có tư cách pháp nhân và hoạt động
dựa trên cơ sở pháp lý là Hiến chương ASEAN; đồng thời, phản ánh sự trưởng thành của
ASEAN, thể hiện tầm nhìn và quyết tâm chính trị mạnh mẽ của các nước thành viên
ASEAN, nhất là của các vị lãnh đạo, về mục tiêu xây dựng một ASEAN liên kết chặt
chẽ, vững mạnh hơn, để hỗ trợ cho mục tiêu hòa bình và phát triển của cả khu vực cũng
như của từng nước thành viên
ASEAN cũng đã thiết lập được quan hệ hợp tác nhiều mặt với các Đối tác trong và
ngoài khu vực thông qua các tiến trình như ASEAN+1 (hợp tác ASEAN với từng Đối
tác); ASEAN+3 (với 3 nước Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc); Cấp cao Đông Á (với
3 nước Đông Bắc Á và Ấn Độ, Ôx-trây-lia, Niu Di-lân); Diễn đàn Khu vực ASEAN
(ARF)…
Sau 4 thập kỷ tồn tại và phát triển, ASEAN đã lớn mạnh thành một trở thành một
thực thể chính trị - kinh tế gắn kết, có vai trò quan trọng đóng góp cho hòa bình, ổn định
và hợp tác ở khu vực và là đối tác không thể thiếu của các nước và các tổ chức lớn trên
thế giới. Trên nền tảng đó, ASEAN đã nhất trí đẩy mạnh hợp tác và tăng cường liên kết
nhằm hướng tới xây dựng một Cộng đồng ASEAN vững mạnh dựa trên ba trụ cột là
Chính trị-An ninh, Kinh tế và Văn hóa-Xã hội vào năm 2015.
Cộng đồng Chính trị-An ninh ASEAN nhằm mục tiêu tạo dựng một môi trường hòa
bình và an ninh cho phát triển ở khu vực Đông Nam Á thông qua việc nâng hợp tác chính
trị-an ninh ASEAN lên tầm cao mới, với sự tham gia và đóng góp xây dựng của cả các
đối tác bên ngoài.
Cộng đồng Kinh tế ASEAN nhằm mục tiêu tạo ra một thị trường chung duy nhất và
cơ sở sản xuất thống nhất, trong đó có sự lưu chuyển tự do của hàng hóa, dịch vụ, đầu tư,
vốn và lao động; từ đó nâng cao tính cạnh tranh và thúc đẩy sự thịnh vượng chung cho cả
khu vực; tạo ra sự hấp dẫn với đầu tư-kinh doanh từ bên ngoài.
Cộng đồng Văn hóa-Xã hội ASEAN với mục tiêu tổng quát là phục vụ và nâng cao
chất lượng cuộc sống của người dân ASEAN, tập trung xử lý các vấn đề liên quan đến

bình đẳng và công bằng xã hội, bản sắc văn hóa, môi trường, tác động của toàn cầu hóa
và cách mạng khoa học công nghệ.
1.1.2 Một vài nét về Trung Quốc
Tên nước: Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa (The People’s Republic of China)
Thủ đô: Bắc Kinh
Ngày quốc khánh: 01-10-1949.
Vị trí địa lý: Trung Quốc nằm ở phần nửa phía bắc của Đông bán cầu, phía đông nam của
đại lục Á – Âu, phía đông và giữa châu Á, phía Tây của Thái Bình Dương; có biên giới
chung với Nga, Mông Cổ (phía bắc), với Kazakstan, Kirghistan, Taghikistan (phía tây),
với Afghanistan, Pakistan, Ấn Độ, Nê Pan, Bu Tan (phía tây nam), với Myanma, Lào,
Việt Nam (phía nam), với Triều Tiên (phía đông).
Diện tích: 9,6 triệu km2
Khí hậu: Trung Quốc thuộc khu vực gió mùa, khí hậu đa dạng từ ấm đến khô. Nhiệt độ
trung bình toàn quốc tháng 1 là -4,70C, tháng 7 là 260C. Ba khu vực được coi là nóng
nhất là Nam Kinh, Vũ Hán, Trùng Khánh. phức tạp , đa dạng, đa số nằm trong khu vực
bắc ôn đới, thuộc khí hậu gió mùa lục địa, đa số các vùng có bốn mùa rõ rệt, mùa đông
lạnh giá, mùa hè nóng nực. Do đất nước rộng lớn, địa hình phức tạp, độ cao chênh lệch
lớn nên khí hậu cũng đa dạng theo. Từ nam lên bắc lần lượt là các vùng nhiệt đới, á nhiệt
đới, trung ôn đới, hàn ôn đới,, Còn khí hậu vùng cao nguyện Thanh Tạng là vùng khí hậu
theo đường thẳng đứng. Đặc diểm khí hậu Trung Quốc là về mùa đông đa sốcác vùng
lạnh giá, khí hậu miền Nam Bắc chênh lệch rõ rệt. Về mùa hè do ánh mặt trời chiếu thẳng
xuống bắc bán cầu nên miền Bắc ngày dài hơn, về mùa đông mặt trời chiếu tới 2 miền
Nam Bắc nên ngày gần như nhau. Trừ vùng cao nguyên Thanh Tạng có địa hình quá cao
ra, cả nước đều nóng ấm, khí hậu chênh lệch không nhiều.
Đa số các vùng do ảnh huởng dòng khí vùng biển ẩm, thổi vào lục địa nên mưa
nhiều, nhưng lượng mưa giữa các vùng và các mùa không đều nhau. Miền Đông mưa
nhiều, miền Tây ít. Từ Đông Nam tới Tây Bắc lượng mưa giảm dần đồng thời mưa nhiều
vào mùa hạ. MiềnNam mùa mưa kéo dài từ tháng 5 tới tháng 10. Miền Bắc múa mưa
ngắn, tập trung vào tháng 7, tháng 8.
Dân số: hơn 1,34 tỷ người (tính đến 4/2011).

Dân Tộc: Trung Quốc là quốc gia đa dân tộc với 56 dân tộc được chính thức công, trong
đó dân tộc Hán là chủ yếu (chiếm 93% dân số), ngoài ra còn có 55 dân tộc ít người
(chiếm 7% dân số cả nước và phân bổ trên 50-60% diện tích toàn quốc).
Hành chính: 31 tỉnh, thành phố gồm 22 tỉnh, 5 khu tự trị và 4 thành phố trực thuộc trung
ương. 4 cấp hành chính gồm tỉnh, địa khu, huyện, xã. Thủ đô: Bắc Kinh.
Tôn giáo: Có 4 tôn giáo chính là Phật giáo, Đạo giáo, Đạo Hồi, Thiên chúa giáo.
Ngôn ngữ: Tiếng Hán là tiếng phổ thông, lấy âm Bắc Kinh làm tiêu chuẩn.
Văn Hóa Trung Quốc :
Văn hoá Trung Quốc chịu ảnh hưởng sâu sắc từ các tư tưởng đạo Phật – tôn giáo chính
thức ở đất nước này và từ nền sản xuất phụ thuộc vào nguồn nước. Có thể thấy rõ hai
điểm trên qua các ngày lễ hội. Trong văn hoá ứng xử, người Thái tỏ rõ sự sùng đạo, tôn
kính hoàng gia và trọng thứ bậc cũng như tuổi tác.
Lễ hội Trung Quốc :Cũng như một số nước trong khu vực Châu Á, ngày lễ Trung Quốc
cũng được chia làm 2 phần: phần lễ và phần hội. Sau đây là danh sách một số ngày lễ
chính tại Trung Quốc:
Ngày 1 tháng 1: Ngày đầu năm mới
Ngày 16 tháng 1: Ngày Nhà giáo
Ngày 9 tháng 2: Ngày Tết Âm lịch
Ngày 14 tháng 2: Ngày lễ tình yêu
Ngày 13, 14, 15 tháng 4 : Ngày Tết Song Khran (Tết Trung Quốc)
Ngày 1 tháng 5: Ngày Quốc tế Lao động
Ngày 12 tháng 8: Ngày sinh nhật Hoàng hậu
Ngày 16 tháng 11: Ngày lễ Loy Krathong
Ngày 5 tháng 12: Ngày sinh nhật Nhà Vua
Ngày 25 tháng 12: Ngày Giáng sinh
Kinh Tế Trung Quốc
Chỉ trong vòng 30 năm, Trung Quốc đã chuyển mình từ một nền kinh tế kế hoạch hóa
tập trung thành một mô hình kiểu mẫu của nền kinh tế định hướng thị trường, và thậm chí
đang dần trở thành “sân chơi” lớn nhất trong nền kinh tế toàn cầu. Hiện tại Trung Quốc là
quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế lớn nhất thế giới (tốc độ tăng trưởng bình quân là

10% trong ba thập kỷ qua) và cũng là nước xuất khẩu ròng lớn nhất toàn cầu. Trung
Quốc dẫn đầu kinh tế thế giới về sản lượng công nghiệp, khai thác mỏ và các kim loại
khác, sản phẩm tiêu dùng, thiết bị viễn thông, vệ tinh và ô tô. Đây cũng được coi là nhà
sản xuất đi đầu về gạo, lúa mì, cá, ngô, cotton và lạc. Nước này cũng là nhà nhập khẩu
hàng hóa lớn thứ hai trên thế giới. Nếu xu hướng hiện tại vẫn tiếp tục trong tương lai thì
theo dự đoán của một số chuyên gia, Trung Quốc có thể trở thành nền kinh tế lớn nhất
toàn cầu vào năm 2030, hoặc thậm chí 2020.
GDP của Trung Quốc năm 2013 đạt 9.000 tỷ USD đứng thứ 2 trên thế giới sau Mỹ
(16.200 tỷ USD)

Mười nền kinh tế lớn nhất thế giới năm 2013
Quốc vụ viện Trung Quốc thông báo tăng trưởng kinh tế quốc gia đạt 7,6% trong năm
2013, giảm nhẹ so với mức 7,7% năm 2012.Theo bản báo cáo triển khai kế hoạch phát
triển 5 năm lần thứ 12 giai đoạn 2011 – 2015, kể từ năm 2011, nền kinh tế Trung Quốc
tăng trưởng cao hơn so với kỳ vọng bất chấp dấu hiệu giảm nhẹ.
Kế hoạch 5 năm giai đoạn 2011 – 2015 của Trung Quốc đã đặt ra chỉ tiêu tăng tổng
sản phẩm quốc nội (GDP) đạt 7% trong năm 2011 – 2015. Trước đó, GDP của Trung
Quốc đạt 9,3% vào năm 2011, 7,7% năm 2012 và 7,6% vào nửa đầu năm 2013.
Bản báo cáo trên dự báo ngành dịch vụ Trung Quốc sẽ chiếm 47% trong GDP vào
năm 2015 so với 44,6% năm 2012 và 43,2% năm 2010. Tốc độ đô thị hóa đạt 51,5% năm
2015 so với 52,27% năm 2012.
Thu nhập hàng năm của người dân thành thị tại Trung Quốc là 24.500 Nhân dân tệ
(3.951 USD) vào năm 2012, và kỳ vọng đạt 26.810 Nhân dân tệ (4.431 USD) năm 2015.
Trong khi đó, thu nhập hàng năm của người dân nông thôn Trung Quốc là 7.900 Nhân
dân tệ (1.300 USD) vào năm 2012, và sẽ đạt 8.310 Nhân dân tệ (1.367 USD) năm 2015.
Theo học giả người Mỹ Jeremy Rifkin, Trung Quốc sẽ dẫn đầu thế giới bước vào
Cách mạng công nghiệp lần thứ 3 với sự tập trung phát triển năng lượng tái tạo và công
nghệ Internet.Trong giai đoạn 2000-2011, sự vươn lên mạnh mẽ của các nền kinh tế mới
nổi do Trung Quốc dẫn dắt và theo sau là Ấn Độ, Brazil và Nga. Chi phí sản xuất ở mức
thấp, nhất là lao động giá rẻ chính là yếu tố quan trọng nhất thúc đẩy các công ty chuyển

hướng sang các khu vực này, mặc dù người tiêu dùng cuối cùng tập trung ở phương Tây.
Ngoài ra, nhu cầu về hàng hóa được sản xuất tinh vi hơn cũng tăng cao ở các nước đang
phát triển.

Năm 2000, các quốc gia giàu có chiếm tới 73% sản lượng công nghiệp toàn cầu
trong khi các nền kinh tế mới nổi chỉ chiếm 27% còn lại. Trong 5 năm tiếp theo, con số
của các nước phương Tây giảm xuống còn 69% và chỉ còn 54% năm 2011.
Theo số liệu của IHS Global công bố, Trung Quốc chính là nước đứng đằng sau hầu
hết những thay đổi này. Năm 2000, Trung Quốc chỉ chiếm 7% sản lượng công nghiệp
toàn cầu. Tỷ lệ này tăng lên 9,8% vào năm 2005 và sau đó tăng hơn gấp đôi, lên mức
19,8% trong 6 năm tiếp theo. Trung Quốc đã vượt qua Mỹ nếu xét theo khía cạnh này.
Thương mại : Cách đây 1 thập kỷ, Trung Quốc chưa phải là đối tác thương mại hàng
đầu của bất kỳ quốc gia nào trong nhóm 20 nền kinh tế lớn nhất thế giới (G-20).Ngày
nay, Quốc, Ấn Độ, Nga và Nam Phi nước này đã trở thành đối tác thương mại số 1 của 6
quốc gia trong nhóm này, gồm Australia, Nhật Bản, Hàn. Không chỉ có vậy, Trung Quốc
còn thế chân Mỹ ở vị trí thị trường xuất khẩu lớn nhất của Brazil, đồng thời ngày càng
xuất khẩu ngày càng nhiều hơn vào các nước còn lại trong G20 Tổng cục Hải quan Trung
Quốc cho biết, kim ngạch xuất khẩu năm 2013 của nền kinh tế lớn thứ hai thế giới này đã
tăng 7,9% đạt 2,21 nghìn tỷ USD. Trong cùng kỳ, kim ngạch nhập khẩu cũng tăng 7,3%
đạt 1,95 nghìn tỷ USD.
Thặng dư thương mại năm 2012 của Trung Quốc đạt 231,1 tỉ đô la Mỹ, tăng 48% so
với năm 2011. Tháng 12-2012, kim ngạch xuất khẩu tăng 14,1% so với cùng kỳ năm
trước, đạt mức cao kỷ lục trong 7 tháng qua, cao hơn dự báo của thị trường.Quy mô kim
ngạch ngoại thương cả năm 2012 của Trung Quốc chỉ tăng 6,2% so với năm trước đó,
thấp hơn so với mục tiêu tăng trưởng 10% mà chính phủ đặt ra.
Mức thặng dư thương mại năm 2013 của Trung Quốc dừng ở mức 259.75 tỷ USD,
tăng 12,8% so với năm 2012. Như vậy, tổng kim ngạch thương mại của toàn Trung Quốc
năm 2013 đã đạt 4,16 nghìn tỷ USD, tăng 7,6% so với năm 2012 và gần đạt được mục
tiêu 8% mà chính phủ nước này đã đặt ra.
Giao dịch thương mại giữa các nước Châu Á và Trung Quốc ngày phát triển, đóng

vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế ở khu vực. Trong xu hướng hội nhập quốc tế
hiện nay, văn hoá phương Đông lại càng được nghiên cứu nhiều hơn và việc học tiếng
Trung là công cụ tốt nhất để bắt đầu tìm hiểu về văn hoá phương Đông. Trung Quốc: nơi
bạn có thể du học bằng tiếng Trung với chất lượng giáo dục cao, ngành nghề đào tạo rất
đa dạng và phù hợp với nhiều trình độ, thủ tục du học rất đơn giản, chi phí thấp
Về đầu tư : Trung Quốc đang khuyến khích đầu tư ra nước ngoài .
Bộ Thương mại Trung Quốc ngày 18/12/2013 công bố báo cáo cho biết đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài của Trung Quốc trong 11 tháng đầu năm 2013 đã tăng 28,3% so với
cùng kỳ năm ngoái, lên 80,2 tỷ USD, cao hơn so với con số 77,2 tỷ USD của cả năm
2012.Trong số này, đầu tư của Trung Quốc sang Nga và Mỹ trong thời gian này tăng
mạnh, lần lượt là 685% và 232,2%. Tuy nhiên, đầu tư trực tiếp sang Đặc khu hành chính
Hong Kong (Hong Kong) và Nhật Bản lại giảm lần lượt là 0,6% và 13,3%.
Giáo dục:
Trung Quốc từ lâu được biết đến là một trong những nước có nền văn hoá đồ sộ và
lâu đời nhất thế giới. Giờ đây, Trung Quốc lại được nhiều người biết đến như một nền
kinh tế và kỹ thuật trên đà phát triển mạnh mẽ và một nền giáo dục và đào tạo chất lượng
cao và thực sự thiết thực với tình hình phát triển kinh tế và xã hội của ASEAN. Do đó,
ngày càng nhiều học sinh – sinh viên ASEAN đến du học tại Trung Quốc.
Giáo dục Trung Quốc được chia thành các cấp học như sau:
- Mẫu giáo: 3 năm
- Bậc tiểu học: 6 năm
- Bậc trung học cơ sở: 3 năm
- Bậc trung học phổ thông: 3 năm
- Cao đẳng và đại học: 4-5 năm
- Cao học: 2-3 năm
- Tiến sỹ: 3 năm
1.2.Tiến trình phát triển mối quan hệ giữa Trung Quốc và ASEAN
Ngày 19/7/1991, Ngoại trưởng Trung Quốc Ngài QianQichen tham dự Hội nghị Bổ
trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 24( AMM-24) với tư cách là khách mời của chính phủ
Malaysia . Sự có mặt lần đầu tiên của người đứng đầu Bộ Ngoại giao Trung Quốc tại

Hội nghị thường niên Bộ trưởng Ngoại giao các nước ASEAN đã mở ra một thời kỳ mới
trong quan hệ giữa ASEAN và Trung Quốc. Năm 1991 được xem là năm hội đàm và
tăng cường hợp tác trong quan hệ ASEAN –Trung Quốc . Năm 1996, Hội nghị AMM 29
vào tháng Bảy năm 1996 tại Jakarta,quan hệ đối thoại giữa ASEAN-Trung Quốc chính
thức hoàn thiện .
Mối quan hệ giữa ASEAN và Trung Quốc đã được nâng lên một tầm cao mới với
việc ký kết “Tuyên bố chung của thủ tướng chính phủ về đối tác chiến lược vì hòa bình
và thịnh vượng” tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN-Trung Quốc lần thứ 7 tháng 10 năm
2003 tại Bali,Indonesia và “kế hoạch ASEAN-Trung Quốc hành động 2005-2010” để
thực hiện Tuyên bố chung tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN –Trung Quốc lần thứ 8 vào
tháng 11 năm 2004 tại Viêng Chăm . Để tăng cường mối quan hệ đối tác chiến lược giữa
ASEAN và Trung quốc , Kế hoạch hành động giai đoạn 2011-2015 đã được thông qua tại
Hội nghị thượng đỉnh ASEAN-Trung Quốc lần thứ 13 vào tháng 10 năm 2010 tại Hà Nội
Cho tới nay ASEAN và Trung Quốc đã đồng ý hợp tác trên mười một lĩnh vực ưu
tiên, cụ thể là: nông nghiệp, công nghệ thông tin truyền thông ,phát triển nguồn nhân lực,
phát triển lưu vực sông Mê Koong , đầu tư, năng lượng, giao thông, văn hóa , du lịch và
môi trường.
Để thúc đẩy hơn nữa mối quan hệ giữa ASEAN-Trung Quốc , Trung Quốc bổ nhiệm
một Đại sứ ở ASEAN, thực hiện nhiệm vụ của Trung Quốc trong ASEAN tại Jakarta vào
tháng 9/2012
Dưới đây là sự phát triển trong quan hệ giữa ASEAN-Trung Quốc trong một số lĩnh
vực cụ thể :
Hợp tác chính trị và an ninh
ASEAN và Trung Quốc tiếp tục tăng cường hợp tác chặt chẽ trong những chiến lược
về chính trị bằng đối thoại và tham vấn thông qua các Hội nghị cấp cao, hội nghị Bộ
trưởng , quan chức cấp cao và các cuộc họp chuyên gia cũng như thông qua Diễn đàn khu
vực ASEAN (ARF) , ASEAN+3 (APT) , Hội nghị thượng đỉnh Đông Á (EAS) và cuộc
họp của các Bộ trưởng Quốc phòng .
Trung Quốc là đối tác đối thoại đầu tiên của ASEAN để gia nhập TAC vào tháng 10
năm 2003 tại Bali . Trung Quốc gia nhập TAC đã góp phần vào tầm vóc của TAC quy

tăc ứng xử trong quan hệ giữa các quốc gia trong khu vực . Trung quốc cũng là đất nước
vũ khí hạt nhân đầu tiên bày tỏ ý định tham gia Nghị định thư SEANWFZ
Với mong muốn thúc đẩy môi trường hòa bình , thân thiện hài hòa trong khu vực
Biển Đông , ASEAN và Trung quốc kí kết DOC trong tháng 11 năm 2002 tại Phnom
Penh . Sau một loạt các cuộc thảo luận , ASEAN và Trung Quốc đã thông qua Hướng
dẫn thực hiện DOC vào ngày 21 tháng 7 năm 2011 tại Bali. Tiếp theo việc thông qua
hướng dẫn , bốn hoạt động đã được thực hiện vào năm 2012 là i) Hội thảo về phòng
chống và giảm nhẹ mối nguy trong Biển Đông vào ngày 17-18 tháng 7 năm 2012 tại Côn
Minh, Trung Quốc ii) Hội thảo về hệ sinh thái biển và đa dạng sinh học từ ngày 31/7 đến
ngày 4/8 năm 2012 tại Singarpore iii) Hội nghị chuyên đề về môi trường sinh thái và
giám sát kỹ thuật trên bển ngày 16-17 tháng 10 năm 2012 tại Hạ Môn, Trung Quốc iv)
Hội thảo ký niệm 10 năm của DOC từ ngày 1 đến ngày mồng 3 tháng 11 năm 2012 tại
Phnom Penh
Theo như đề nghị của Thủ tướng Ôn Gia Bảo tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN-
Trung Quốc lần thứ 14 trong tháng 11 năm 2011 tại Bali, Trung Quốc đã thành lập Quỹ
hợp tác Hàng hải Trung Quốc- ASEAN để cung cấp hỗ trợ tài chính cho hợp tác
ASEAN- Trung Quốc trong lĩnh vực hàng hải , Nghiên cứu khoa học, kết nối và an toàn
hàng hải , đặc biệt là thực hiện các hoạt động của dự án hợp tác trong khuôn khổ DOC.
Về an ninh phi truyền thống , ASEAN và Trung Quốc đã ký Tuyên bố chung của
ASEAN và Trung QUốc về hợp tác trong lĩnh vực an ninh phi truyền thống năm 2002
tiếp theo việc ký kết Biên bản ghi nhớ về hợp tác trong lĩnh vực an ninh phi truyền thống
năm 2004. Sau khi hết thời hạn của Biên bản ghi nhớ năm 2009 , một biên bản ghi nhớ
mới cho giai đoạn 2010-2014 đã được ký kết tại Siem Reap. Một loạt các hội thảo các
chương trình đào tạo cho các nước ASEAN được Trung Quốc tổ chức trong năm 2011-
2012 . Tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN-Trung QUốc lần thứ 15 các nhà lãnh đạo
ASEAN mong muốn tăng cường hợp tác với Trung Quốc trong lĩnh vực phòng chống
nân buôn lậu ma túy .
Hợp tác về kinh tế
Quan hệ kinh tế, thương mại giữa ASEAN và Trung Quốc đã lớn mạnh nhanh chóng
trong những năm vừa qua, đặc biệt là sau Hiệp định khung về Hợp tác Kinh tế toàn diện

ký tháng 11 năm 2002 nhằm thiết lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc
(ACFTA), với mục tiêu hiện thực hóa ACFTA vào năm 2010 đối với Brunei, Indonesia,
Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan và Trung Quốc, và vào 2015 đối với
Campuchia, Lào, Myanma và Việt Nam.
Hiệp định về thương mại hàng hóa và Thỏa thuận cơ chế giải quyết tranh chấp giữa
ASEAN và Trung Quốc ký tháng 11 năm 2004 tại Viêng Chăn. Hiệp định về thương mại
hàng hóa bắt đầu có hiệu lực từ tháng 7 năm 2005. Hiệp định thương mại dịch vụ được
ký bên lề Hội nghị thượng đỉnh lần thứ 10 ASEAN -Trung Quốc vào tháng 1 năm 2007
tại Cebu, Phillippines và có hiệu lực từ ngày 1/7/2007. Ủy ban Đàm phán thương mại
ASEAN-Trung Quốc (AC-TNC) đã hoàn tất thương lượng về Hiệp định đầu tư ASEAN-
Trung Quốc vào tháng 11 năm 2008, và ký kết hiệp định này trong khuôn khổ Hội nghị
các bộ trưởng kinh tế ASEAN lần thứ 41 vào tháng 8 năm 2009 tại Bangkok, Thái Lan.
Điều này đồng nghĩa với việc các tiến trình đàm phán giữa ASEAN-Trung Quốc về khu
vực mậu dịch tự do đã được hoàn tất theo như Hiệp định khung về Hợp tác Kinh tế toàn
diện giữa ASEAN và Trung Quốc đặt ra.
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc là một thỏa thuận thương mại khu vực
có ý nghĩa toàn cầu, xét về quy mô thương mại giữa hai bên chiếm 13,7% thương mại
toàn cầu và gần một nửa tổng kim ngạch thương mại của châu Á trong năm 2007.
Trung Quốc tiếp tục là đối tác thương mại lớn nhất của ASEAN từ năm 2009 tới nay.
Thương mại giữa ASEAN và Trung Quốc năm 2011 tăng 20.9% so với năm 2010 từ 232
tỷ USD năm 2010 lên tới 280,4 tỷ USD năm 2011 . Đến năm 2012, kim ngạch thương
mại hai chiều ASEAN – Trung Quốc đã đạt trên 400 tỷ USD, gấp 7,3 lần năm 2002.
Trung Quốc cũng đã duy trì vị trí của mình như là điểm đến xuất khẩu lớn thứ 2 của các
nước . ASEAN. Theo thống kê của ASEAN năm 2011, ASEAN xuất khẩu 145,7 tỷ USD
tăng 28,9% so với năm trước . Theo thống kê của Trung Quốc năm 2011, ASEAN hiện là
đối tác thương mại lớn thứ 3 của Trung Quốc .
Nhằm cải thiện cơ sở hạ tầng và thúc đẩy gắn kết giữa ASEAN và Trung Quốc, gần
đây Trung Quốc đã tuyên bố thành lập Quỹ Hợp tác Đầu tư ASEAN – Trung Quốc chi 10
tỷ USD cho các dự án hợp tác đầu tư lớn của ASEAN và Trung Quốc trong lĩnh vực cơ
sở hạ tầng, năng lượng và tài nguyên, công nghệ thông tin và truyền thông và một số lĩnh

vực khác.
Dòng vốn đầu tư từ Trung Quốc vào ASEAN cũng tăng lên qua các năm.
Theo thống kê của ASEAN, các dòng vốn đầu tư trực tiếp từ Trung Quốc vào ASEAN
năm 2011 tăng 117% so với năm 2010 từ 2.7 tỷ USD lên tới 5.9 tỷ USD. Tính luỹ kế tới
hết tháng 10/2012, tổng giá trị đầu tư Trung Quốc – ASEAN đạt 100 tỷ USD, trong đó 10
tháng đầu năm 2012 Trung Quốc đầu tư phi tài chính sang ASEAN đạt 3,6 tỷ USD tăng
31,2%.A SEAN đầu tư vào Trung Quốc cũng có quy mô mở rộng. Tính 10 tháng đầu
năm 2012, ASEAN đầu tư vào Trung Quốc 6,1 tỷ USD tăng 15,9%. Nếu tính luỹ kế đến
hết tháng 10/2012, ASEAN đã đầu tư vào Trung Quốc 76,1 tỷ USD chiếm 6% tổng giá
trị FDI tại Trung Quốc (vượt qua FDI của Hoa Kỳ đầu tư tại Trung Quốc)
ASEAN đã trở thành nền kinh tế lớn thứ 4 tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài của
Trung Quốc. Đầu tư của ASEAN sang Trung Quốc cũng vượt 80 tỷ USD, chiếm 6,6%
tổng kim ngạch thu hút đầu tư vốn nước ngoài của Trung Quốc, và trở thành nguồn đầu
tư nước ngoài lớn thứ 3 của Trung Quốc.
Các hội nghị tham vấn nhằm hoàn tất Biên bản ghi nhớ (MOU) sơ bộ về việc thành
lập trung tâm ASEAN-Trung Quốc đang được thực hiện. Các hội nghị tham vấn nhằm
đưa ra Biên bản ghi nhớ chính thức trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ và Các rào cản kỹ thuật
trong thương mại (TBT) cũng đang được tiến hành.
Khu vực tư nhân đóng vai trò quan trọng trong việc tăng cường các mối quan hệ kinh
tế giữa ASEAN và Trung Quốc. Hội chợ Trung Quốc-ASEAN (CAEXPO) nhằm giới
thiệu các sản phẩm của hai bên được tổ chức hàng năm tại Nam Ninh, Trung Quốc kể từ
năm 2004, với nhiều sản phẩm mới được giới thiệu mỗi năm bởi các doanh nghiệp từ hai
bên. Ngoài ra, Hội nghị Thương mại và Đầu tư ASEAN-Trung Quốc (CABIS), được tổ
chức tiếp nối với hội chợ CAEXPO hàng năm, là một cách thức hiệu quả để chính phủ và
khu vực tư nhân xích gần nhau hơn nhằm trao đổi quan điểm về các vấn đề ảnh hưởng
đến tình hình kinh tế và kinh doanh của các nước thành viên ASEAN và Trung Quốc.
Hội chợ Trung Quốc-ASEAN là một hội chợ quốc tế trọng thể được tổ chức hàng năm tại
thành phố Nam Ninh Quảng Tây Trung Quốc để giao lưu kinh tế thương mại do cơ quan
chủ quản kinh tế thương mại của chính phủ Trung Quốc và 10 nước ASEAN cùng với
Ban thư ký ASEAN đồng tổ chức, do chính quyền nhân dân Khu tự trị Dân tộc Choang

Quảng Tây thực hiện.Hội chợ đã được thành công tổ chức 9 năm,giành được thành tiệu to
lớn,trở thành một sân bằng quan trọng giao lưu hữu nghị,xúc tiến thương mại và hợp tác
đa lĩnh vực giữa Trung Quốc với các nước ASEAN.Năm 2013 là năm kỷ niệm thiết lập
10 năm mối quan hệ hợp tác chiến lược giữa Trung Quốc với ASEAN,cũng là năm Hội
chợ Trung Quốc-ASEAN được tổ chức tròn 10 năm.Dưới sự thúc đẩy của việc thiệt lập
khu mậu dịch tự do Trung Quốc-ASEAN,sự hợp tác song phương giữa Trung Quốc và
ASEAN trong lĩnh vực thương mại,đầu tư va phục vụ ngày càng được mở rông. Hội chợ
Trung Quốc-ASEAN lần thứ 10 sẽ dựa trên chủ đề"phát triển hợp tác khu vực-cơ hội
mới,động lực mới,giai đoạn mới" Thúc đẩy hơn nữa sự hợp tác giữa Trung Quốc và
ASEAN trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật cũng như các lĩnh vực khác
Biên bản ghi nhớ giữa ASEAN và Trung Quốc về Tăng cường hợp tác trong Các biện
pháp kiểm dịch động thực vật (SPS) được ký kết vào tháng 11 năm 2007 bên lề Hội nghị
thượng đỉnh ASEAN-Trung Quốc lần thứ 11 tại Singapore. Biên bản này được ký kêt
nhằm hỗ trợ cho việc thực thi ACFTA.
Quan hệ hợp tác giữa ASEAN và Trung Quốc trong lĩnh vực nông nghiệp đã phát
triển sâu rộng đánh dấu bởi biên bản ghi nhớ về hợp tác trong nông nghiệp năm 2002 tại
Phnom Penh. Biên bản ghi nhớ này thúc đẩy quan hệ hợp tác trực tiếp hơn trong lĩnh vực
nông nghiệp giữa các cơ quan có thẩm quyền quản lý nông nghiệp của các nước thành
viên ASEAN và Trung Quốc. Một Biên bản ghi nhớ ASEAN-Trung Quốc về hợp tác
trong nông nghiệp mở rộng trong giai đoạn 2007-2011 cũng được ký vào tháng 1 năm
2007 tại Cebu.
Hợp tác sâu rộng trong lĩnh vực giao thông giữa ASEAN và Trung Quốc được đánh
dấu bởi Biên bản ghi nhớ về Hợp tác trong Giao thông vận tải tháng 11 năm 2004 tại
Viêng Chăn. Qua biên bản ghi nhớ này, hai bên sẽ hỗ trợ hợp tác trung hạn và dài hạn
trong các lĩnh vực sau: i) xây dựng cơ sở hạ tầng cho giao thông; ii) hỗ trợ giao thông; iii)
an ninh và an toàn hàng hải; iv) giao thông đường hàng không; v) phát triển nguồn nhân
lực; và vi) trao đổi thông tin. Thỏa thuận về vận tải biển giữa ASEAN và Trung Quốc
(ACMTA) được ký tháng 11 năm 2007 tại Singapore. Hội nghị giữa các bộ trưởng giao
thông vận tải của ASEAN và Trung Quốc lần thứ 7 được tổ chức vào tháng 11 năm 2008
đã thống nhất về nguyên tắc với Kế hoạch chiến lược hợp tác Giao thông vận tải

ASEAN-Trung Quốc, trong đó nêu ra 90 dự án cơ sở hạ tầng giao thông vận tải nhằm
tăng cường và tạo điều kiện cho giao thông quốc tế và xuyên biên giới.
Du lịch là một trong những lĩnh vực hợp tác tiềm năng của ASEAN và Trung Quốc.
Quan hệ hợp tác trong lĩnh vực du lịch giữa ASEAN và Trung Quốc đã được tăng cường
và số lượng du khách luôn tăng ổn định. ASEAN và Trung Quốc tin tưởng rằng số lượng
khách du lịch sẽ tiếp tục tăng trưởng mạnh cùng với mối quan hệ được mở rộng trong
tương lai
Hợp tác về văn hóa xã hội
Về hợp tác văn hóa xã hội , một số hoạt động đã được thực hiện trong lĩnh vực y tế
công công , khoa học và công nghệ , giáo dục văn hóa , lao động và an sinh xã hội , trao
đổi giữa chính quyền địa phương và người dân, môi trường, phương tiện truyền thông,
xóa đói giảm nghèo.
Trong lĩnh vực y tế công cộng , ASEAN và Bộ trưởng bộ y tế Trung Quốc đã kí kết
biên bản ghi nhớ về hợp tác y tế tại Hội nghị bộ trưởng y tế ASEAN-Trung Quốc lần thứ
4 ngày 6/7/2012 tại Phuket, Thái Lan để thúc đẩy hợp tác y tế .
Năm 2012 được chỉ định là năm hợp tác khoa học và công nghệ giữa ASEAN và
Trung QUốc. Một loạt các hoạt động bao gồm các khóa đào tạo, hội thảo , hội nghị được
tổ chức tại Trung Quốc trong năm 2012 . Ngoài ra , Chương trình Hợp tác Khoa học và
Công nghệ ASEAN – Trung Quốc đã được chính thức ra mắt tại Hội nghị Bộ trưởng
ASEAN- Trung Quốc được tổ chức ngày 22/9 năm 2012
Trong lĩnh vực Công nghệ Thông tin và Truyền thông (ICT), ASEAN và Trung
Quốc vẫn liên tục tiến hành xúc tiến quan hệ đối tác chiến lược nhằm tăng cường hợp tác
quốc tế trong phát triển đầu tư và nguồn nhân lực ICT cũng như tìm hiểu triển vọng xây
dựng xa lộ thông tin tiểu vùng sông Mekong. Với mục đích này, hai bên đã hoàn tất hai
văn bản quan trọng là Biên bản ghi nhớ về hợp tác trong lĩnh vực Công nghệ Thông tin
và Truyền thông tháng 10 năm 2003 tại Bali và Tuyên bố Bắc Kinh về Hợp tác ASEAN-
Trung Quốc vì sự phát triển chung lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền thông, được
thông qua tháng 5 năm 2005 tại Bắc Kinh. Nhằm củng cố quá trình thực hiện tuyên bố
Bắc Kinh, hai bên đã thông qua kế hoạch hành động 2007-2012 tại hội nghị thượng đỉnh
ASEAN lần thứ 12 tổ chức vào tháng 1 năm 2007 tại Cebu.

Hợp tác ASEAN- Trung Quốc về môi trường đang phát triển mạnh mẽ. Trung tâm
hợp tác môi trường Trung Quốc –ASEAN (CAEC) đã chính thức được khánh thành
tháng 5 năm 2011 tại Bắc Kinh . Sau đó, một kế hoạch hành động hợp tác về môi trường
ASEAN- Trung QUốc đã được hoàn thiện và được thông qua năm 2011.
Tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN- Trung Quốc lần thứ 15 , các nhà lãnh đạo
ASEAN ghi nhận và đánh giá cao việc thành lập 10 trung tâm giáo dục và đào tạo
ASEAN-Trung QUốc tại 6 tỉnh của Trung Quốc , sẽ tiếp tục đóng góp vào nỗ lực xây
dựng cộng đồng ASEAN và phát huy tinh thần đoàn kết , phát triển và hợp tác trong khu
vực Đông Á cũng như hỗ trợ nỗ lực của ASEAN trong thúc đẩy phát triển nguồn nhân
lực kinh tế , xã hội, con người.
Chương 2:Các chính sách phát triển mối quan hệ với ASEAN của
Trung Quốc.
2.1. Các chính sách mà Trung Quốc đề ra để phát triển mối quan hệ với
ASEAN.
Vượt lên mọi trở ngại, quan hệ Trung Quốc - ASEAN đã và đang tiến triển tích cực.
Điều này xác nhận chính sách cân bằng đa nguyên cường quốc trong khu vực của
ASEAN vì nó phù hợp với mục tiêu tạo dựng một ASEAN thịnh vượng trong thế kỷ 21.
Đồng thời chứng tỏ Trung Quốc đang theo đuổi một chính sách ngoại giao thân thiện và
có niềm tin đối với các nước ASEAN. Thực tế cho thấy, từ giữa những năm 1990, Trung
Quốc và ASEAN đã có những bước phát triển ngoạn mục trong các quan hệ kinh tế,
chính trị và an ninh. Hai đối tác này đang chia sẻ các giá trị Châu Á. Đây chính là cơ sở
để Trung Quốc và ASEAN tiếp tục phát triển quan hệ song phương lên một tầm cao mới.
Chính sách trong chính trị -an ninh:
Như đã biết, Trung Quốc bắt đầu thiết lập quan hệ chính thức với ASEAN 6 vào năm
1991, đồng thời khôi phục quan hệ ngoại giao với Indonexia và bình thường hóa quan hệ
với Việt Nam và sau đó đã thiết lập quan hệ song phương với Singapo. Đây là sự thay đổi
có tính bước ngoặt trong nhận thức của Trung Quốc về ASEAN trong bối cảnh Chiến
tranh Lạnh kết thúc
Năm 1994, Trung Quốc tham gia diễn đàn khu vực ARF và trở thành một bên đối
thoại tích cực của ASEAN. Tháng 12-1997, trong cuộc gặp thượng đỉnh của Chủ tịch

Trung Quốc Giang Trạch Dân và các nguyên thủ các nước ASEAN tại Malaysia, hai bên
đã ra tuyên bố chung về thiết lập quan hệ láng giềng thân thiện và tin cây lẫn nhau hướng
tới thế kỷ 21. Điểm mốc quan trọng nhất đánh dấu sự thay đổi tính chất của mối quan hệ
này thông qua văn bản là việc Trung Quốc và ASEAN ký tuyên bố chung “đối tác chiến
lược vì hòa bình và thịnh vượng”, vào tháng 10-2003.

×