Tải bản đầy đủ (.doc) (109 trang)

Hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành dịch vụ vận tải hàng hoá tại Công ty Cổ phần Hàng hải Đông Đô

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (555.05 KB, 109 trang )

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan bản luận văn là công trình nghiên cứu khoa học, độc lập
của tôi. Các số liệu, kết quả trong luận văn là hoàn toàn trung thực và có nguồn
gốc rõ ràng

Tác giả luận văn
Nguyễn Đức Sơn
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Nội dung chữ viết tắt
BHXH
BHYT
BHTN
CP NVL TT
CP NCTT
CP SXC
KKTX
KKĐK
KH TSCĐ
KPCĐ
NC
TSCĐ
TK
SXC
SXKD
SP
SP DD
XNLH


Bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm y tế
Bảo hiểm tai nạn
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
Chi phí nhân công trực tiếp
Chi phí sản xuất chung
Kê khai thường xuyên
Kiểm kê định kì
Khấu hao tài sản cố định
Kinh phí công đoàn
Nhân công
Tài sản cố định
Tài khoản
Sản xuất chung
Sản xuất kinh doanh
Sản phẩm
Sản phẩm dở dang
Xí nghiệp liên hợp
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Sơ đồ 1.1 – Hạch toán chi phí nhiên liệu tiếp theo phương pháp kiểm kê định kỳ
30
Sơ đồ 1.2 – Hạch toán chi phí nhân công trực tiếp 31
Sơ đồ 1.3 – Hạch toán chi phí sản xuất chung 32
Sơ đồ 1.4 – Tổng hợp chi phí sản xuất và tính giá thành dịch vụ 33
Sơ đồ 1.5 – Bộ máy kế toán quản trị chi phí trong cơ cấu tổ chức doanh nghiệp. 35
Sơ đồ 2.1 - Tổ chức bộ máy quản lý điều hành của Công ty CP hàng hải Đông Đô
42
Sơ đồ 2.2 - Quy trình khai thác đội tàu biển 43
Sơ đồ 2.3 – Mô hình kế toán tập trung tại Công ty Cổ phần Hàng hải Đông Đô. .44
Sơ đồ 2.4 – Sơ đồ tập hợp chi phí tại Công ty Cổ phần Hàng Hải Đông Đô 46

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nền kinh tế nước ta hiện nay đang phát triển theo hướng kinh tế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, một nền
kinh tế hàng hoá có nhiều thành phần chịu sự tác động gắt gao của các quy luật
kinh tế: quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh. Một điều kiện
tiên quyết đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp là được thị trường chấp
nhận sản phẩm của mình với giá cả hợp lý. Có thể nói rằng, giá thành sản phẩm
là tấm gương phản chiếu toàn bộ các biện pháp kinh tế, tổ chức quản lý và kỹ
thuật mà doanh nghiệp đã và đang thực hiện trong quá trình sản xuất kinh
doanh.
Đứng trên lĩnh vực kế toán, kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm là khâu phức tạp, quan trọng nhất trong toàn bộ công tác kế toán của
doanh nghiệp. Kế toán giá thành sản phẩm liên quan đến hầu hết các yếu tố đầu
vào, đầu ra của quá trình sản xuất kinh doanh. Đảm bảo hạch toán đầy đủ, chính
xác chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, cung cấp thông tin kịp thời cho
quản trị doanh nghiệp là yêu cầu có tính xuyên suốt và mang tính quyết định
trong quá trình hoạt động kinh doanh. Do vậy, kế toán chi phí sản xuất và tính
giá thành sản phẩm phục vụ quản trị chi phí có ý nghĩa vô cùng quan trọng và
mang tính sống còn đối với doanh nghiệp.
Vận tải biển là một ngành kinh tế kỹ thuật quan trọng của nền kinh tế
quốc dân, là cầu nối kinh tế giữa các quốc gia trên thế giới với nhau. Với đặc
điểm nổi bật là giá thành dịch vụ vận tải thấp, vận tải biển ngày một phát
triển mạnh mẽ và trở thành ngành vận tải hiện đại chiếm tỷ trọng lớn trong hệ
thống vận tải quốc tế. Việt Nam với đặc điểm địa lý có bờ biển chạy dọc theo
chiều dài của đất nước đã tạo điều kiện rất thuận lợi cho vận tải biển phát
triển. Sau thời kỳ sụt giảm kéo dài từ giữa năm 2008, đến nay thị trường vận
tải biển thế giới đã hồi phục trở lại, nhưng mức tăng trưởng chưa cao và chưa
thực sự bền vững. Giá cước vận tải biển tăng giảm thất thường. Trong năm
2011 đã liên tục sụt giảm do sự mất cân bằng về cung trọng tải, chính vì thế

tình hình vận tải biển trong ngắn hạn trở nên khó dự báo, khả năng rủi ro sẽ
1
tăng lên, tiến độ hồi phục chậm chạp chưa có sự chuyển biến thực sự hấp dẫn.
Các doanh nghiệp vận tải biển Việt Nam đã và đang phải đối mặt với bài toán
chi phí sản xuất và tính giá thành dịch vụ vận tải vô cùng khó khăn. Doanh
nghiệp chỉ có thể tồn tại và phát triển được khi các nhà quản trị doanh nghiệp
kiểm soát được chi phí để có thể giảm giá thành dịch vụ vận tải, tăng lợi
nhuận. Nhận thức được ý nghĩa quan trọng đó nên tác giả đã chọn đề tài
“Hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành dịch vụ vận tải hàng
hoá tại Công ty Cổ phần Hàng hải Đông Đô" là đề tài nghiên cứu của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Cùng với hệ thống lý luận chung về kế toán chi phí sản xuất và tính giá
thành dịch vụ vận tải hàng hoá, luận văn sẽ phân tích, đánh giá thực trạng công
tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành dịch vụ vận tải hàng hoá tại Công
ty cổ phần Hàng Hải Đông Đô. Từ đó kiến nghị phương hướng giải pháp hoàn
thiện nhằm phục vụ quản trị chi phí, cung cấp thông tin hữu ích cho nhà quản lý
trong việc ra các quyết định kinh doanh.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn chủ yếu đi sâu và phân tích những nguyên lý cơ bản của kế toán
chi phí sản xuất và tính giá thành dịch vụ vận tải hàng hóa. Từ đó áp dụng vào
nghiên cứu thực trạng kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành dịch vụ vận tải
hàng hóa tại Công ty cổ phần Hàng Hải Đông Đô.
Phạm vi nghiên cứu: Kế toán tài chính và một số nội dung về kế toán quản
trị về chi phí sản xuất và tính giá thành dịch vụ vận tải trong phạm vi Công ty
Cổ phần Hàng hải Đông Đô.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử làm nền tảng, đồng thời
coi trọng sử dụng hệ thống các phương pháp tổng hợp phân tích thống kê so
sánh đánh giá đề xuất các giải pháp hoàn thiện.
5. Những đóng góp của luận văn

Về lý thuyết: hệ thống hoá cơ sở lý luận của kế toán chi phí sản xuất và
tính giá thành dịch vụ vận tải.
Về thực tiễn: Phân tích, đánh giá thực trạng, từ đó đề xuất phương hướng
và giải pháp hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành dịch vụ vận tải
2
hàng hoá phục vụ quản trị chi phí tại Công ty cổ phần Hàng Hải Đông Đô.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận cơ bản về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành dịch vụ
vận tải hàng hoá trong các doanh nghiệp vận tải biển
Chương 2: Thực trạng kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành dịch vụ vận tải
hàng hoá tại Công ty cổ phần hàng hải Đông Đô
Chương 3: Hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành dịch vụ vận tải
hàng hoá tại Công ty cổ phần hàng hải Đông Đô
3
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ
TÍNH GIÁ THÀNH DỊCH VỤ VẬN TẢI HÀNG HOÁ TRONG
CÁC DOANH NGHIỆP VẬN TẢI BIỂN
1.1 Đặc điểm của hoạt động kinh doanh dịch vụ vận tải và ảnh hưởng tới kế
toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp
kinh doanh dịch vụ vận tải
1.1.1 Đặc thù của hoạt động kinh doanh dịch vụ vận tải
Vận tải với tư cách là một trong những ngành sản xuất vật chất cơ bản, có
vị trí quan trọng trong quá trình tái sản xuất xã hội. Nó là một trong những điều
kiện tiền đề đối với việc sản xuất ra bất kỳ một sản phẩm nào. Các Mác viết
“tiếp theo sự vận chuyển những sản phẩm từ nơi sản xuất này đến nơi sản xuất
khác, lại có sự vận chuyển những thành phẩm từ lĩnh vực sản xuất sang lĩnh vực
tiêu dùng. Chỉ khi nào sản phẩm đã hoàn thành sự vận động này thì sản phẩm
mới sẵn sàng để đem tiêu dùng”.

Nhu cầu về vận chuyển hàng hóa ngày một tăng là một tất yếu khách
quan. Đó là kết quả tất yếu của quá trình phát triển kinh tế quốc dân, của phân
công lao động xã hội mới, của chuyên môn hóa và hợp tác hóa, của việc hình
thành các trung tâm công nghiệp lớn, các vùng kinh tế mới, của việc hợp tác trao
đổi với nước ngoài.
Vì vậy, là yếu tố hợp thành chi phí sản xuất của các sản phẩm được sản
xuất ra trong xã hội, chi phí vận tải trở thành yếu tố hình thành giá cả hết sức
quan trọng.
Đặc điểm của sản phẩm vận tải
Ngành vận tải không tạo ra sản phẩm vật chất mới, không làm tăng thêm
khối lượng sản phẩm được chuyên chở, Các Mác viết “tuy vậy, có những ngành
công nghiệp độc lập, trong đó sản phẩm của quá trình sản xuất lại không phải là
một sản phẩm vật chất mới, không phải là một hàng hóa. Trong những ngành
này, chỉ riêng ngành công nghiệp vận chuyển là ngành có tầm quan trọng về
kinh tế”.
4
Nếu như trong các ngành sản xuất vật chất khác, sự kết hợp giữa sức lao
động và tư liệu lao động tác động vào đối tượng lao động tạo ra những sản phẩm
vật chất mới, có tính chất vật lý hóa học, có hình dạng khác hẳn lúc ban đầu, thì
trong điều kiện vận tải bình thường, không hề có sự thay đổi nào hình dạng hay
tính chất của những hàng hóa được vận chuyển. Ở đây chỉ có sự thay đổi vật
chất đặc biệt đó là sự thay đổi vị trí của hàng hóa trong không gian. Chính sự
thay đổi này làm cho giá trị sử dụng của hàng hóa vận chuyển được thực hiện.
Trong ngành vận tải thời gian sản xuất và thời gian tiêu dùng sản phẩm
trùng nhau. Do đó sản phẩm của ngành vận tải không tồn tại ngoài quá trình sản
xuất ra nó, không có bán thành phẩm, cũng không có sản phẩm dự trữ. Giá trị sử
dụng không tồn tại độc lập. Các Mác viết “Hiệu quả có ích sinh ra thì gắn liền
không thể tách rời được với quá trình vận chuyển tức là quá trình sản xuất của
công nghiệp vận chuyển người và hàng hóa cùng di chuyển một lúc với phương
tiện vận chuyển mà sự di chuyển, vận động của người và hàng hóa trong không

gian lại chính là quá trình sản xuất do phương tiện vận tải tiến hành”.
1.1.2 Ảnh hưởng tới kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
Hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp vận tải có những
đặc điểm riêng mang tính chất đặc thù chi phối đến nội dung, phương pháp
và cách thức hạch toán kế toán nói chung và kế toán chi phí sản xuất và tính
giá thành sản phẩm phục vụ quản trị chi phí nói riêng. Đặc điểm đó có thể
kể đến là:
Thứ nhất: vận tải là ngành sản xuất đặc biệt, sản phẩm dịch vụ vận tải
không có hình thái hiện vật, quá trình sản xuất dịch vụ gắn liền với quá trình tiêu
thụ. Do vậy, tổ chức quản lý và tổ chức kế toán cần phải có dự toán, từ đó giúp
doanh nghiệp vận tải có thể hạch toán tương đối chính xác giá thành vận tải. Căn
cứ vào đó doanh nghiệp lên kế hoạch về tài chính cũng như giám sát các chi phí
phát sinh đối với từng dịch vụ vận tải cung cấp.
Thứ hai: Sản phẩm dịch vụ vận tải chỉ được tiến hành sản xuất sau khi có
hợp đồng vận tải của khách hàng. Nói cách khác, sản phẩm vận tải thường được
sản xuất theo hợp đồng đã ký kết, do đó tính chất hàng hoá của sản phẩm dịch
vụ vận tải không thể hiện rõ nét. Sản phẩm được bán với giá thoả thuận trước
khi được sản xuất. Tổ chức sản xuất luôn thay đổi theo từng tuyến đường vận
chuyển cũng như địa điểm giao nhận hàng hoá. Đòi hỏi kế toán phải xây dựng
5
định mức cũng như dự toán tương đối chính xác cho từng hợp đồng để đảm bảo
thực hiện đồng có hiệu quả.
Thứ ba: Hoạt động kinh doanh vận tải thường tiến hành ngoài trời, chịu tác
động trực tiếp bởi điều kiện môi trường, đường sá, thời tiết, sản xuất mang tính
chất thời vụ. Chính bởi vậy, công tác bảo trì, bảo dưỡng cũng như sửa chữa
thường xuyên, sửa chữa định kỳ, sửa chữa lớn phương tiện vận tải là nhiệm vụ
hết sức quan trọng. Điều này đặt kế toán vào nhiệm vụ phải dự toán cũng như
trích lập các khoản chi phí, dự phòng đảm bảo không làm ảnh hưởng nhiều đến
giá thành dịch vụ vận tải cũng như lợi nhuận hoạt động của doanh nghiệp.
Thứ tư: Phương tiện vận tải là tài sản lớn và quan trọng không thể thiếu

được trong quá trình thực hiện dịch vụ vận tải. Các phương tiện này có mức đầu
tư lớn, thời gian sử dụng lâu dài do vậy việc xác định phương pháp khấu hao
hợp lý đảm bảo phản ánh đúng bản chất chi phí là yêu cầu quan trọng đặt ra với
kế toán. Ngoài ra, các phương tiện vận tải này lại bao gồm nhiều chủng loại, có
đặc tính kỹ thuật, hiệu suất và mức tiêu hao nhiên liệụ, dầu nhờn khác nhau.
Điều này đòi hỏi kế toán phải lập chính xác định mức tiêu hao nhiên liệu cũng
như xác định rõ ràng các loại chi phí khác.
Thứ năm: Hoạt động vận tải hàng hoá được tổ chức chủ yếu ở bên ngoài
doanh nghiệp, phương tiện và lái xe làm việc chủ yếu ở bên ngoài doanh nghiệp.
Do đó quá trình quản lý phải rất cụ thể, phải xây dựng được một chế độ vật chất
rõ ràng, vận dụng cơ chế khoán hợp lý.
1.2 Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm và vai trò của nó
trong các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ vận tải
1.2.1 Chi phí kinh doanh dịch vụ vận tải
Trong quá trình thực hiện dịch vụ vận tải, các doanh nghiệp vận tải cũng
phải kết hợp 3 yếu tố cơ bản đó là sức lao động, tư liệu lao động và đối tượng
lao động. Song do đặc điểm của vận tải cũng mang tính đặc thù và sự tham gia
của các yếu tố chi phí vào quá trình dịch vụ vận tải cũng khác các nghành sản
xuất vật chất khác vì vậy có thể nói rằng chi phí vận tải là biểu hiện bằng tiền
của những chi phí lao động vật hoá chi ra cho quá trình hoạt động dịch vụ vận
tải trong một thời kỳ nhất định. Ngoài ra còn bao gồm một phần nhỏ thu nhập
thuần tuý cho xã hội như BHXH, BHYT, KPCĐ, BHTN.
6
Trong quá trình quản lý doanh nghiệp cũng cần phân biệt giữa chi phí và
chi tiêu chi phí là hai khái niệm có quan hệ mật thiết với nhau. Chi tiêu là cơ sở
phát sinh của chi phí, không có chi tiêu thì không có chi phí.
Chi tiêu là sự giảm đi đơn thuần các loại vật tư, tài sản, tiền vốn của
doanh nghiệp, bất kể dùng nó vào mục đích gì.
Chi phí vận tải trong kỳ của doanh nghiệp, gồm toàn bộ giá trị tài sản
hao phí hoặc tiêu dùng hết cho quá trình hoạt động dịch vụ vận tải tính vào kỳ

hạch toán.
Chi phí và chi tiêu không chỉ khác nhau về lượng mà còn khác nhau về
thời gian. Có những khoản chi tiêu kỳ này nhưng chưa tính vào chi phí, có
những khoản tính vào chi phí trong kỳ nhưng thực tế chưa tiêu thụ. Sở dĩ có sự
khác nhau như vậy là do đặc điểm, tính chất vận động và phương thức dịch
chuyển giá trị của từng loại tài sản vào quá trình hoạt động.
- Phân loại chi phí vận tải
Phân loại chi phí vận tải là việc sắp xếp chi phí vào từng loại, từng nhóm
khác nhau theo những đặc trưng quy định. Chi phí bao gồm rất nhiều loại khác
nhau, nhiều khoản khác nhau cả về nội dung, tính chất, công cụ, vai trò. Để
thuận lợi cho công tác quản lý và hạch toán cần thiết phải tiến hành phân loại chi
phí. Xuất phát từ mục đích, yêu cầu khác nhau của quản lý chi phí cũng được
phân loại theo những tiêu thức khác nhau.
Mỗi cách phân loại đều đáp ứng ít nhiều cho quản lý, hạch toán, kiểm tra,
kiểm soát các chi phí phát sinh ở những góc độ khác nhau. Phân loại chi phí theo
những tiêu thức khác nhau. Mỗi cách phân loại đều đáp ứng yêu cầu của kế toán
tập hợp chi phí, thúc đẩy doanh nghiệp không ngừng tiết kiệm chi phí, hạ giá
thành, nâng cao hiệu quả kinh doanh vì thế các cách phân loại đều tồn tại, bổ
sung cho nhau trong quản lý chi phí và giá thành.
Dưới góc độ kế toán tài chính
@ Phân loại chi phí theo lĩnh vực hoạt động
Căn cứ vào việc tham gia của chi phí vào hoạt động kinh doanh, toàn bộ chi
phí được chia thành làm các loại:
- Chi phí sản xuất kinh doanh: Bao gồm những chi phí liên quan đến
hoạt động sản xuất, tiêu thụ và quản lý doanh nghiệp.
7
- Chi phí hoạt động tài chính: Bao gồm những chi phí liên quan đến
hoạt động về vốn và đầu từ tài chính.
- Chi phí hoạt động khác: gồm những khoản chi phí ngoài dự kiến của
doanh nghiệp, có thể do chủ quan hoặc khách quan mang lại.

Cách phân loại này giúp cho việc phân định chi phí được chính xác, phục
vụ cho việc tính giá thành, xác định chi phí và kết quả của từng hoạt động kinh
doanh cũng như lập báo cáo tài chính nhanh chóng, kịp thời.
@ Phân loại chi phí theo yếu tố chi phí
Phân loại chi phí vận tải theo yếu tố chi phí có ý nghĩa lớn trong quản lý
chi phí theo trọng điểm. Xác định rõ nguyên nhân tăng, giảm của từng khoản
mục chi phí để từ đó có biện pháp hữu hiệu nhằm giảm thấp giá thành dịch vụ
vận tải, đối với vận tải đường biển, các chi phí phân loại theo yếu tố chi phí.
1. Tiền lương thuyền viên
2. BHXH,BHYT,KPCĐ, BHTN của thuyền viên
3. Nhiên liệu, dầu mỡ nhờn
4. Chi phí sửa chữa lớn, sửa chữa thường xuyên
5. Khấu hao tàu
6. Cảng phí, phí đầu bến
7. Phí đại lý, hoa hồng
8. Chi phí khác
@ Phân loại chi phí theo công dụng, nơi phát sinh chi phí
Theo tiêu chuẩn này, chi phí vận tải được chia thành: Chi phí nhiên liệu
trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung.
- Chi phí nhiên liệu trực tiếp: là chi phí của những loại nhiên liệu tham
gia trực tiếp vào quá trình thực hiện dịch vụ vận tải như chi phí dầu DO, dầu FO
và dầu nhờn. Loại chi phí này có thể tách biệt rõ ràng và cụ thể cho từng đối
tượng và sẽ được hạch toán thẳng cho từng đối tượng chịu chi phí.
- Chi phí nhân công trực tiếp: là chi phí trực tiếp cho những người vận
hành phương tiện vận tải tạo ra sản phẩm dịch vụ. Cũng như chi phí nguyên vật
liệu trực tiếp, loại chi phí này có thể tách biệt, rõ ràng và cụ thể cho từng đối
tượng chịu chi phí và có thể hạch toán thẳng cho từng đối tượng chịu chi phí.
8
- Chi phí sản xuất chung: là loại chi phí bao gồm nhiều khoản mục
khác nhau, thường là các khoản chi phí có tính chất gián tiếp với nhiều đối

tượng, khó có thể tách biệt rõ ràng, và cụ thể cho từng đối tượng và không thể
hạch toán thẳng cho từng đối tượng chịu chi phí. Chi phí sản xuất chung bao
gồm cả biến phí, định phí và chi phí hỗn hợp, trong đó định phí thường chiếm tỷ
trọng lớn. Chi phí này thường phát sinh ở nhiều bộ phận khác nhau, nên có
những khó khăn nhất định cho việc quản lý và kiểm soát chi phí.
Cách phân loại này có ý nghĩa và tác dụng quan trọng trong kế toán tài
chính về chi phí và tính giá thành dịch vụ vận tải. Phù hợp với việc phân loại chi
phí trong kế toán tài chính để sử dụng các tài khoản hợp lý theo chế độ kế toán
hiện hành. Cách phân loại này có ý nghĩa và tác dụng quan trọng trong kế toán
tài chính về chi phí và giá thành dịch vụ vận tải. Phù hợp với việc phân loại chi
phí trong kế toán tài chính để sử dụng các tài khoản hợp lý theo chế độ kế toán
hiện hành. Cách phân loại này còn giúp nhà quản trị dự toán được các khoản
mục chi phí trọng yếu trong CPXSKD dịch vụ, cung cấp số liệu cho việc xây
dựng định mức giá thành và quản lý giá thành theo khoản mục chi phí, từ đó xác
định nguyên nhân, đề ra các biện pháp nhằm tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản
phẩm, nâng cao hiệu quả kinh doanh.
@ Phân loại theo cách thức kết chuyển chi phí
Theo cách phân loại này, toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh được chia
thành chi phí sản phẩm và chi phí thời kỳ. Chi phí sản phẩm là những chi phí
gắn liền với các sản phẩm được sản xuất ra hoặc được mua, còn chi phí thời kỳ
là những chi phí làm giảm lợi nhuận trong một kỳ nào đó, nó không phải là một
phần giá trị sản phẩm được sản xuất hoặc được mua nên được xem là các phí tổn
và cần được loại trừ khỏi lợi nhuận của thời kỳ mà chúng phát sinh trong kỳ.
Dưới góc độ kế toán quản trị
Khác với kế toán tài chính, trong kế toán quản trị, để quản lý được chi phí
cần phải làm rõ các cách phân loại chi phí, vì mỗi cách phân loại chi phí đều
cung cấp thông tin dưới nhiều góc độ để các nhà quản trị ra các quyết định thích
hợp.
* Phân loại chi phí theo cách ứng xử của chi phí: Theo tiêu chuẩn phân loại
này chi phí vận tải được phân chia thành hai loại chi phí:

9
- Chi phí biến đổi: là những khoản chi phí khi doanh thu vận tải tăng hay
giảm thì số tiền chi phí cũng tăng giảm theo, nhưng tỷ suất chi phí không thay
đổi. Việc tỷ suất chi phí thay đổi nhiều hay ít phụ thuộc vào mối quan hệ giữa
tốc độ tăng doanh thu vận tải và tốc độ chi phí biến đổi.
- Chi phí cố định: là những khoản chi phí khi doanh thu vận tải tăng hay
giảm thì số tiền chi phí không thay đổi, song tỷ suất chi phí thì lại thay đổi. Tỷ
suất chi phí cố định tăng hay giảm phụ thuộc vào tốc độ tăng của chi phí cố định
và tốc độ tăng của doanh thu vận tải.
Phân loại chi phí theo tiêu chuẩn này có ý nghĩa và tác dụng rất lớn trong
việc xác định điểm hoà vốn, dự toán chi phí và phục vụ cho công tác kế toán
quản trị doanh nghiệp.
Có thể tóm tắt mối quan hệ tương quan của chi phí vận tải với doanh thu vận tải
Loại chi phí Doanh thu vận tải Số tiền chi phí Tỷ suất chi phí
Chi phí biến đổi Tăng (giảm) Tăng (giảm) Không đổi
Chi phí cố định Tăng (giảm) Không đổi Giảm (tăng)
Nếu biểu diễn mối quan hệ của chúng trên đồ thị ra có các dạng đồ thị
Hình 1.1 phương trình Y=aX=b biểu thị mối quan hệ giữa số tiền chi phí khả
biến và doanh thu vận tải, doanh thu càng tăng thì chi phí càng lớn. Phương
trình Y=b biểu diễn số tiền chi phí cố định (doanh thu tăng nhưng chi phí không
đổi) hoặc đường chi phí cố định hình bậc thang y=a+b thể hiện doanh thu tăng
trong điều kiện tăng hoặc giảm đột biến về đầu tư, làm ảnh hưởng tới tổng chi
10
Y=a+b
Y=aX+b
Y=b
Doanh thu
Chi phÝ
Hình 1.1
Chi phÝ

Y=a+b/X
Doanh thu
Hình 1.2
phí cố định.
Hình 1.2 phương trình y=a+b/X biểu thị tỷ suất chi phí cố định
Phân loại chi phí theo tiêu chuẩn này có ý nghĩa và tác dụng rất lớn trong
việc xác định điểm hoà vốn, lập kế hoạch sản xuất kinh doanh và lập dự toán
ngân sách, tổ chức quản trị chi phí.
Việc phân loại chi phí thành chi phí biến đổi và chi phí cố định có ý nghĩa
rất lớn đối với nhà quản trị doanh nghiệp trong việc ra quyết định quản trị đối
với từng loại phí. Doanh nghiệp tập trung theo dõi sự biến động thường xuyên
của các khoản mục chi phí biến đổi để có các biện pháp kịp thời nhằm giảm
thiểu chi phí. Điều chỉnh biến phí cấp bậc cho phù hợp khi có các điều kiện thay
đổi. Xem xét xu hướng tăng dần tỷ trọng định phí so với biến phí nhằm bảo
đảm sự phát triển lâu dài và cơ bản của doanh nghiệp. Xem xét mức độ phù hợp
của các khoản mục định phí tuỳ ý.
Chi phí hỗn hợp là loại chi phí mà bản thân nó gồm các yếu tố chi phí biến
đổi và chi phí cố định. Ở mức độ hoạt động căn bản, chi phí hỗn hợp thể hiện
các đặc điểm của chi phí cố định, quá mức đó nó lại thể hiện đặc tính của chi phí
biến đổi. Chi phí hỗn hợp bao gồm các khoản chi phí như chi phí sửa chữa lớn
tài sản cố định.
Để xác định được thành phần của định phí và biến phí trong chi phí hỗn
hợp nhằm mục đích kiểm soát và chủ động điều tiết chi phí, kế toán thường sử
dụng hai phương pháp.
- Phương pháp cực đại, cực tiểu
- Phương pháp bình phương nhỏ nhất
* Phân loại chi phí được sử dụng trong việc lựa chọn phương án: chi phí trực
tiếp, chi phí gián tiếp, chi phí cơ hội, chi phí chênh lệch và chi phí chìm.
- Chi phí trực tiếp là những chi phí phát sinh liên quan trực tiếp đến từng đối
tượng chịu chi phí như chi phí nhiên liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi

phí sản xuất chung. Loại chi phí này thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi phí.
- Chi phí gián tiếp là những chi phí phát sinh liên quan đến nhiều đối
tượng chịu chi phí khác nhau như chi phí NVL phụ, chi phí quảng cáo. Để xác
định chi phí cho từng đối tượng cần phải dùng phương pháp phân bổ gián tiếp
theo tiêu thức phân bổ thích hợp.
11
- Chi phí cơ hội là chi phí lớn nhất mà doanh nghiệp phải từ bỏ khi chọn
phương án thay vì phương án khác.
- Chi phí chênh lệch là những chi phí có phương án này nhưng không có
hoặc chỉ có một phần ở phương án khác. Chi phí chênh lệch là một căn cứ quan
trọng để lựa chọn phương án đầu tư hoặc phương án sản xuất kinh doanh.
- Chi phí chìm là loại chi phí mà doanh nghiệp phải gánh chịu bất kể chọn
phương án nào. Do đó chi phí chìm có ở mọi phương án nên không có tính
chênh lệch và không phải xét đến khi so sánh lựa chọn phương án.
Để phục vụ yêu cầu quản trị và cung cấp thông tin cho quản lý thì chi phí
sản xuất luôn được nhìn nhận đánh giá ở hai góc độ là kế toán tài chính và kế
toán quản trị.
Kế toán tài chính Kế toán quản trị
- Đặt trọng tâm vào việc ghi chép tổng
hợp các nghiệp vụ kinh tế phát sinh để
phục vụ cho quá trình lập các báo cáo
tài chính theo quy định
- Đặt trọng tâm vào việc giải quyết các
vấn đề quản trị trong doanh nghiệp
- Phản ánh sự hình thành và vận động
của tài sản trong một đơn vị cụ thể,
cung cấp cho quản lý doanh nghiệp và
những người bên ngoài doanh nghiệp
có nhu cầu sử dụng các báo cáo đó
- Thiết kế thông tin kế toán nhằm cung

cấp cho các nhà quản trị dùng vào việc
điều hành, hoạch định và ra các quyết
định kinh doanh
- Chi phí được ghi nhận là những phí tổn
thực tế phát sinh gắn liền với hoạt động
của doanh nghiệp. Nó được định lượng
bằng một lượng tiền chi ra, một mức
giảm sút giá trị tài sản, một khoản nợ
- Chi phí có thể là những phí tổn thực
tế phát sinh trong một hợp đồng sản
xuất kinh doanh, những phí tổn mất đi
do lựa chọn phương án, hy sinh cơ hội
kinh doanh
- Chi phí được đặt ra trong quan hệ với
tài sản, nguồn vốn của doanh nghiệp và
thường đảm bảo bởi những chứng từ
chứng minh là phí tổn thực tế trong hoạt
động sản xuất kinh doanh
- Chi phí trong kế toán quản trị chú
trọng đến sự lựa chọn so sánh mục tiêu
theo mục đích sử dụng, ra quyết định
kinh doanh hơn là chú trọng vào chứng
cứ
1.2.2 Giá thành dịch vụ vận tải
Giá thành vận tải là toàn bộ chi phí vận tải của doanh nghiệp bỏ ra để hoàn
thành khối lượng dịch vụ vận tải hoặc công việc trong kỳ.
12
Giá thành vận tải là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh chất lượng công tác
quản lý của doanh nghiệp vận tải. Thông qua chỉ tiêu giá thành có thể xác định
được hiệu quả của việc sử dụng nguồn nhân tài, vật lực trong doanh nghiệp,

cũng như đánh giá một cách có cơ sở các biện pháp tổ chức quản lý, kỹ thuật mà
doanh nghiệp đã thực hiện trong quá trình hoàn thành các dịch vụ cho khách
hàng. Giá thành vận tải còn là căn cứ để lập giá trị kinh doanh vận tải, là xuất
phát điểm để xác định giá cả cước phí vận tải.
Trong nền kinh tế thị trường, sự hoạt động đa dạng của các loại hình vận
tải thuộc các thành phần kinh tế khác nhau đã dẫn đến sự cạnh tranh để chiếm
ưu thế trên thương trường của mỗi doanh nghiệp. Điều đó đòi hỏi doanh nghiệp
muốn tồn tại và phát triển cần phải phấn đấu hạ giá thành và tăng chất lượng
dịch vụ vận tải nhằm mục đích thu lợi nhuận tối đa. Phân tích và đánh giá là
cách tốt nhất để biết nguyên nhân và nhân tố làm cho chi phí biến động, ảnh
hưởng tới giá thành.
- Phân loại giá thành vận tải
• Giá thành kế hoạch
Trước khi thực hiện một hoạt động kinh doanh nào đó nhà doanh nghiệp
phải tự tính xem họ được hưởng bao nhiêu lợi nhuận bằng cách dự tính khoản
thu nhập và khoản chi phí, so sánh gữa thu nhập và khoản chi phí để biết kết
quả. Giá thành kế hoạch là giá thành được tính toán trước khi tiến hành hoạt
động sản suất kinh doanh trên cơ sở các chỉ tiêu kế hoạch hay dự toán chi phí về
sản lượng.
Trong điều kiện kinh doanh theo cơ chế thị trường, vấn đề kế hoạch giá
thành là một trong những mục tiêu quan trọng của hệ thống chỉ tiêu kế hoạch
tác nghiệp, giúp cho doanh nghiệp có biện pháp cụ thể để phấn đấu hạ giá
thành sản phẩm.
• Giá thành định mức
Trong quản lý chi phí và giá thành sản phẩm nói chung, chi phí và giá
thành dịch vụ vận tải nói riêng, các nhà doanh nghiệp đều phải quan tâm đến
vấn đề định mức chi phí và định mức kinh tế kỹ thuật khác được Nhà nước hoặc
ngành chủ quản quy định sẽ là cơ sở để quản lý đúng đắn chi phí và giá thành.Vì
vậy giá thành định mức là thước đo chuẩn xác để xác định kết quả việc tiết kiệm
13

hay lãng phí.
• Giá thành thực tế của dịch vụ hoàn thành
Sau khi hoàn thành dịch vụ vận tải, bộ phận tính toán tất cả những chi phí
doanh nghiệp đã bỏ ra để hoàn thành khối lượng dịch vụ vận tải trong kỳ trên
cơ sở các chi phí thực tế đã được tập hợp và phân bổ cho từng lao động vận tải,
kế toán cần phân biệt hai loại giá thành thực tế đã được tập hợp và phân bổ cho
từng hoạt động vận tải.
+ Giá thành sản xuất dịch vụ: loại giá thành này bao gồm những chi phí
trực tiếp (nguyên vật liệu trực tiếp, nhân công trực tiếp) và chi phí sản xuất
chung không bao gồm chi phí quản lý doanh nghiệp phân bổ cho dịch vụ hoàn
thành.
+ Giá thành dịch vụ toàn bộ dịch vụ vận tải hoàn thành: bao gồm giá
thành sản xuất dịch vụ và chi phí quản lý doanh nghiệp phân bổ cho dịch vụ
hoàn thành.
Do đặc điểm riêng của hoạt động dịch vụ vận tải, quá trình sản xuất dịch
vụ và quá trình tiêu thụ không thể tách rời nhau nên không phát sinh chi phí bán
hàng riêng.
1.2.3 Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành vận tải
Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là hai mặt khác nhau của một quá
trình sản xuất, một bên là các yếu tố chi phí “đầu vào”, một bên là kết quả sản
xuất “đầu ra” Chúng có quan hệ tỷ lệ thuận với nhau vì chi phí càng thấp thì giá
thành sản phẩm càng hạ và ngược lại. Hai chỉ tiêu này có cùng nguồn gốc nhưng
chúng có hình thái và phạm vi biểu hiện khác nhau.
Chi phí sản xuất được sản xuất được tính trong phạm vi giới hạn của một
kỳ kinh doanh nhất định. Chi phí sản xuất trong kỳ trong từng kỳ kế toán có
liên quan đến sản phẩm dịch vụ đã hoàn thành trong kỳ và sản phẩm dở
dang cuối kỳ.
Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm có thể khác nhau về mặt lượng là do
những nguyên nhân sau đây:
- Giá thành sản phẩm có thể bao gồm cả chi phí đã phát sinh ở những kỳ kinh

doanh trước, được phân bổ cho giá thành kỳ này.
- Giá thành sản phẩm có thể bao gồm cả chi phí đã phát sinh ở những kỳ kinh
14
doanh trước, được phân bổ cho giá thành kỳ này.
- Giá thành sản phẩm có thể bao gồm cả những chi phí chưa phát sinh nhưng
được dự tính tất yếu sẽ phải chi, được doanh nghiệp lập kế hoạch và tiến hành
trích trước vào giá thành kỳ này.
- Giá thành sản phẩm có thể bao gồm chi phí phát sinh ở kỳ này nhưng được
hạch toán ở kỳ này nhưng được hạch toán bù đắp cho khoản chi phí đã trích
thuộc các kỳ kinh doanh trước đó.
Trong ngành kinh doanh dịch vụ vận tải, các khoản chi phí trích trước và
chi phí chờ phân bổ thường phát sinh rất lớn, do tính chất đặc thù của ngành là
giá trị phương tiện vận tải phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ
vận tải có giá trị rất lớn, cần phải có kế hoạch trích trước vào chi phí sửa chữa
lớn vào kinh doanh để thực hiện hoạt động đầu tư cũng như không phân bổ chi
phí một lúc vào kết quả kinh doanh mà phải phân ra nhiều kỳ.
1.3 Đối tượng kế toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành sản
phẩm trong các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ vận tải
1.3.1 Đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành
sản phẩm
1.3.1.2 Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất
Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là một giới hạn nhất định về điểm phát
sinh hoặc đối tượng gánh chịu chi phí mà chi phí được tập hợp theo đó. Những
sản phẩm, lao vụ của doanh nghiệp được sản xuất, thực hiện ở các phân xưởng,
bộ phận khác nhau theo các quy trình sản xuất của doanh nghiệp. Do đó chi phí
sản xuất phát sinh ở các địa điểm khác nhau, cần được tập hợp theo các yếu tố,
khoản mục chi phí cho những phạm vi giới hạn nhất định để phục vụ cho việc
tính giá thành sản phẩm.
Xác định đúng đắn đối tượng hạch toán chi phí sản xuất là điều kiện để
thực hiện tốt công tác chi phí sản xuất.

Việc xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất cần dựa trên các căn
cứ sau:
- Đặc điểm tổ chức sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp (quy trình sản
xuất khép kín hay phân đoạn, sản xuất một hay nhiều loại sản phẩm, có một hay
nhiều phân xưởng).
15
- Yêu cầu thông tin của công tác quản lý và trình độ quản lý của doanh
nghiệp tuỳ thuộc vào đặc điểm cụ thể của từng doanh nghiệp mà đối tượng hạch
toán chi phí có thể là:
+ Từng chi tiết, bộ phận sản phẩm, từng sản phẩm riêng biệt, nhóm sản
phẩm hay đơn hàng.
+ Từng phân xưởng, bộ phận, giai đoạn công nghệ sản xuất.
+ Toàn bộ quy trình sản xuất sản phẩm.
Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất tuỳ thuộc vào yêu cầu quản lý chi phí
giá thành cũng như trình độ quản lý chung và đặc điểm tổ chức hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp mà xác định hạch toán chi phí sản xuất cho thích hợp.
Trong ngành vận tải biển, đối tượng tập hợp chi phí có thể theo chuyến tàu hoặc
từng tàu hoặc có thể hạch toán chi phí trong phạm vi tính toán doanh nghiệp.
1.3.1.3 Đối tượng tính giá thành
Xác định đối tượng tính giá thành là công việc đầu tiên trong công tác tính
giá thành vận tải. Khác với doanh nghiệp sản xuất, do đặc điểm hoạt động kinh
doanh vận tải, mà đối tượng lao động trong các doanh nghiệp vận tải có tính
chất riêng biệt. Ngoài vật tư phục vụ cho phương tiện vận tải hoạt động và phục
vụ quản lý doanh nghiệp, đối tượng quản lý trong các doanh nghiệp còn là hàng
hoá hành khách cần di chuyển.
Kết quả của quá trình kinh doanh vận tải là khối lượng hàng hoá và hành
khách được di chuyển từ địa điểm này sang địa điểm khác, doanh nghiệp sẽ thu
được một khoản tiền nhất định gọi là thu nhập. Chi phí vận tải để hoàn thành
việc di chuyển khối lượng hàng hoá, hành khách được gọi là giá thành vận tải.
Như vậy, trong doanh nghiệp vận tải đối tượng tính giá thành vận tải được

xác định là những sản phẩm hoàn thành (tấn.km- đối với vận tải bộ và tấn.hải lý-
đối với vận tải biển). Đối tượng tính giá thành này hoàn toàn phù hợp với đối
tượng hạch toán chi phí sản xuất theo từng phương tiện vận tải.
Đơn vị tính giá thành phải là đơn vị được thừa nhận phổ biến trong nền
kinh tế quốc dân, phù hợp với tính chất ngành nghề kinh doanh. đơn vị tính giá
thực thành tế phải thống nhất với đơn vị tính đã ghi trong kế hoạch của doanh
nghiệp. Trong các doanh nghiệp vận tải biển, đơn vị tính giá thành thường là:
đồng/ tấn. hải lý.
16
Trên cơ sở đối tượng tính giá thành đã xác định và căn cứ vào chu kỳ kinh
doanh, đặc điểm tổ chức sản xuất, tính chất ngành nghề mà xác định kỳ tính giá
thành để cung cấp số liệu về giá thành vận tải một cách kịp thời phục vụ cho
công tác quản lý doanh nghiệp. Kỳ tính giá thành được hiểu là thời kỳ mà bộ
phận kế toán giá thành cần phải tổ chức tiến hành công việc tính giá thành cho
các đối tượng tính giá thành. Việc xác định kỳ tính giá thành cần thiết để tổ
chức công tác tính giá thành được khoa học, hợp lý kịp thời và chính xác. Đối
với doanh nghiệp vận tải, kỳ tính giá thành là định kỳ hàng tháng vào cuối
tháng, phù hợp với kỳ báo cáo hoặc kết thúc với kỳ vận chuyển.
Xác định đối tượng chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành chính xác,
phù hợp sẽ giúp cho doanh nghiệp tổ chức tốt hệ thống sổ sách, sử dụng phương
pháp kế toán đúng và đạt hiệu quả nhằm xác định tỷ trọng và xu hướng thay đổi
từng yếu tố chi phí, kiểm tra giá trị vận tải chính xác và xác định được nhiệm vụ
cụ thể của kế toán trong việc phấn đấu hạ giá thành vận tải của doanh nghiệp.
1.3.2 Phương pháp kế toán chi phí sản xuất và phương pháp tính giá thành
dịch vụ vận tải
1.3.2.1 Phương pháp tập hợp chi phí sản xuất
Phương pháp tập hợp chi phí sản xuất được sử dụng để tập hợp và phân
bổ chi phí sản xuất cho từng đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất đã xác
định. Tùy theo từng loại chi phí và điều kiện cụ thể, kế toán có thể vận dụng
phương pháp tập hợp trực tiếp hay phân bổ gián tiếp.

- Phương pháp tập hợp trực tiếp áp dụng trong trường hợp chi phí sản
xuất phát sinh có liên quan trực tiếp đến từng đối tượng kế toán tập hợp chi phí
sản xuất riêng biệt. Theo phương pháp này, ngay từ đầu, chi phí sản xuất phát
sinh được tập hợp riêng cho từng đối tượng tập hợp chi phí sản xuất trên chứng
từ ban đầu, sau đó căn cứ vào chứng từ thực hiện hạch toán trực tiếp chi phí sản
xuất cho từng đối tượng riêng biệt.
- Phương pháp phân bổ gián tiếp áp dụng trong trường hợp chi phí sản
xuất phát sinh có liên quan đến nhiều đối tượng tập hợp chi phí sản xuất. Theo
phương pháp này kế toán căn cứ vào chứng từ gốc tập hợp chi phí sản xuất phát
sinh cho nhiều đối tượng theo tong nơi phát sinh chi phí. Sau đó lựa chọn tiêu
17
thức phân bổ thích hợp để phân bổ các chi phí này cho từng đối tượng chịu chi
phí như sau:
C
i
= T
i
x H
Với H = C/

T
i
Trong đó: C
i
: chi phí phân bổ cho đối tượng i
T
i
: đại lượng tiêu chuẩn cần phân bổ của đối tượng
C: tổng chi phí sản xuất.
Với phương pháp này, độ chính xác của chi phí sản xuất tính cho từng

đối tượng tập hợp chi phí sản xuất phụ thuộc vào tính hợp lí của tiêu chuẩn phân
bổ được lựa chọn. Tùy thuộc vào từng loại chi phí sản xuất cần phân bổ và điều
kiện của từng doanh nghiệp để lựa chọn tiêu thức phân bổ hợp lí nhất.
1.3.2.2 Phương pháp tính giá thành sản phẩm
Phương pháp tính giá thành là phương pháp sử dụng số liệu chi phí sản
xuất, dịch vụ đã tập hợp được trong kỳ để tính toán giá thành và giá thành đơn
vị, theo từng khoản mục chi phí quy định cho các đối tượng giá thành. Doanh
nghiệp căn cứ vào đặc điểm tổ chức sản xuất, quy trình công nghệ , đặc điểm
sản phẩm, yêu cầu quản lý sản suất và quản lý giá thành. Trong kinh doanh vận
tải thường áp dụng phương pháp tính giá thành sau:
@ Phương pháp tính giá thành giản đơn
Phương pháp này còn gọi là phương pháp trực tiếp, được áp dụng rộng rãi
trong các doanh nghiệp kinh doanh vận tải có quy trình công nghệ giản đơn như
vận tải bộ, vận tải biển, vận tải hàng không. Cuối cùng trên cơ sở số liệu về chi
phí vận tải đã được tập hợp trong kỳ và giá trị nhiên liệu còn tồn trên phương
tiện vận tải đầu kỳ và cuối kỳ để tính giá thành
Giá thành
sản phẩm
=
Chi phí nhiên
liệu còn ở
phương tiện
đầu kỳ
+
Chi phí vận tải
phát sinh trong
kỳ
-
Chi phí nhiên
liệu còn ở

phương tiện
cuối kỳ
Giá thành đơn vị =
Tổng giá thành
Khối lượng vận tải hoàn thành
18
@ Phương pháp tính giá thành định mức
Phương pháp này được áp dụng với những doanh nghiệp đã có các định
mức kinh tế kỹ thuật tương đối ổn định và hợp lý, chế độ quản lý theo định kỳ
mà được kiện toàn theo nề nếp, trình độ tổ chức và nghiệp vụ chuyên môn kế
toán tương đối cao, đặc biệt là thực hiện tốt chế độ hạch toán ban đầu.
Căn cứ vào định mức kinh tế kỹ thuật hiện hành và dự toán chi phí được
duyệt để tính giá thành của hoạt động vận tải.
Tổ chức hạch toán một cách riêng biệt số chi phí thực tế phù hợp với định
mức và số chi phí chênh lệch thoát ly định mức. Tập hợp riêng và thường xuyên
phân tích nguyên nhân những khoản chi phí thoát ly định mức để có biện pháp
khắc phục.
Khi có sự thay đổi định mức phải kịp thời tính toán lại giá thành định mức
và số chi phí chênh lêch do thoát ly định mức.
@ Phương pháp tính giá thành theo đơn đặt hàng:
Phương pháp này thường áp dụng với những doanh nghiệp vận tải hành
khách và hàng hoá theo lô hàng, theo hợp đồng. Đối tượng tính giá thành vận tải
là theo từng hợp đồng đặt hàng hoặc loạt hợp đồng. Kỳ tính giá thành phù hợp
với kỳ tính cung cấp dịch vụ. Khi nào thực hiện dịch vụ hoàn thành từng hợp
đồng đặt hàng hoặc hàng loạt hợp đồng đó. Khi có khách hàng hợp đồng đặt
hàng, kế toán phải trên cơ sở hợp đồng để mở bảng tính giá thành cho hợp đồng
đặt hàng đó. Cuối tháng hoặc kết thúc hợp đồng kinh tế tính toán, tập hợp chi
phí và tính giá thành căn cứ vào số liệu chi phí đã tập hợp được.
Trong kinh doanh vận tải hàng hoá, khi có khách hàng ký hợp đồng vận
chuyển hàng hoá thì kế toán có thể áp dụng phương pháp này. Đến khi hợp

đồng thực hiện xong, kế toán có thể xác định giá thành thực tế của hợp đồng,
trên cơ sở doanh thu và chi phí, kế toán sẽ tính được hợp đồng đó thực hiện
có hiệu quả không.
19
1.4 Nội dung kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm phục vụ
quản trị chi phí trong các doanh nghiệp vận tải
1.4.1 Xác định các trung tâm trách nhiệm chi phí và báo cáo bộ phận
Trung tâm trách nhiệm là một bộ phận trong một tổ chức hoạt động
mà nhà quản trị bộ phận chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động của bộ phận
mình với các nhà quản trị cấp cao. Trung tâm trách nhiệm được hình thành
từ đặc điểm tổ chức bộ máy hoạt động của từng doanh nghiệp và nó phụ
thuộc vào đặc điểm của hoạt động kinh doanh theo từng ngành nghề cụ thể.
Trung tâm trách nhiệm phát huy tác dụng khi cơ chế quản lý tài chính được
phân cấp cụ thể cho từng người, từng bộ phận gắn với trách nhiệm, nghĩa vụ
và quyền lợi trong từng hoạt động cụ thể. Thông thường, trong các đơn vị,
trung tâm trách nhiệm được chia thành các trung tâm sau: Trung tâm chi phí
như phân xưởng, trung tâm doanh thu như cửa hàng, đại lý, trung tâm đầu
tư, trung tâm lợi nhuận.
Trung tâm chi phí là một bộ phận trong cơ cấu sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp, là nơi phát sinh chi phí hay nói cách khác đây là một trung tâm
tiêu dùng nguồn lực để tạo ra các dịch vụ cung cấp cho các bộ phận khác nhau
mà không trực tiếp tiêu thụ hoặc chuyển hoá sản phẩm thành doanh thu và lợi
nhuận. Trung tâm trách nhiệm chi phí thường được hình thành tại các phân
xưởng, tổ sản xuất, đội sản xuất gắn với trách nhiệm của quản đốc phân xưởng,
tổ trưởng tổ sản xuất, đội trưởng đội sản xuất. Mục tiêu của trung tâm chi phí là
tối thiểu hoá chi phí. Đầu vào của trung tâm là các chỉ tiêu phản ánh các yếu tố
sản xuất như nguyên vật liệu, tiền công và tình hình sử dụng máy móc thiết bị
có thể được đo bằng những thước đo khác nhau. Đầu ra của trung tâm là các chỉ
tiêu phản ánh kết quả sản xuất như số lượng và chất lượng sản phẩm, chỉ tiêu chi
phí sản xuất và giá thành sản phẩm.

Kế toán trách nhiệm chi phí có nhiệm vụ kiểm soát các khoản mục, yếu tố
chi phí phát sinh theo các định mức và dự toán đã được xây dựng. Lập báo cáo
chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm theo yêu cầu quản trị. Phân tích sự biến
động của các định mức chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực
tiếp và chi phí sản xuất chung. Từ đó xác định những nguyên nhân ảnh hưởng
và đưa ra các biện pháp nhằm giảm chi phí thấp nhất.
20
Kết quả của trung tâm chi phí thường thể hiện trên các báo cáo chi phí của
trung tâm chi phí. Đối với nội bộ doanh nghiệp, thông tin chi phí chi tiết ở từng
trung tâm là một hệ thống thông tin hết sức quan trọng và hữu ích trong công tác
xây dựng kế hoạch và phân bổ nguồn lực, kiểm soát chi phí ở từng bộ phận và
cuối cùng là đánh giá thành quả của nhà quản lý.
Báo cáo chi phí của trung tâm chi phí thường là những báo cáo sau:
- Báo cáo chênh lệch chi phí
- Báo cáo chi phí sản xuất
- Báo cáo kết quả kinh doanh bộ phận
1.4.2 Định mức và dự toán chi phí sản xuất trong các doanh nghiệp kinh
doanh dịch vụ vận tải
Định mức chi phí sản xuất kinh doanh là cơ sở để lập dự toán chi phí cho
từng đơn vị dự toán. Như vậy, việc lập dự toán sản xuất kinh doanh phải căn cứ
vào định mức chi phí. Dự toán và định mức có sự khác nhau về phạm vi. Định
mức thì tính cho từng đơn vị, còn dự toán được lập cho toàn bộ sản lượng
haydoanh số cần thiết dự kiến sản xuất trong kỳ. Như vậy, giữa định mức và dự
toán có mối liên hệ và ảnh hưởng lẫn nhau. Nếu định mức xây dựng không hợp
lý và sát với thực tế thì dự toán lập trên cơ sở đó không có tính khả thi cao, giảm
tác dụng kiểm soát thực tế. Ngược lại, dự toán là cơ sở để đánh giá và kiểm tra
xem xét các định mức đã khoa học chưa để có các biện pháp hoàn thiện định
mức mới. Vì vậy, khi xây dựng định mức chi phí sản xuất phải tuân theo những
nguyên tắc và phương pháp nhất định.
Xây dựng định mức chi phí:

Khi xây dựng định mức chi phí sản xuất phải tuân theo nguyên tắc chung
là phải tìm hiểu, xem xét khách quan toàn bộ tình hình thực hiện chi phí sản xuất
đối với mỗi phương tiện vải về mặt hiện vật của kỳ trước, đánh giá chất lượng
dịch vụ và các vấn đề liên quan đến năng suất và hiệu quả lao động của doanh
nghiệp. Sau đó kết hợp những thay đổi về thị trường như quan hệ cung cầu, nhu
cầu đòi hỏi của khách hàng thay đổi về điều kiện kinh tế kỹ thuật bổ sung định
mức cho phù hợp với điều kiện và yêu cầu mới.
Hệ thống định mức tiêu chuẩn được xây dựng để phản ánh mức độ hoạt
động hiệu quả trong tương lại chứ không phải là các mức hoạt động đã qua. Để
21

×