Tải bản đầy đủ (.doc) (46 trang)

Báo cáo tốt nghiệp Triết học Mác Lê Nin với tính cách là một hệ thống mở

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (270.47 KB, 46 trang )

Chương 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỆ THỐNG
1.1 Lý luận về hệ thống
1.1.1 Lịch sử hình thành khái niệm hệ thống
Trong thế giới không thể có các sự vật, hiện tượng tồn tại mà không có tham số
về tính hệ thống. Việc xem xét các sự vật, hiện tượng trong một chỉnh thể thống nhất,
trong tính hệ thống của nó là một nguyên tắc quan trọng từ xưa đến nay và nhất là
trong khoa học hiện đại. Ngày nay, khái niệm hệ thống được sử dụng phổ biến. Người
ta phân biệt hệ thống theo các hình thức, các loại hình của tồn tại, theo mối quan hệ
với vận động, theo trình độ, theo cơ cấu cũng như theo các thông số riêng lẻ…Tất cả
những quan niệm ấy đều thể hiện một cách đúng đắn về nguyên tắc mặt này hay mặt
khác của hiện thực và hoàn toàn có căn cứ phân tích các hình thức hệ thống này hay hệ
thống khác. Vì vậy, khái niệm hệ thống cũng khá bất định. Có quan điểm cho rằng nó
chỉ là khái niệm của các khoa học chuyên nghành, nhưng cũng có rất nhiều nhà nghiên
cứu khẳng định hệ thống là một trù triết học có nội dung vô cùng phong phú, có mối
quan hệ với các phạm trù khác và có giá trị to lớn trong hoạt động nhận thức và hoạt
động thực tiễn. Do đó, yêu cầu đặt ra là cần có một quan điểm có tính hệ thống về hệ
thống. Trong phạm vi khoá luận tốt nghiệp này tôi đề cập đến một số quan niệm về hệ
thống như sau:
Trong lịch sử triết học vấn đề hệ thống đã được nhiều nhà triết học đề cập đến, từ
Aritxtốt thời Hy Lạp cổ đại, đến Bêcơn, Đềcáctơ thời Tây Âu cận đại, tiếp đó là
Cantơ, Hêghen trong triết học cổ điển Đức…Nhưng chỉ đến khi triết học Mác ra đời
phạm trù hệ thống mới có được một cách nhìn biện chứng duy vật. Đặc biệt hiện nay,
hệ thống được coi là một phạm trù triết học có nội dung phong phú mang ý nghĩa
phương pháp luận trong nhận thức và hoạt động thực tiễn với tư cách là một nguyên
tắc của tư duy biện chứng.
Chính bởi các sự vật, hiện tượng trong thế giới hiện thực có sự ràng buộc, phụ
thuộc, quy định lẫn nhau nên đã hình thành quan niệm về tổng thể để chỉ một tập hợp
nhất định. Cái tổng thể ấy được cụ thể hoá trong triết học Aritxtốt với tính cách là
giống, loại, ở Êpiquia là sự tồn tại của các khách thể cần phải được xem xét trong quá
trình nhận thức. Trong những thế kỷ tiếp theo, các nhà triết học và khoa học tự nhiên


4
đã sử dụng khái niệm hệ thống để chỉ tổng số các tri thức và tổng số các vật thể của
thế giới hiện thực. Chẳng hạn, Hônbách khẳng định: “Thế giới khách quan tồn tại với
tính cách là hệ thống của các hệ thống”. Nhưng ông đã đồng nhất hệ thống với cái
toàn thể coi nó là tổng số đơn giản của các bộ phận cấu thành. Ở thời kỳ Khai Sáng,
các nhà triết học đã cố gắng tìm hiểu nội dung và ý nghĩa khoa học của khái niệm hệ
thống, tiêu biểu là Côngđiđắc. Ông đã gắn khái niệm hệ thống với khoa học và nghệ
thuật cùng những điểm tiến bộ hơn thời cổ đại. Song, nó vẫn nằm trong khuôn khổ
cách tiếp cận siêu hình về hệ thống. Mặc dù vậy, việc ông giải thích hệ thống như một
trật tự, sự thống nhất của tồn tại ở phương diện bản thể luận được coi là phôi thai của
quan điểm duy vật đúng đắn về khái niệm hệ thống sau này.
Cùng với việc khoa học tự nhiên ngày càng đi sâu vào cấu trúc của thế giới vật
chất và mở rộng phạm vi nghiên cứu của nó, trong triết học cũng xuất hiện quan điểm
cho rằng, vũ trụ là một hệ thống biến đổi và phát triển không ngừng tuân theo các quy
luật vốn có của nó. Hai tác phẩm: “Lịch sử tự nhiên đại cương và học thuyết về bầu
trời” và “Giả thuyết về nguồn gốc vũ trụ” của I.Cantơ là những bước đi đầu tiên chứng
minh cho khuynh hướng đó. Với quan điểm này I.Cantơ đã giáng một đòn mạnh mẽ
vào tư duy siêu hình về vấn đề hệ thống, bởi tư duy siêu hình chỉ xem xét hệ thống
trong trạng thái tĩnh, tách rời mâu thuẫn, tách rời sự vận động, phát triển. Cũng từ đây
triết học đặt ra các vấn đề mối quan hệ qua lại, mâu thuẫn, vận động, phát triển là
những nhân tố quan trọng nhằm khám phá tính chất biện chứng của hệ thống.
Tư tưởng hệ thống được phát triển và hoàn thiện hơn trong triết học Hêghen. Tuy
ở đây hệ thống chưa được xem xét với tính cách là một phạm trù triết học, nhưng tất cả
mọi đối tượng mà ông đề cập đến đều thể hiện đó là một hệ thống tự phát triển và tất
cả đều được xuyên suốt bởi tư tưởng phát triển. Hêghen viết, ý niệm tự nó là cụ thể, là
phát triển, là một hệ thống hữu cơ, là một chỉnh thể chứa các yếu tố. Tất cả đều mang
tính hệ thống, thế giới là thế giới của các hệ thống. Hêghen khẳng định cần phải
nghiên cứu thế giới như hệ thống các nấc thang mà nấc thang này được suy diễn từ nấc
thang khác. Song ở đây, không có quá trình sản sinh vật lý tự nhiên, mà chỉ là sự sản
sinh trong lòng ý niệm và ý niệm ấy tạo ra cơ sở của giới tự nhiên.

Như vậy, Hêghen đã khẳng định tính hệ thống của hiện thực, nhưng hiện thực ấy
chỉ là là hệ thống những nấc thang khác nhau của ý niệm vận động. Mặc dù, Hêghen
không chú ý đến việc định nghĩa khái niệm “hệ thống”, chỉ ra vị trí, vai trò của nó
5
trong mối quan hệ với các phạm trù khác của triết học, nhưng ông đã đòi hỏi quá trình
nhận thức của con người cũng phải mang tính hệ thống. Hêghen từng viết bất kỳ sự
nghiên cứu khoa học nào cũng đều mang tính hệ thống, bởi vì hình thức chân lý chỉ có
thể là hệ thống của các chân lý khoa học.
Phép biện chứng của Hêghen là phép biện chứng của hệ thống các ý niệm, mặc
dù đó là “phép biện chứng lộn ngược”, nhưng nó đúng về phương pháp. Nó đòi hỏi
logic của mọi nghiên cứu phải mang tính hệ thống, “triết lý mà không có hệ thống thì
không thể chứa đựng một tính khoa học nào”. Nếu bỏ qua bức màn duy tâm, thần bí
thì Hêghen đã để lại một kho tàng các giá trị tinh thần vô cùng quý báu cho nhân loại.
Phương pháp nghiên cứu các hệ thống của Hêghen đã được C.Mác và Ph.Ăngghen
tiếp thu, cải tạo và phát triển theo lập trường duy vật của mình. Các nhà kinh điển của
chủ nghĩa Mác không để lại cho chúng ta những định nghĩa trực tiếp về “hệ thống”,
nhưng trong tác phẩm của các ông chúng ta đều thấy rõ hệ thống với tính cách là một
phạm trù triết học.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã là người đầu tiên đứng trên lập trường duy vật biện
chứng để nghiên cứu một trong các hệ thống phức tạp - xã hội loài người. Theo C.Mác
xã hội là một hệ thống tự phát triển, trải qua các giai đoạn khác nhau và các giai đoạn
đó được gọi là các hình thái kinh tế xã hội. C.Mác đã nghiên cứu hình thái kinh tế - xã
hội tư bản chủ nghĩa với tư cách là một hệ thống rất phức tạp, được hình thành từ
nhiều yếu tố và các hệ thống con trong sự tác động qua lại giữa chúng, với những mâu
thuẫn nội tại đa dạng và sâu sắc. Trong các tác phẩm chuẩn bị cho sự ra đời của bộ
“Tư bản”, C.Mác đã chỉ ra rằng hình thức, kết cấu nội tại, tương đồng với tính hệ
thống là một thuộc tính đặc trưng cho tất cả mọi sự vật, hiện tượng, quá trình của giới
tự nhiên cũng như đời sống xã hội. Ông viết: “Xã hội ngày nay không phải là một khối
kết tinh vững chắc, mà nó là một cơ thể có khả năng biến đổi và luôn luôn ở trong quá
trình biến đổi” [8; tr.22]. Hơn nữa trong “Bản thảo kinh tế - triết học 1857 - 1859”

C.Mác viết: “… bản thân hệ thống hữu cơ ấy với tính cách là một tổng thể cũng có
những tiền đề của mình và sự phát triển của nó nhằm trở thành một chỉnh thể là ở chỗ
nó bắt tất cả các yếu tố xã hội phục tùng mình hoặc từ xã hội đó tạo ra những cơ quan
mà nó chưa có. Bằng con đường đó, trong quá trình phát triển lịch sử hệ thống biến
thành cái chỉnh thể, sẽ tại ra yếu tố của nó, tạo ra hệ thống, quá trình, sự phát triển
của nó” [7; tr.380].
6
Điều đó cho thấy, C.Mác đã xác định dấu hiệu biện chứng khách quan của hệ
thống, vạch ra động lực bên trong của sự vận động, phát triển, chỉ ra những tiền đề,
quy luật của sự phát triển khách quan ấy. C.Mác viết tiếp: “Về mặt lịch sử, mỗi hệ
thống cụ thể được quy định bằng những hệ thống khác, chúng thiết lập nên cơ sở của
sự phát triển, rằng mỗi yếu tố của hệ thống phụ thuộc vào những yếu tố khác, vào các
chỉnh thể được xác lập, còn mối liên hệ qua lại giữa các yếu tố được xem như động
lực bên trong sự phát triển của toàn bộ hệ thống” [7; tr.332-333]. Vấn đề hệ thống
cũng được thể hiện rõ nét ở quan điểm của Ph.Ăngghen. Trong tác phẩm “Biện chứng
của tự nhiên”, ông đã xác định khái niệm “hệ thống” khi coi giới tự nhiên là một hệ
thống. Ph.Ăngghen viết: “Tất cả giới tự nhiên mà chúng ta có thể nghiên cứu được là
một hệ thống, một tập hợp các vật thể khăng khít với nhau, nhưng ở đây, chúng ta hiểu
vật thể là tất cả những thực tại vật chất, từ tinh tú đến nguyên tử, cho đến cả những
hạt ête, nếu chúng ta thừa nhận sự tồn tại của hạt ête” [13; tr.520]. Như vậy, bản chất
của hệ thống theo Ph.Ăngghen, trước tiên là mối quan hệ qua lại của các vật thể trong
toàn bộ vũ trụ từ vi mô đến vĩ mô. Khi xác định đặc trưng của hệ thống, ông đã nêu
lên hai dấu hiệu cơ bản quyết định sự phát triển và tồn tại của hệ thống: Một là, mối
liên hệ giữa các vật thể, hai là, tính giới hạn của các vật thể đó. Chính các dấu hiệu đặc
trưng ấy làm cho hệ thống tồn tại với tính cách một chỉnh thể thống nhất có tính xác
định về chất.
Tiếp tục công việc của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã nghiên cứu chủ
nghĩa tư bản với tính cách là một hệ thống mà giai đoạn phát triển cao của nó là chủ
nghĩa đế quốc. Như vậy hệ thống cho dù ở bất kỳ lĩnh vực nào cũng có quy luật phát
triển khách quan của nó. Hệ thống như một cơ thể có cấu trúc, tính chỉnh thể nhất định

và đặc biệt biểu hiện rất phức tạp trong đời sống xã hội. Vì vậy để nghiên cứu bản chất
của các hệ thống xã hội V.I.Lênin yêu cầu phải xuất phát từ phương diện lịch sử và
bản thân quá trình nghiên cứu cũng thể hiện là một hệ thống chỉnh thể các tri thức.
Từ những quan điểm trên đây có thể nói rằng, tính hệ thống trong triết học Mác,
là một logic phát triển tất yếu trong sự phát triển biện chứng của sự vật, hiện tượng. Và
cũng có thể nói rằng việc tiếp nhận quan điểm về tính hệ thống của thế giới không có
gì khác hơn là thừa nhận tính biện chứng của chúng, thừa nhận những yếu tố, những
năng lực nội tại và cội nguồn sự tự vận động của bản thân hệ thống.
7
1.1.2 Khái niệm và đặc trưng của hệ thống
Khái niệm hệ thống đã được nghiên cứu trong suốt tiến trình phát triển của lịch
sử tư tưởng triết học, gắn liền với sự phát triển thế giới quan triết học, phù hợp với sự
tiến bộ của khoa học và thực tiễn xã hội. Các nhà triết học trước C.Mác đã đạt được
những kết quả nhất định trong việc nghiên cứu vấn đề hệ thống khi xác định nội dung,
ý nghĩa của khái niệm “hệ thống”. Mặc dù còn có những hạn chế nhất định, song nó đã
góp phần quan trọng vào việc làm phong phú thêm đối tượng nghiên cứu của triết học,
làm cho tư duy triết học phát triển lên những trình độ cao hơn. Trên cơ sở kế thừa có
phê phán những tư tưởng mà lịch sử triết học đã tạo ra, C.Mác, Ph.Ăngghen và
V.I.Lênin đã phát triển khái niệm “hệ thống” lên một đỉnh cao mới. Tạo nên một cơ sở
khoa học vững vàng cho sự nghiên cứu và phát triển vấn đề hệ thống sau này.
Với những thành tựu có tính chất thời đại của khoa học mà ở đó, thế giới bao
quanh chúng ta được quan niệm là thế giới nhiều hệ thống, cả về mặt cấu trúc lẫn
nguồn gốc lịch sử. Bên cạnh đó, các bộ phận riêng lẻ, các lĩnh vực, các yếu tố của nó
cũng là nhiều hệ thống khác nhau. Trong mỗi hệ thống nó vận động phù hợp với
những quy luật chung của thế giới vật chất và những quy luật đặc trưng của mình. Do
đó mà trong giai đoạn hiện nay, nhiều nhà triết học và khoa học ở các lĩnh vực khác
nhau đã tập trung nghiên cứu các khách thể với tính cách là một hệ thống và thậm chí
là các phức hợp hệ thống nhằm tìm ra bản chất và quy luật vận động, phát triển của
chúng. Khái niệm “hệ thống” đang được sử dụng rất rộng rãi và nó đã trở thành biểu
tượng có tính khoa học và tính logic để tiếp nhận chân lý. Hơn thế nữa, khái niệm “hệ

thống” đã trở thành một phạm trù triết học mang ý nghĩa phương pháp luận thông qua
việc áp dụng phương pháp hệ thống hiện đã trở thành phổ biến trong nhận thức và hoạt
động thực tiễn.
Vậy, “hệ thống” được hiểu là tập hợp các yếu tố bằng cách này hay cách khác,
liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau. Và được làm rõ qua một số định nghĩa sau:
“Hệ thống tức là một tổng thể gồm nhiều yếu tố, bộ phận quan hệ tương tác với
nhau và với môi trường xung quanh một cách phức tạp” [32; tr.4].
“Hệ thống là một tập hợp các yếu tố có tính độc lập tương đối và có sự liên hệ,
tác động qua lại lẫn nhau tạo thành chỉnh thể thống nhất” (Bộ giáo dục đào tạo, triết
học, 1997; tr.94).
8
“Hệ thống là một tập hợp các yếu tố tương quan lẫn nhau tạo thành cấu trúc và
tổ chức” [Nhập môn triết học-phần II, 1989; tr.124] và [22; tr.295-296].
“Hệ thống là một tập hợp những yếu tố liên hệ với nhau tạo thành sự thống nhất ổn
định và tính chỉnh thể có những thuộc tính và những quy luật tổng hợp” [22; tr.20].
Trên cơ sở những khái niệm được đề cập ta có những đặc trưng cơ bản sau của hệ
thống:
Một là, mọi khách thể (sự vật, hiện tượng, quá trình) tồn tại trong thế giới đều được
coi như những hệ thống. Mà trong đó, mỗi khách thể hệ thống là một tập hợp gồm nhiều
yếu tố có mối quan hệ, liên hệ với nhau và với môi trường xung quanh tạo nên một trật tự,
tổ chức nhất định, có cấu trúc ổn định và luôn thực hiện những chức năng xác định nhằm
duy trì sự tồn tại và phát triển của chính mình. Sự tác động qua lại giữa các yếu tố
trong hệ thống tạo nên thuộc tính tổng hợp - tính chỉnh thể - đặc trưng cho hệ thống.
Trong đó, cái toàn thể bao giờ cũng lớn hơn tổng số các bộ phận hay yếu tố cấu thành.
Như vậy, đặc trưng cơ bản của hệ thống là tính tổng thể, nó là kết quả của sự liên kết,
tác động qua lại giữa các bộ phận để tạo nên sự thống nhất, bền vững, ổn định của hệ
thống, giúp phân biệt cái toàn thể này với cái toàn thể khác.
Hai là, bản thân mỗi khách thể hệ thống vừa là một hệ thống vừa là một yếu tố
hay bộ phận của một hệ thống khác lớn hơn. Mỗi yếu tố vừa là yếu tố đồng thời vừa là
hệ thống của các yếu tố khác có cấp độ hẹp hơn. Trong thế giới tồn tại tính xếp cấp

của hệ thống, khái niệm khách thể là hệ thống hay là yếu tố chỉ mang tính tương đồng.
Ba là, khi khách thể là hệ thống đã được xác định, sự tác động qua lại giữa các
yếu tố với nhau hay với môi trường tạo nên cội nguồn của mọi sự biến dạng, thay đổi
của khách thể hệ thống theo xu hướng nhất định tạo nên tính hướng đích của hệ thống.
Làm cho trật tự, tổ chức của hệ thống không ngừng được đổi mới, khách thể của hệ
thống không ngừng tiến lên.
Bốn là, yếu tố của hệ thống - là đơn vị trong thành phần của hệ thống, một thực
tại tương đối bền vững được xác định về mặt chất lượng, nằm trong mối liên hệ qua lại
với các thực tại khác và cùng với chúng hình thành nên một hệ thống chỉnh thể. Được
phản ánh rõ nét trong khái niệm “cấu trúc” - là hệ thống các mối liên hệ tương đối bền
vững giữa các yếu tố cấu thành nên hệ thống và nó xác định đặc trưng về chất của hệ
thống với tính cách là một chỉnh thể.
9
Năm là, chức năng của hệ thống - là sự tác động qua lại lẫn nhau của các yếu tố
của hệ thống này với hệ thống khác, nhằm đảm bảo cho sự tồn tại bền vững của hệ
thống, cũng cố, duy trì tính chỉnh thể của hệ thống, đảm bảo cho sự hoạt động và tiếp
tục phát triển của hệ thống.
Trong hệ thống chính sự vận động của các yếu tố, cấu trúc đã quy định sự phát
triển của khách thể hệ thống, làm cho chúng ngày càng được mở rộng, hoàn thiện hơn
trước sự thay đổi của các điều kiện hiện thực. Không chỉ thế nó còn làm cho các mặt,
các đặc điểm, tính chất của khách thể hệ thống không ngừng được tăng lên và thể hiện
một cách phong phú, đa dạng. Chúng ta còn thấy được một vai trò to lớn của hệ thống
là nó phản ánh tính chất phức tạp ngày một tăng lên của tri thức về sự vật, hiện tượng
và các quá trình trong thế giới hiện thực theo những quy luật phức hợp của mình. Tóm
lại, tính hệ thống là một trong những nguyên tắc tồn tại cơ bản của hiện thực, trong thế
giới không thể có các sự vật, hiện tượng tồn tại không có tham số về tính hệ thống.
Triết học Mác chứng minh một cách khoa học rằng, các khách thể của thế giới rất đa
dạng và phức tạp, chúng là các hệ thống hay các phức hợp hệ thống. Vì vậy, trong
nhận thức và hoạt động thực tiễn không thể không chú ý đến nguyên lý tính hệ thống.
Như vậy, trên cơ sở tìm hiểu các khái niệm và đặc trưng của hệ thống ta có thể

hiểu: Hệ thống - là một tổng thể có tổ chức nội tại, mà trong đó các yếu tố, cấu trúc có
sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau tạo nên một chỉnh thể có những thuộc tính, những
quy luật tổng hợp và biểu hiện trong mối quan hệ với môi trường xung quanh như một
chỉnh thể thống nhất.
Trên cơ sở xem xét khái niệm và nội dung phạm trù hệ thống, với đề tài này
người viết tiếp tục làm rõ “hệ thống mở” là như thế nào.
1.1.3 Hệ thống mở (Open systems internection)
Hệ thống với tư cách là một phương thức tồn tại cụ thể của hiện thực, nó luôn
nằm trong quá trình vận động, biến đổi và phát triển không ngừng. Trong từng hệ
thống luôn luôn diễn ra những biến đổi đa dạng, những quá trình chuyển hoá vô tận
của các yếu tố cấu thành. Có nguồn gốc sâu xa từ các mối liên hệ, tác động qua lại lẫn
nhau giữa các yếu tố, giữa hệ thống với môi trường, mà trước hết là bởi sự thống nhất
và đấu tranh của các mặt đối lập bên trong hệ thống. Ngay chính bản thân mỗi hệ
thống cũng luôn luôn nằm trong sự vận động, biến đổi và phát triển liên tục nhằm tạo
nên những mắt khâu trong chuỗi vô tận của thế giới. Chính vì vậy mà trong bất kỳ hệ
10
thống nào cũng đều mang tính mở của nó. Các yếu tố, cấu trúc của hệ thống mở luôn
được mở rộng, hoàn thiện và phát triển theo khuynh hướng của những quy luật đã có
sẵn trên cơ sở có sự kế thừa và phát triển cao hơn, phù hợp hơn với sự vận động của
hiện thực. Trong hệ thống mở không có yếu tố nào cùng tận, trong mối liên hệ này nó
là hệ thống nhưng trong mối liên hệ khác nó lại là yếu tố. Như vậy, một hệ thống mở
luôn luôn đối lập với một hệ thống đóng bởi các yếu tố, cấu trúc tri thức cấu thành hệ
thống đóng luôn khép kín, bất biến và không còn khả năng được tiếp tục mở rộng,
hoàn thiện và phát triển.
Hiểu hệ thống với tính cách mở của nó sẽ mang lại ý nghĩa to lớn trong việc xem
xét các yếu tố, cấu trúc của một chỉnh thể hệ thống nào là mở hay đóng và có khả năng
hoàn thiện, phát triển nữa hay không. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, khi cuộc cách
mạng khoa học - kĩ thuật và công nghệ đang phát triển mạnh mẽ thì nhu cầu mở rộng
thông tin và đa dạng hoá các tri thức khoa học đã mang lại một bức tranh chung về thế
giới vô cùng phong phú và phức tạp. Làm cho việc xem xét các hệ thống với tính cách

là một hệ thống mở trở nên vô cùng cần thiết và bức bách.
1.2 Hệ thống triết học
Có nhiều cách tiếp cận và phân chia hệ thống triết học, như cách phân chia theo
đồng đại và lịch đại, cách phân chia theo trình độ phát triển của triết học, theo các
trường phái triết học…Để làm rõ vấn đề hệ thống triết học người viết khóa luận đã
chọn cách phân chia theo cấu trúc triết học.
Để tồn tại loài người phải thích nghi với môi trường sống của mình nhưng con
người không thích nghi với thế giới bên ngoài một cách thụ động, mà luôn tìm cách
biến đổi thế giới theo những yêu cầu cuộc sống của mình. Muốn vậy, con người phải
hiểu biết thế giới xung quanh cũng như về chính bản thân con người. Thúc đẩy triết
học ra đời như một sự giải quyết mâu thuẫn giữa bức tranh huyền thoại về thế giới,
được xây dựng dựa trên trí tưởng tượng với nhận thức và tư duy mới, như sự phổ biến
tư duy từ diện hẹp ra diện rộng, từ tản mạn đến hệ thống. Khi nhận thức thế giới xung
quanh vượt lên trên những suy nghĩ thường nhật, con người vươn tâm hồn mình lên
suy nghĩ thêm những vấn đề về thế giới, về cuộc sống ở những khía cạnh sâu sắc hơn,
toàn diện hơn. Với việc tìm kiếm câu trả lời cho hàng loạt câu hỏi về bản thể luận như:
thế giới này là gì? Điều gì đang diễn ra trong thế giới này? Bản chất thế giới này ở
đâu? Thế giới được hình thành và biến đổi ra sao? Quy luật nào chi phối sự vận động
11
thế giới này? Và những câu hỏi về nhận thức luận như: con người có khả năng nhận
thức được thế giới này hay không? Mối quan hệ của con người với thế giới này ra sao?
Cùng với những câu hỏi về lý luận học như: ta nên sống vì cái gì? Làm thế nào để
được sống hạnh phúc? mỗi thành quả của kinh nghiệm xã hội, mỗi mốc đánh dấu sự
tiến bộ trong lịch sử khoa học đều mở ra trước lý tính triết học những giới hạn hiện
thực mà trước đó chưa được biết đến, tạo khả năng phát hiện ngày càng nhiều luận cứ
quan trọng trong mỗi hệ thống triết học. Với những quan điểm đầu tiên thường mang
tính chất ngây thơ, chất phác, kém khoa học được thể hiện rõ nét trong hệ thống triết
học Hy Lạp cổ đại. Cùng quá trình phát triển của lịch sử, những tri thức cụ thể của con
người về thế giới ngày càng tăng lên, các lý thuyết trở nên phức tạp hơn, các nhà triết
học cố gắng xây dựng từ những tài liệu tích lũy được, một bức tranh về thế giới hoàn

chỉnh và trọn vẹn. Tạo nên những hệ thống triết học có đầy đủ những cấu trúc về thế
giới quan, nhận thức luận và nhân sinh quan.
Triết học cung cấp câu trả lời tốt nhất cho các vấn đề cơ bản của thế giới quan.
Bởi triết học không chỉ đứng bên ngoài để xem xét thế giới mà con đi sâu nghiên cứu
thế giới bên trong con người và xã hội nhân loại. Mối quan hệ giữa con người và thế
giới, tư duy và tồn tại, chủ thể và khách thể…nhằm tìm tòi bản tính khách quan và quy
luật phổ biến của thế giới. Từ đó xem xét, nghiên cứu và nhận thức thế giới, nhận thức
khả năng, con đường và phương pháp phổ biến để cải tạo thế giới. Xác định nên thế
giới quan - là toàn bộ những quan niệm, quan điểm của con người về thế giới xung
quanh, về bản thân con người, về cuộc sống và về vị trí của con người trong thế giới.
Thế giới quan triết học với hệ thống lý luận được thể hiện thông qua hệ thống các khái
niệm, phạm trù, quy luật. Nó không chỉ nêu lên những quan niệm, quan điểm của con
người về thế giới, về bản thân con người mà còn chứng minh tính xác thực, khoa học
của những tri thức đó. Thế giới quan triết học chỉ hình thành khi nhận thức của con
người đã đạt đến trình độ cao của sự khái quát hoá, trừu tượng hoá và khi các lực
lượng xã hội đã có ý thức về sự cần thiết phải có những định hướng tư tưởng để chỉ
đạo cuộc sống. Phân biệt thế giới quan triết học với thế giới quan khác C.Mác viết:
“các vị hướng về tình cảm, triết học hướng về lý trí; các vị nguyền rủa, than vãn, triết
học dạy bảo; các vị hứa hẹn thiên đường và toàn bộ thế giới, triết học không hứa hẹn
gì cả ngoài chân lý; các vị đòi hỏi tin tưởng tín ngưỡng của các vị, triết học đòi hỏi
kiểm nghiệm những điều hoài nghi; các vị doạ dẫm, triết học an ủi ”[10; tr.159].
12
Với phương thức tư duy đặc thù của mình, triết học tạo nên hệ thống triết học
bao gồm những quan niệm chung nhất về thế giới theo một tiền đề hay một chỉnh thể,
trong đó có con người và mối quan hệ của nó với thế giới xung quanh. Xây dựng nên
thế giới quan đúng đắn là tiền đề hình thành nhân sinh quan tích cực, tiến bộ. Với tư
cách là hạt nhân lý luận của thế giới quan, triết học đóng vai trò định hướng cho quá
trình củng cố và phát triển thế giới quan của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng trong lịch sử.
Có mối quan hệ chặt chẽ với thế giới quan là vấn đề nhận thức luận, nó nghiên
cứu bản chất, mối liên hệ qua lại giữa chủ thể với khách thể trong quá trình hoạt động

nhận thức, quan hệ tri thức đối với hiện thực, khả năng nhận thức thế giới của con
người, tiêu chuẩn của chân lý và tính đáng tin của tri thức. Bất cứ lý luận triết học nào
khi lý giải về thế giới xung quanh và bản thân con người cũng đồng thời thể hiện một
phương pháp luận nhất định - là hệ thống các quan điểm, các nguyên tắc chỉ đạo con
người tìm tòi, xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương pháp trong nhận thức và
hoạt động thực tiễn.
Từ thế giới quan và phương pháp luận đúng đắn sẽ hình thành nên một nhân sinh
quan phù hợp. Tạo nên ở mỗi cá nhân, mỗi tập đoàn, mỗi giai cấp một lẻ sống, lý
tưởng sống phù hợp, hình thành nên những nguyên tắc và tiêu chuẩn đạo đức giúp
định hướng, điều chỉnh mối quan hệ và hành vi của con người.
Thông qua những vấn đề nêu trên cho phép ta khẳng định triết học với tính cách
là một khoa học độc lập, nó thể hiện mình là một hệ thống với đầy đủ cấu trúc và yếu
tố liên quan chặt chẽ với nhau. Bao gồm các khái niệm, nguyên lý, quy luật…tạo nên
tổng thể các hình thức logic liên quan mật thiết với nhau, cái này được rút ra từ cái kia,
cái này là sự cụ thể hoá của những cái khác.
Như vậy, hệ thống triết học - là hệ thống các quan điểm, quan niệm của con
người về tự nhiên, xã hội và về chính con người. Trên phương diện cấu trúc nó được
xếp thành hệ thống lý luận chặt chẽ có mối quan hệ và chi phối lẫn nhau. Hệ thống
triết học khác với các hệ thống khác ở chỗ:
Thứ nhất: nó là hệ thống tri thức mang tính khái quát hoá và trừu tượng hoá cao.
Thứ hai: triết học nắm lấy cái vĩ mô của thế giới bao gồm tự nhiên, xã hội và tư
duy con người.
Thứ ba: mọi hệ thống triết học đều không thể thoát ly khoa học tự nhiên và khoa
học xã hội, không thể thoát ly hiện thực cuộc sống. Bởi chỉ có thể thông qua những tri
13
thức này hệ thống triết học mới có thể tiến hành phương thức khái quát, tổng kết, nắm
bắt bản chất thế giới và nêu lên các quy luật chung.
Thứ tư: hệ thống triết học nghiên cứu thế giới bằng phương pháp của riêng mình
với những khoa học cụ thể bằng cách tổng kết toàn bộ lịch sử của khoa học và của bản
thân tư tưởng triết học.

Thứ năm: hệ thống triết học là thế giới quan, phương pháp luận cụ thể trong việc
đánh giá các thành tựu đạt được, cũng như vạch ra phương hướng, phương pháp
nghiên cứu khoa học cụ thể.
Thứ sáu: mỗi quan điểm trong triết học đồng thời là một nguyên tắc phương pháp
luận, là lý luận về phương pháp.
Thứ bảy: hệ thống triết học đóng vai trò định hướng cho con người trong quá
trình tìm tòi, xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương pháp trong nhận thức và
hoạt động thực tiễn.
Như vậy, khi thuật ngữ triết học được sử dụng là khi con người xác định phải
xem xét, nghiên cứu những tư tưởng, quan điểm…trong hệ thống nội tại của chúng.
1.3 Hệ thống triết học Mác
Những năm 40 của thế kỷ XIX được đánh dấu bằng cuộc cách mạng vĩ đại mang
tính chất bước ngoặt trong lịch sử tư tưởng thế giới, với sự ra đời của hệ thống triết
học Mác. Như bất kỳ một học thuyết triết học nào, triết học Mác thể hiện mình là một
hệ thống chặt chẽ với đầy đủ các yếu tố, cấu trúc tạo thành một chỉnh thể bao gồm các
nguyên lý, quy luật, phạm trù, các khái niệm, phán đoán và suy luận…triết học Mác
được xây dựng trên cơ sở kế thừa toàn bộ tinh hoa tinh thần nhân loại, với tính hệ
thống được thể hiện ở bình diện thế giới quan, nhận thức luận và nhân sinh quan. Có
thể nói triết học Mác là một vòng khâu trong chuỗi các vòng khâu kế tiếp nhau qua các
thời đại. Với sự mở rộng không ngừng tri thức triết học trong mối quan hệ với hoạt
động thực tiễn với khoa học và trình độ nhận thức chung. Chủ nghĩa Mác thể hiện
mình qua ba bộ phận cấu thành là triết học, kinh tế chính trị và chủ nghĩa xã hội khoa
học. Trong đó, triết học đóng vai trò là hạt nhân thế giới quan. Sự ra đời của triết học
Mác được đặt trên nền tảng của tư duy lý luận nhân loại, của khoa học tự nhiên và
thực tiễn. Mối liên hệ ấy thể hiện rất rõ ràng cơ sở xã hội và mang lại cho triết học tính
hệ thống.
14
Triết học Mác là thế giới quan duy vật biện chứng bởi nó chỉ ra việc lấy hoạt
động khoa học và thực tiễn của nhân loại làm căn cứ, khắc họa bức tranh toàn cảnh
triết học về toàn bộ thế giới vật chất. Chính thế giới quan duy vật biện chứng đó đã

phản ánh đầy đủ hiện thực khách quan, đem đến một cái nhìn mới mẻ về con người,
khẳng định vị thế con người là chủ thể sáng tạo ra lịch sử xã hội. Nó không chỉ là
phương thức định hướng con người trong thế giới, phương thức cải tạo hiện thực mà
con là phương thức con người tự ý thức về bản thân mình.
Trong hệ thống triết học Mác, phép biện chứng duy vật đóng vai trò là học thuyết
triết học về nhận thức, đóng vai logic và lý luận nhận thức phản ánh tính quy luật phổ
biến của thế giới khách quan. Do đó, triết học cũng là hình thức phổ biến của tư duy
nhận thức. Bởi nhận thức luận của triết học Mác còn đóng vai trò là kết quả, tổng số,
kết luận của lịch sử nhận thức luận. Trong học thuyết của triết học Mác các vấn đề về
nhận thức luận mang đặc thù là bản chất mối quan hệ nhận thức của con người với thế
giới.
Với sự định hướng khoa học của thế giới quan và công cụ vĩ đại là phép biện
chứng duy vật trong việc nhận thức và cải tạo thế giới, triết học Mác đã hình thành nên
nhân sinh quan đúng đắn cho con người. Được thể hiện rõ nét và toàn diện trong chủ
nghĩa nhân văn Mácxít khi xem con người là điểm xuất phát và việc giải phóng con
người là mục đích cuối cùng. Khác với chủ nghĩa nhân văn trừu tượng, chủ nghĩa nhân
văn không tưởng về cả nội dung và phương thức biến khả năng thành hiện thực, biến ý
tưởng giải phóng thành lý luận khoa học về sự giải phóng. Đã làm cho triết học Mác
ngay từ khi ra đời đã thâm nhập vào các phong trào quần chúng, tạo nên một học
thuyết có ảnh hưởng sâu sắc trong thế giới đương đại.
Như vậy, hệ thống triết học Mác là toàn bộ các quan điểm, quan niệm giúp con
người nhận thức và cải tạo thế giới. Về mặt cấu trúc nó đảm bảo sự thống nhất và tác
động qua lại giữa thế giới quan, nhận thức luận và nhân sinh quan. Tạo nên sự khác
biệt của hệ thống triết học Mác với các hệ thống khác ở những điểm sau:
Thứ nhất: mọi sự phát triển của khoa học tự nhiên đều được triết học Mác xem là
những chất liệu sống quý giá để luận chứng cho các quan điểm trong hệ thống của
mình. Đồng thời nó đóng vai trò to lớn đối với sự phát triển của khoa học hiện đại khi:
chủ nghĩa duy vật biện chứng là thế giới quan và phương pháp luận thật sự khoa học
15
để các khoa học cụ thể đánh giá những thành tựu đã đạt được cũng như xác định đúng

đắn phương hướng và phương pháp trong nghiên cứu.
Thứ hai: triết học Mác đưa vào trong hệ thống của mình quan điểm thực tiễn với
vai trò là cở sở, là động lực, mục đích của nhận thức và tiêu chuẩn của chân lý, cùng ý
nghĩa thực tiễn cao nhất của triết học là hướng đến phát triển xã hội và giải phóng con
người. Chính thực tiễn đã đem vào hệ thống của triết học Mác sinh khí, hơi thở của sự
sống và làm cho triết học Mác thể hiện mình là một hệ thống mở.
Thứ ba: toàn bộ hệ thống triết học Mác là sự thống nhất biện chứng giữa thế giới
quan và phương pháp luận.
Thứ tư: hệ thống triết học Mác đã phát triển và đã thực hiện triệt để nguyên lý
duy vật cùng phép biện chứng trong quan niệm về thế giới khách quan và tư duy. Đã
xây dựng logic hình thức và các tính quy luật với tính cách là các quá trình tự nhiên và
lịch sử - xã hội đã được toàn bộ thực tiễn của loài người nhận thức và khảo nghiệm.
Triết học Mác đã thủ tiêu sự phân biệt giữa bản thể luận, logic học và lý luận nhận thức.
Với hệ thống lý luận chặt chẽ như vậy, triết học Mác thể hiện mình là một hệ
thống mở. Bởi trong hơn nửa thế kỷ qua, trước những biến đổi mạnh mẽ và to lớn của
kinh tế, chính trị, khoa học kỹ thuật và công nghệ thế giới. Triết học Mác vẫn không
ngừng phát triển, hoàn thiện. Triết học Mác không chỉ trở thành nguyên tắc chỉ đạo
công cuộc cách mạng của giai cấp công nhân và xây dựng chủ nghĩa xã hội khoa học
mà còn liên hệ chặt chẽ với hoạt động nghiên cứu khoa học và sản sinh đời sống tinh
thần của nhân loại, thâm nhập vào các lĩnh vực khoa học tự nhiên và khoa học xã hội.
Trở thành triết học của sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, giữa nhận thức và cải
tạo thế giới.
Triết học Mác không giống với nội dung của bất kỳ một chủ nghĩa giáo điều và
sơ cứng nào. V.I.Lênin từng nói: “lịch sử triết học và lịch sử khoa học xã hội chứng
tỏ hết sức rõ ràng rằng, chủ nghĩa Mác không có gì giống “chủ nghĩa bè phái” hiểu
theo nghĩa một cách đóng kín và cứng nhắc, nảy sinh ở ngoài con đường phát triển vĩ
đại của văn minh thế giới. Trái lại, toàn bộ thiên tài của Mác chính là ở chỗ ông đã
giải đáp được những vấn đề mà tư tưởng tiến bộ của nhân loại đã nêu ra.” [8; tr.49].
Trong tác phẩm “Ba nguồn gốc và ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác” V.I.Lênin
cũng chỉ rõ, mọi toan tính xem chủ nghĩa Mác đứng bên ngoài con đường phát triển

của văn hoá thế giới, biến nó thành một học thuyết biệt phái, khép kín nào đó, là biểu
16
hiện cách tiếp cận có tính xuyên tạc, trái với chân lý. Khi chúng ta nói rằng, học thuyết
Mác “đang phát triển” thì tức là hàm chứa ý nói rằng học thuyết Mác không phải xây
dựng một lần là xong xuôi. C.Mác không phải là đấng chúa trời tối cao và chủ nghĩa
Mác không phải là kinh thư. Bản thân triết học Mác cần phải được bổ sung và phát
triển cho phù hợp với sự vận động của lịch sử - xã hội. Vì vậy, cần hiểu đúng tính mở
và tính sáng tạo của triết học Mác bởi sự bền vững của một học thuyết cần được khẳng
định sức sống thực sự của nó, chứ không chỉ bằng suy đoán logic và những mệnh đề
thiên về giáo huấn thuần tuý.
Ngay từ những năm 1924, chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Mác đã xây
dựng học thuyết của mình trên một lý thuyết nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào?
Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn nhân loại” [28; tr.465].
“chủ nghĩa Mác không phải là một tín đồ bất biến, cũng không phải là phương thuốc
thần diệu có tác động trong mọi hoàn cảnh mà cần phân biệt đối tượng cụ thể. Để chủ
nghĩa Mác phát huy tác dụng của mình ở bên ngoài châu Âu, cần bổ sung những cơ sở
lịch sử của nó bằng dân tộc phương Đông” [28; tr.465-466].
Như vậy, tìm hiểu các vấn đề trong hệ thống triết học Mác, từ vấn đề bản thể
luận, nhận thức luận đến nhân sinh quan, từ những quan điểm cách mạng, hiện thực
đến những dự báo khoa học, từ cách tiếp cận thế giới quan đến cách tiếp cận giá trị.
Với mong muốn bổ sung, phát triển nó trên cơ sở tiếp thu thành quả mới nhất của tri
thức khoa học và hoạt động thực tiễn luôn là đòi hỏi khách quan của cuộc sống.
KẾT LUẬN CHƯƠNG I
Thông qua sự phân tích sâu sắc đi từ những lý luận về hệ thống, đến lý luận hệ
thống triết học và làm rõ rính mở của hệ thống triết học Mác. Cho phép ta khẳng định
triết học Mác trên phương diện cấu trúc là một hệ thống chặt chẽ bao gồm thế giới
quan, nhận thức luận và nhân sinh quan trong mối liên hệ và tác động qua lại giữa
chúng và tác động với môi trường bên ngoài. Với tư cách là một hệ thống mở, đứng
trước những vận động, biến đổi và phát triển liên tục, tạo nên những mắt khâu vô tận
trong bức tranh vô cùng của thế giới. Việc nhận thức triết học Mác với tính cách là

một hệ thống mở luôn là một yêu cầu bức thiết và là một đòi hỏi thường xuyên của
vận động hiện thực. Điều này sẽ được người viết làm rõ ở một số nội dung trong phần
sau.
17
Chương 2
MỘT SỐ NỘI DUNG CỦA TRIẾT HỌC MÁC VỚI TÍNH CÁCH
LÀ MỘT HỆ THỐNG MỞ

2.1 Vấn đề phép biện chứng và chân lý
2.1.1 Vấn đề phép biện chứng
Nằm trong hệ thống triết học Mác, phép biện chứng duy vật là một học thuyết
khoa học chứa đựng trong mình tính hệ thống chặt chẽ và đồng thời nó cũng mang tính
mở. Thể hiện:
Phép biện chứng duy vật có nội dung rất phức tạp và đa dạng, có nhiều yếu tố,
nhiều cấp độ và chức năng. Nhằm phản ánh ngày càng sâu rộng, toàn diện thế giới
hiện thực. Có thể nói, trong lịch sử phát sinh, phát triển thế giới quan duy vật khoa học
mang nội dung là học thuyết các quy luật chung về vận động, biến hoá, phát triển của
tự nhiên, xã hội và tư duy con người. Được khái quát trong quy luật phát triển chung
của mọi vật tồn tại là quy luật biện chứng. Cùng với những thành tựu mới của con
người trong thực tiễn xã hội, phép biện chứng cũng mang những hình thức mới. Đầu
tiên, phải kể đến là phép biện chứng cổ đại với đặc trưng là còn mang nặng tính ngây
thơ, chất phác. Là những quan niệm biện chứng mộc mạc, mang tính suy diễn, phỏng
đoán dựa trên cơ sở kinh nghiệm trực giác mà chưa được chứng minh bằng tri thức
khoa học. Sau đó, là phép biện chứng duy tâm trong triết học cổ điển Đức với hệ thống
lý luận tương đối hoàn chỉnh và trong một chừng mực nhất định, đã trở thành phương
pháp tư duy triết học phổ biến. Bước sang giai đoạn khoa học nghiên cứu quá trình
phát sinh, phát triển của sự vật, hiện tượng dựa trên quan điểm duy vật, phép biện
chứng duy tâm lỗi thời tất yếu bị phủ định.
Sự ra đời của phép biện chứng duy vật Mác xít là đỉnh cao trong việc nhận thức
hiện thực khách quan. C.Mác và Ph.Ăngghen trên cơ sở kế thừa và phát triển những

hạt nhân hợp lý trong lịch sử tư tưởng phép biện chứng, mà trực tiếp là phép biện
chứng duy tâm của Hê ghen. Cùng việc đặt nó trên nền tảng chủ nghĩa duy vật, C.Mác
đã chỉ ra sự đối lập có tính nguyên tắc giữa phương pháp của mình và phương pháp
của Hê ghen: “Đối với Hêghen quá trình tư duy - mà ông ta thậm chí còn biến thành
18
một chủ thể độc lập dưới tên gọi ý niệm - chính là vị thần sáng tạo ra hiện thực, mà
chẳng qua là biểu hiện bên ngoài của tư duy mà thôi. Đối với tôi thì trái lại, ý niệm
chẳng qua là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con người và được cải biến
trong nó.” [8; tr.35].
Chỉ có phép biện chứng duy vật của C.Mác - khoa học về quy luật phổ biến của
sự phát triển mới liên kết được mọi phát kiến về khoa học tự nhiên và khoa học xã hội
thành một hệ thống chỉnh thể các hình thức logic với các yếu tố, cấu trúc, chức năng nhất
định. Cùng mối quan hệ qua lại với môi trường không nằm ở chính nó mà là ở trong hiện
thực, trong thực tiễn, thể hiện nó là một hệ thống mở, một hệ thống phát triển.
Bởi vậy, phép biện chứng duy vật còn thể hiện mình như logic học, như là khoa học
của sự nắm bắt, khám phá lý luận và thực tiễn về thế giới bởi con người xã hội. Được
V.I.Lênin nhấn mạnh, phép biện chứng duy vật tựu trung không phải là ở chỗ nó là tổng
thể “cái khẳng định chung hơn cả” về “thế giới trong chỉnh thể” mà ở chỗ nó là logic phát
triển của thế giới quan khoa học. Phép biện chứng duy vật là một hệ thống đa diện, đa
chiều, có nhiều cách tiếp cận khác nhau. Vì thế, có thể khẳng định, phép biện chứng duy
vật là khoa học về mối liên hệ phổ biến, là khoa học về sự vận động, phát triển.
Cơ sở thống nhất tất cả các khía cạnh, các mặt, các đặc điểm, các nguyên lý,
phạm trù của phép biện chứng duy vật - là thực tiễn. Nhờ đó mà phép biện chứng duy
vật mới xuất hiện và phát triển, mang tính chân lý, phản ánh hiện thực khách quan một
cách đúng đắn, xác thực. Hợp phép biện chứng với chủ nghĩa duy vật thành một chỉnh
thể thống nhất vận động và phát triển. Trên cơ sở giải quyết vấn đề cơ bản của triết
học, phép biện chứng duy vật vạch ra con đường nhận thức và cải tạo nó, trở thành
phương pháp luận phổ biến và là một trong những đặc trưng để phân biệt nó với các hệ
thống khoa học khác.
Các yếu tố của phép biện chứng duy vật mang tính chất bản thể luận như: sự vật,

hiện tượng với tính cách là hiện thực tồn tại khách quan, sự thống nhất và đấu tranh
của các mặt đối lập, lượng đổi dẫn đến chất đổi…các yếu tố nhận thức luận như: quy
luật, phạm trù, phán đoán, suy luận…số lượng cùng bản chất các yếu tố của phép biện
chứng duy vật luôn thay đổi theo hướng ngày càng chính xác, đầy đủ và cụ thể hơn
cùng với mức độ phát triển của tri thức khoa học.
Chức năng thế giới quan của phép biện chứng duy vật còn được gọi là chức năng
phản ánh - thông tin. Bởi, cũng như các khoa học khác, phép biện chứng duy vật là
19
một hệ thống thông tin phức tạp bao gồm các phương thức thu nhận thông tin, phân
tích, sử lý thông tin, nhằm thu được các tri thức mới, các cách tiếp cận thực tiễn mới.
Trong phạm vi chức năng thế giới quan ta có thể chia thành hai chức năng nhỏ cơ bản.
Là chức năng bản thể luận thể hiện ở chỗ, phép biện chứng duy vật vẽ nên một bức
tranh tổng hợp về thế giới, đem đến hệ thống các quan niệm về thế giới. Và chức năng
nhận thức luận thể hiện ở chỗ, nó tạo ra học thuyết mối quan hệ giữa chủ thể và khách
thể, vật chất và ý thức…
Chức năng phương pháp luận của phép biện chứng duy vật, đem lại cho khoa học
hiện đại phương pháp luận trong việc xem xét, lý giải bản thân sự phát triển. Không
chỉ có thế, với bản chất khoa học triết học Mác còn đem lại một cơ sở khoa học đúng
đắn cho việc luận chứng và giải thích những hiện tượng của đời sống xã hội, giúp con
người tiến hành khai thác và cải tạo thế giới hiện thực.
Ngoài hai chức năng cơ bản trên, phép biện chứng duy vật còn thực hiện chức
năng giá trị luận - cung cấp cho con người hệ thống các giá trị nhằm xác định, định
hướng, điều chỉnh các hành vi, từ đó hình thành nhân sinh quan trong sự tồn tại ngày
càng hợp lý của con người.
Tất cả các chức năng nêu trên của phép biện chứng duy vật thống nhất, liên hệ,
tác động qua lại lẫn nhau tạo cơ sở để con người nhận thức, hoạt động thực tiễn. Vận
dụng phép biện chứng duy vật không chỉ đơn giản là vạch ra các quy luật, nguyên lý,
phạm trù mà quan trọng hơn nó phải làm rõ bản chất, cốt lõi của nó, áp dụng nó trong
những vấn đề cụ thể mà hiện thực cuộc sống đặt ra. Như trong lời tựa lần xuất bản thứ
hai bộ “Tư Bản”, khi tiến hành phân tích xã hội Tư bản chủ nghĩa C.Mác viết “Dưới

dạng hợp lý của nó, phép biện chứng duy vật chỉ đem lại sự giận dữ và kinh hoàng
cho giai cấp tư sản và bọn tư tưởng giáo điều. Vì trong quan điểm tích cực về cái hiện
đang có, phép biện chứng cũng đồng thời bao hàm quan niệm về sự phủ định cái đang
hiện tồn, về sự diệt vong tất yếu của nó: vì mỗi hình thái xã hội được phép biện chứng
xem xét trong sự vận động, vì phép biện chứng không khuất phục cái gì cả và về thực
chất nó có tính phê phán và tính cách mạng.”[8; tr.35-36]
Tóm lại, phép biện chứng duy vật là hệ thống cái quan điểm của con người về thế
giới, là hệ thống các phương pháp nhận thức và cải tạo thế giới, là hệ giá trị để con
người đánh giá và điều chỉnh hoạt động của mình. Nó là khoa học về các quy luật
chung nhất về sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy con người trong
20
một hệ thống chỉnh thể nhất định. Do vậy, phép biện chứng duy vật cũng là một hệ
thống mở và phát triển, được thể hiện:
Thứ nhất: các chức năng, cấu trúc và yếu tố cấu thành nó luôn được bổ sung bởi
những thành tựu của sự phát triển của khoa học và thực tiễn. Các nguyên lý, quy luật
và phạm trù của phép biện chứng tuy là cái phổ biến nhưng trong những điều kiện,
hoàn cảnh khác nhau thì biểu hiện ra những hình thức khác nhau.
Thứ hai: thể hiện ở lập trường duy vật biện chứng, khi nó liên tục xem xét sự vật
trong mối liên hệ phổ biến, trong quá trình vận động và biến đổi của thế giới, phản đối
việc tuyệt đối hoá và ngưng đọng.là lập trường đối lập với chủ nghĩa duy tâm và mọi
chủ nghĩa giáo điều.
Thứ ba: phép biện chứng duy vật thể hiện là phương pháp luận nhận thức khoa
học nằm trong sự thống nhất không thể tách rời với khoa học cụ thể. Trang bị cho con
người những công cụ, phương tiện, phương pháp để nhận thức và hoạt động thực tiễn
cải tạo thế giới. Biến những thành tựu của khoa học cụ thể thành chất liệu sống động
cho phép biện chứng duy vật.
Thứ tư: nó đem lại cho khoa học hiên đại những chức năng có ý nghĩa phương
pháp luận trong việc xem xét, lý giải bản thân sự phát triển của mình. Bên cạnh đó, nó
còn đem lại một cơ sở khoa học đúng đắn cho việc luận chứng và giải thích những
hiện tượng của đời sống xã hội.

Như vậy, chỉ khi nhìn nhận tính mở của phép biện chứng duy vật trong hệ thống
triết học Mác mới có thể chẳng những phân tích, đánh giá được ý nghĩa những hiện
tượng xã hội đã, đang xảy ra mà còn thấy được tiến trình phát triển của nó trong tương
lai. Nhằm vạch ra hướng tác động tích cực vào quá trình phát triển của toàn bộ lịch sử.
Tránh xa chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa kinh nghiệm, khuynh hướng chiết trung tư
tưởng. Với tư cách là tri thức lý luận tổng quát, phép biện chứng duy vật Mác xít
hướng vào những điểm nóng của hoạt động thực tiễn, trở thành một phương pháp khoa
học ưu việt để nhận thức những hiện tượng xung quanh chúng ta, là công cụ có tác
động mạnh mẽ giúp đi sâu vào bản chất hiện tượng, các quá trình, các quy luật phát
triển của tự nhiên và đời sống xã hội. Phép biện chứng duy vật luôn nuôi dưỡng trong
mình những dòng nhựa sống của sự phát triển của khoa học và thực tiễn. Chỉ riêng
điều này thôi cũng đã đủ khẳng định, phép biện chứng duy vật là một hệ thống mở.
21
2.1.2 Vấn đề chân lý
Trong lịch sử tư tưởng triết học nhân loại, vấn đề chân lý luôn chiếm một vị trí
quan trọng, tuỳ theo mỗi hệ thống triết học cụ thể mà vấn đề chân lý được hiểu theo
những cách khác nhau.
Trong hệ thống triết học duy tâm, chân lý được hiểu như là đặc trưng vĩnh cửu,
bất biến của các khách thể tư tưởng (Platôn, Ôgustanh), hoặc như là sự phối hợp tương
ứng giữa tư duy với những hình thức tiên nghiệm của nó (I.Cantơ). Theo Hêghen chân
lý là sự đồng nhất giữa tư duy với tồn tại, là quá trình biện chứng sự tự phát triển của ý
niệm tuyệt đối. Những người theo chủ nghĩa duy tâm chủ quan ( Hium, Ratxen) hiểu
chân lý là sự tương ứng lẫn nhau giữa các cảm giác…hầu hết, các quan niệm trên về
chân lý đều chứa đựng những sai lầm về mặt này hay mặt khác trong cách tiếp cận,
nhìn nhận và đánh giá. Bởi, các quan niệm trên hoặc đã phủ nhận tính khách quan của
chân lý hoặc dùng yếu tố chủ quan để xác định giá trị của những tri thức đã đạt được.
Nên đã không đạt tới nhận thức đúng đắn, thật sự khoa học về mối quan hệ biện chứng
giữa chân lý khách quan, chân lý tuyệt đối và chân lý tương đối.
Bác bỏ những quan niệm phiếm diện và sai lầm do bản chất học thuyết về chân
lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng Mácxít. Được Lênin khẳng định: “những giới

hạn nhận thức gần đúng của chúng ta so với chân lý khách quan, tuyệt đối đều là
những giới hạn có điều kiện về mặt lịch sử, nhưng bản thân sự tồn tại của chân lý đó
là vô điều kiện” [33; tr.159]
Như vậy có thể thấy rằng, quan điểm duy vật biện chứng thì chân lý - là những tri
thức phù hợp với hiện thực khách quan và được thực tiễn kiểm nghiệm. Khi xác định,
chân lý là sản phẩm của quá trình nhận thức về thế giới của con người. Nó được hình
thành, phát triển dần dần, từng bước và phụ thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể của
nhận thức, vào hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức của con người. Vì thực tiễn
luôn vận động, phát triển không ngừng và do quá trình nhận thức của con người luôn
mong muốn vươn tới chân lý tuyệt đối. Nên khi chúng ta thừa nhận tính khách quan
của chân lý tức chúng ta đã thừa nhận tính mở của hệ thống triết học Mác về vấn đề
này. Được thể hiện trong mối liên hệ biện chứng giữa chân lý tuyệt đối và chân lý
tương đối. Cùng với việc xác nhận thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý.
22
Chúng ta biết rằng, chân lý tuyệt đối là sự phản ánh chính xác, toàn diện hiện
thực khách quan. Song kiến thức của con người ở mỗi thời đại luôn bị chi phối bởi
trình độ hiện có của khoa học và hoạt động thực tiễn trong những điều kiện lịch sử - xã
hội nhất định. Chân lý tương đối do đó, thể hiện tính chế ước của nhận thức, sự hạn
chế của nó trên từng chặng đường phát triển. Vì vậy, không nên đối lập chân lý tuyệt
đối và chân lý tương đối bởi hai mặt ấy luôn cùng thâm nhập vào nhau, chi phối lẫn
nhau. Trong chân lý tương đối luôn bao hàm những hạt nhân hợp lý tuyệt đối. Đồng
thời chân lý tương đối luôn thông qua chân lý tuyệt đối để thể hiện mình. Mỗi một
nhận thức chân lý của con người, đều chịu sự quy định dưới một điều kiện, một phạm
vi nhất định và dựa trên một trình độ hiểu biết nhất định nên có tính điều kiện, có tính
tương đối. Nhưng với sự phản ánh chính xác hiện thực khách thể thì chân lý lại biểu
hiện mang tính tuyệt đối. Chân lý là một quá trình nhận thức của nhân loại, là quá trình
đi từ chân lý tương đối đến chân lý tuyệt đối. Nên chân lý luôn là cụ thể chứ không
trừu tượng.
Triết học Mác vạch ra rằng: “Mỗi giai đoạn phát triển của khoa học lại đem
thêm những hạt nhân mới vào cái tổng thể ấy của chân lý tuyệt đối, nhưng những giới

hạn chân lý của mọi định lý khoa học đều là tương đối khi thì mở rộng ra khi thì thu
hẹp lại tuỳ theo sự tăng tiến của tri thức”[33; tr.158].
Như vậy, trong quá trình nhận thức không phải ngay một lúc con người nhận
thức được chân lý khách quan một cách hoàn toàn vô điều kiện và tuyệt đối. Bởi thế
giới vật chất là vô cùng, vô tận nên nhận thức con người cũng phải trải qua vô hạn các
giai đoạn. Mỗi bậc thang đó của quá trình nhận thức chỉ phản ánh một trình độ nhất
định xâm nhập của con người vào thế giới khách quan. Vì vậy, mỗi chân lý khoa học
vừa mang tính chất tuyệt đối, vừa mang tính chất tương đối.
Mỗi người riêng lẻ và mỗi thế hệ riêng lẻ chỉ có thể đi sâu vào thế giới vật chất ở
một trình độ nhất định, phản ánh một số đối tượng, một số lĩnh vực nhất định. Cho nên
bức tranh khoa học về thế giới mà mỗi thế hệ đạt được chưa phải là hoàn hảo, triệt để;
do đó, nó mang tính tương đối. Nhưng trong quá trình nhận thức con người luôn có xu
hướng muốn bổ sung thêm vào bức tranh thế giới những phát hiện mới, làm cho nó
ngày càng trở nên sâu sắc hơn, toàn diện hơn. Như vậy, mỗi giai đoạn phát triển của
khoa học đều đem lại cho chúng ta những chân lý tương đối, có chứa đựng những tri
thức hoàn toàn đúng đắn về mặt nào đó, trong một phạm vi xác định. Những tri thức
23
như thế được gọi là chân lý tuyệt đối theo nghĩa hẹp. Còn những tri thức mà toàn bộ
nhân loại ngày nay đi sát tới nó để phản ánh toàn diện, triệt để thế giới hiện thực thì
được gọi là chân lý tuyệt đối theo nghĩa rộng. Đó là quá trình phát triển biện chứng
của chân lý tuyệt đối và chân lý tương đối, đồng thời cũng là câu trả lời đúng đắn về
mối quan hệ giữa chúng. V.I. Lênin viết: “Chân lý tuyệt đối được cấu thành từ tổng số
chân lý tương đối, trong sự phát triển của chúng…Trong mỗi chân lý mặc dù luôn có
tính tương đối của nó, song vẫn có một phần chân lý tuyệt đối”[34; tr.433]
Lịch sử nhận thức khoa học đã chứng tỏ rằng, mỗi khi có sự đảo lộn trong khoa
học thì không có nghĩa là những nguyên lý, quy luật mà khoa học phát hiện ra trước đó
là hoàn toàn sai lầm; tr.ái lại, điều đó chỉ nói lên giới hạn nhận thức của chúng ta về
đối tượng ấy, trong lúc ấy là chưa đủ.
Về vấn đề thực tiễn là tiêu chuẩn để kiệm nghiệm chân lý. Ngay từ những năm 1845,
C.Mác đã xác định: “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy con người có đạt được tới chân lý khách

quan hay không, hoàn toàn không phải là một vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn.
Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng min h tính hiện thực và sức mạnh tính trần
tục của tư duy mình. Sự tranh cãi tính hiện thực hay tính không hiện thực của tư duy tách
rời thực tiễn, là một vấn đề kinh viện thuần tuý”[11; tr.9-10]. Triết học Mác xem thực tiễn
là tồn tại có tính lịch sử - xã hội của con người, một tồn tại toàn thế giới như một hoạt động
tất yếu ngày càng thể hiện sự khác biệt giữa con người và loài vật. Thực tiễn như quá trình
có mục đích hướng đến cải biến giới tự nhiên và xã hội, quyết định tất cả các yếu tố nhận
thức, là động lực và tiêu chuẩn của chân lý. Thực tiễn là mối dây liên hệ, là chiếc cầu hoặc
là điểm giao thoa mối liên hệ giữa chủ quan và khách quan. Song thực tiễn kiểm nghiệm
nhận thức luôn là một quá trình nên nó có tính hạn chế nhất định dưới sự chế định của
những điều kiện lịch sử hiện có. Mặt khác, điều kiện lịch sử lại vận động, biến đổi
không ngừng, nên thực tiễn cũng không ngừng phá vỡ tính hạn chế này.
Tóm lại, thông qua sự phân tích các yếu tố của chân lý cho ta thấy tính mở của hệ
thống triết học Mác được thể hiện ở những vấn đề sau:
Thứ nhất, bản chất của chân lý là không thể chứa đựng tính chủ quan, xuyên tạc
thực tế khách quan.
Thứ hai, thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm nghiệm chân lý, không thể lấy lợi ích, ý chí,
nguyện vọng của bất cứ ai làm căn cứ tiêu chuẩn đánh giá. Nhận thức sự vật hiện
tượng phải phù hợp với quy luật của vận động khách quan. Để tránh đi khuynh hướng
24
chủ nghĩa tương đối - phủ nhận khả năng đạt đến chân lý và tránh khuynh hướng giáo
điều khi khẳng định chân lý là vĩnh cửu cho mọi thời đại. Đòi hỏi chúng ta phải xem
xét chân lý trong hoàn cảnh lịch sử - cụ thể. Thực tiễn giai đoạn sau là bổ sung đầy đủ
hơn cho giai đoạn trước, đồng thời nó cũng là tiêu chuẩn để kiểm tra lại, đánh giá một
cách đầy đủ hơn tri thức phản ánh thực tiễn khách quan của giai đoạn trước.
Thứ ba, mỗi bước tiến của nhận thức đều là sự tiếp cận thế giới khách quan trong
sự vận động, phát triển không ngừng. Trên cơ sở này, thừa nhận con người có khả
năng nắm bắt được tri thức chinh xác về thế giới khách quan, tức thừa nhận chân lý
tuyệt đối. Mặt khác, chúng ta cũng thừa nhận chân lý tương đối dưới sự chế định của
những điều kiện lịch sử nhất định.

Thứ tư, vì thực tiễn luôn vận động, biến đổi và phát triển không ngừng; đồng thời
con người luôn muốn vươn tới chân lý tuyệt đối nên nhận thức phải thông qua nấc
thang của các chân lý tương đối. Vì vậy, mà luôn cần đến nổ lực của tư duy trước sự
phát triển của tri thức nhân loại.
Thứ năm, ta thừa nhận chân lý là sự tiếp cận gần đến bản chất khách quan được
đặt trong quá trình phát triển của lịch sử chứ không phải trong trạng thái đứng im, tĩnh
tại. Nên luôn cần xét đến tính mở của nó.
Như vậy, việc nhận thức đầy đủ lý luận về chân lý của hệ thống triết học Mác là
một vấn đề mở có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc nhìn nhận và cải tạo thế giới,
thúc đẩy lịch sử nhân loại tiến vững chắc về tương lai.
2.2 Vấn đề lý luận nhận thức và thực tiễn
2.2.1 Vấn đề lý luận nhận thức
Lý luận nhận thức là một trong những chủ đề lớn, đóng vai trò chủ yếu trong lịch
sử tư tưởng triết học nhân loại. Cho thấy sự khác nhau giữa các trường phái triết học
thể hiện trong việc tìm hiểu nguồn gốc, quy luật nhận thức, tiêu chuẩn của chân lý và
vai trò của các phương pháp nhận thức. Ngay từ thời cổ đại, khả năng và giới hạn của
nhận thức đã được Platôn đặt ra khi nêu vấn đề: “tri thức là gì?”. Có thể nói lý luận
nhận thức là bộ phận nghiên cứu mối quan hệ của chủ thể và khách thể trong quá trình
hoạt động nhận thức, khả năng nhận thức của con người, tiêu chuẩn của chân lý và
tính đáng tin của tri thức.
Được nêu trong quan điểm về nhận thức của các trào lưu triết học trước Mác như
sau: xuất phát từ chỗ phủ nhận sự tồn tại khách quan của thế giới vật chất, chủ nghĩa
25
duy tâm chủ quan cho rằng, nhận thức chỉ là những phức hợp cảm giác của con người.
Còn chủ nghĩa duy tâm khách quan lại cho rằng, nhận thức là sự hồi tưởng lại của linh
hồn bất tử về thế giới các ý niệm mà nó từng chiêm nghiệm nhưng đã bị lãng quên;
hoặc cho rằng, nhận thức là tự ý thức về mình và ý niệm tuyệt đối. Những người theo
thuyết hoài nghi biến sự nghi ngờ về tính xác thực của tri thức thành một nguyên tắc
của nhận thức.
Đối lập với những quan điểm trên, những nhà duy vật trước Mác thừa nhận khả

năng nhận thức thế giới của con người thông qua quá trình phản ánh hiện thực khách
quan vào trong bộ óc con người. Tuy nhiên, họ đã không hiểu hết ý nghĩa to lớn của
phép biện chứng đối với nhận thức. V.I.Lênin từng nhận định, thiếu sót của chủ nghĩa
duy vật trước Mác là ở chỗ các đại biểu của nó không biết áp dụng phép biện chứng
vào lý luận nhận thức và do đó, biến nó thành siêu hình. Đó chỉ là sự quan sát thụ động
các sự vật, hiện tượng xung quanh, là sự phản ánh đơn giản, máy móc quy luật của thế
giới vào ý thức con người. Theo ý kiến của họ thì sự vật không thể đồng thời mang
trong nó cái vừa cũ, vừa mới, cái khẳng định và cái phủ định mà muốn cho sự vật
không phá hoại trạng thái hoà hợp, cân bằng thì buộc nó chỉ mang một mặt đối lập mà
thôi.
Tóm lại, thiếu sót cơ bản của tất cả lý luận nhận thức trước Mác, trừ Hêghen
chính là ở chỗ, các đại biểu của nó đã tuyệt đối hoá phương pháp nhận thức siêu hình,
cho nó là phương pháp duy nhất và phổ biến có khả năng nghiên cứu các hiện tượng
xung quanh chúng ta. Họ đã không tính đến bản chất phức tạp, tính muôn vẻ, tính mâu
thuẫn của nhận thức, đã không xét đến tính biện chứng của quá trình nhận thức. Nên
quan điểm của các nhà triết học trước Mác đã không đạt tới nhận thức đúng đắn, thật
sự khoa học về vấn đề quan hệ giữa chân lý khách quan, chân lý tuyệt đối và chân lý
tương đối. Nhiều người cũng đã không thể hiểu đúng cả những vấn đề quan trọng của
lý luận nhận thức như quan hệ giữa cảm tính và lý tính, cảm giác và tư duy…Mặt
khác, nó còn không đề ra một cách đúng đắn vấn đề cơ bản, quan trọng nhất của lý
luận nhận thức là xác nhận vai trò của thực tiễn là cơ sở của toàn bộ quá trình nhận
thức, là tiêu chuẩn khách quan duy nhất của chân lý và là mục đích cuối cùng của nhận
thức. Bởi hạn chế cơ bản nhất của nó là mang tính chất trực quan trong khi, mối liên
hệ không thể tách rời giữa lý luận nhận thức và thực tiễn là điều không thể phủ nhận
26
của nhận thức khoa học chân chính, là điều kiện phát triển của khoa học và thực tiễn
xã hội.
Những thiếu sót và sai lầm đã vạch ra của lý luận nhận thức trước Mác đã có những
ảnh hưởng nhất định đến nhận thức khoa hoc. Phương pháp siêu hình trong nghiên cứu
khoa học đầu thế kỷ XIX đã cản trở, kìm hãm sự phát triển của tư duy khoa học một cách

nghiêm trọng. Vì vậy, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã dựa trên những nguyên tắc cơ bản
sau để xây dựng lý luận nhận thức của mình:
Một là, thừa nhận thế giới khách quan tồn tại độc lập với nhận thức của con người.
Hai là, thừa nhận khả năng nhận thức được thế giới của con người. Coi nhận
thức là quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người, là hoạt
động tìm hiểu khách thể của chủ thể. Khẳng định không có cái gì là không thể nhận
thức, chỉ có cái con người chưa nhận thức được mà thôi.
Ba là, khẳng định sự phản ánh đó là một quá trình biện chứng, tự giác, tích cực
và sáng tạo. Quá trình phản ánh ấy diễn ra theo trình tự, từ chưa biết đến biết, từ biết ít
đến biết nhiều, di từ hiện tượng đến bản chất và từ bản chất kém sâu sắc đến bản chất
sâu sắc hơn.
Bốn là, coi thực tiễn là cơ sở chủ yếu và trực tiếp của nhận thức, là động lực, mục
đích của nhận thức và là tiêu chuẩn để kiểm nghiệm chân lý.
Với những cơ sở nguyên tắc trên, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã tạo ra một
cuộc cách mạng thực sự khoa học trong lý luận nhận thức. Bằng việc kế thừa những
hạt nhân hợp lý, phát triển một cách sáng tạo và được minh chứng bởi những thành tựu
khoa học kỹ thuật của thực tiễn xã hội. C.Mác và Ph.Ăng ghen đã xây dựng nên học
thuyết duy vật biện chứng về nhận thức. Nó không những đã khắc phục được những
hạn chế của các nhà duy vật trước đó, đối lập với chủ nghĩa duy tâm và thuyết không
thể biết, mà còn thể hiện mình là một học thuyết mở và phát triển. Tính mở của nó
không chỉ thể hiện ở những lập trường, những nguyên tắc cơ bản mà còn thể hiện là
một học thuyết phát triển cùng với sự vận động, biến đổi của khoa học và thực tiễn.
Từ đó, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: nhận thức là quá trình phản ánh
biện chứng, tự giác và sáng tạo thế giới khách quan vào đầu óc con người trên cơ sở
thực tiễn. Thừa nhận lý luận nhận thức nghiên cứu tính quy luật của sự phát triển nhận
thức là một quá trình biện chứng đặc thù, những mâu thuẫn bên trong của nhận thức,
27
sự phủ định như bậc thang phát triển mang tính quy luật của tri thức, thể hiện bước
nhảy vọt từ trình độ tri thức này sang trình độ tri thức khác cao hơn.
Như vậy, lý luận nhận thức của triết học Mác khác với nhận thức luận trước đây,

nó không chỉ là học thuyết về tính quy luật đặc thù của nhận thức mà còn đóng vai trò
kết quả, tổng số, kết luận của lịch sử nhận thức thế giới. Khẳng định trong hệ thống
triết học Mác, các vấn đề nhận thức luận thể hiện đặc thù mối quan hệ giữa vật chất và
ý thức, là tiêu chuẩn để xác thực chân lý. Là cái tương quan giữa mặt cảm tính và mặt
logic, vấn đề phản ánh…đều được nghiên cứu trên cơ sở phép biện chứng duy vật và
trong mối liên hệ gắn bó với học thuyết của chủ nghĩa duy vật lịch sử - là học thuyết
cho phép ta xác định bản chất mối quan hệ nhận thức của con người đối với thế giới,
bằng cách xuát phát từ sự phân tích hoạt động cải tạo có tính đối tượng thực tiễn. Sự
phát triển của lý luận nhận thức duy vật biện chứng, dựa trên việc sử dụng những tài
liệu của các khoa học chuyên nghành hiện đại về nhận thức và đóng vai trò cơ sở triết
học - phương pháp luận của các chuyên nghành này. Do vậy mà, sự phát triển của
khoa học ngày nay càng đi sâu khám phá thế giới vật chất, thì con người ngày càng có
cơ sở khoa học vững chắc để nhận thức và phản ánh trong quá trình cải tạo hiện thực.
Thông qua những bổ sung, chỉnh lý trong quá trình nhận thức của chúng ta để tiến kịp
với những thay đổi của hiện thực.
Mặt khác cũng thấy rằng, vì nhận thức là một quá trình biện chứng chuyển từ
chưa biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều hơn nên nó bao giờ cũng bị giới hạn, không
đầy đủ, tương đối và không loại trừ việc có những chỉnh lý nhất định. Nó bị giới hạn
ngay tại những khuôn khổ mà từ đó nó xuất hiện. Hơn nữa, nhận thức là vô hạn theo
nghĩa dù cho giới hạn của nó là gì đi chăng nữa, thì việc phát hiện ra các phương pháp
mới và việc xác lập nên những mối liên hệ mới cũng vẫn có thể khắc phục nó. Bởi,
không có ranh giới cách biệt về nguyên tắc giữa hiện tượng và vật tự nó. Sự khác nhau
chẳng qua chỉ là giữa cái đã nhận thức được và cái chưa nhận thức được.
Kết quả là, tạo cho con người có thêm khả năng nhận thức ngày càng nhiều hơn
về các quá trình diễn ra trong thế giới, kể cả trong đời sống riêng tư của từng người và
đời sống xã hội, đến việc hình thành những nguyên lý, quy luật chung áp dụng vào
mọi khoa học để đưa đến những thông tin chính xác và đầy đủ hơn.
Như vậy, với cuộc cách mạng trong lý luận nhận thức, triết học Mác đã chống lại
quan điểm duy tâm, thuyết hoài nghi và bất khả tri luận về vấn đề nhận thức. Khẳng
28

×