Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Những đặc điểm xã hội của cá nhân ảnh hưởng đến mức thu nhập của hộ gia đình xã tân lập hiện nay (qua điều tra xã hội học tại xã tân lập mộc châu sơn la)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.59 KB, 29 trang )

Nguyễn Văn Sơn k48 xhh Báo cáo thực tập
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
Trường đại học khoa học xã hội và nhân văn
Khoa xã hội học

BÁO CÁO THỰC TẬP
ĐỀ TÀI:
NHỮNG ĐẶC ĐIỂM XÃ HỘI CỦA CÁ NHÂN ẢNH HƯỞNG ĐẾN
MỨC THU NHẬP CỦA HỘ GIA ĐÌNH XÃ TÂN LẬP HIỆN NAY
(Qua điều tra xã hội học tại xã Tân Lập - Mộc Châu - Sơn La)
Giảng viên hướng dẫn : Hoàng Hinh
Sinh viên thực hiện : Nguyễn Văn Sơn
Líp : K48 – XHH
Hà Nội 2007
MỤC LỤC
1
Nguyễn Văn Sơn k48 xhh Báo cáo thực tập
Trang
Phần mở đầu
LỜI CẢM ƠN
2
Nguyễn Văn Sơn k48 xhh Báo cáo thực tập
Để hoàn thành báo cáo này ngoài sự nỗ lực của bản thân, em đã được sự giúp
đỡ tận tình của cácThầy, Cô giáo trong khoa XHH trong quá trình đi thực tế tại xã
Tân Lập - Huyện Mộc Châu - Tỉnh Sơn La. Đặc biệt là thầy Hoàn Hinh giáo viên
hướng dẫn trực tiếp.
Vì hạn chế về thời gian và trình độ nên việc nghiên cứu của em không tránh
khỏi những thiếu sót rất mong được sự đóng góp ý kiến của thầy, cô và các bạn
sinh viên khoa XHH.
Nhân dịp này em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy, cô giáo trong
khoa đã giúp đỡ em hoàn thành báo cáo này


Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy giáo hướng dẫn
chính: G.V. Hoàng Hinh đã hướng dẫn em hoàn thành báo cáo thực tập này.
Hà Nội ngày 24 tháng 9 năm 2007
Nguyễn Văn Sơn
3
Nguyễn Văn Sơn k48 xhh Báo cáo thực tập
Phần mở đầu
1. 1.Tính cấp thiết của đề tài
Có thể nói thu nhập là vấn đề thu hút sự quan tâm của nhiều người nghiên
cứu, cho dù đó là quốc gia giàu mạnh hay nghèo đói cho đến những địa phương
nhỏ. Bởi vì, nó chính là một trong những chỉ báo quan trọng có ý nghĩa kinh tế để
đánh giá mức sống, sự phát triển nguồn nhân lực (HDI) của mỗi khu vực địa lý
cũng như khía cạnh nào đó là nguyên nhân của nhiều vấn đề xã hội khác.
Thu nhập cao hay thấp luôn là chỉ báo quan trọng nhất khi đánh giá về sự
giàu nghèo. Khái niệm về tình trạng giàu nghèo dựa trên thu nhập, mức sống đang
ngày càng được nhiều nhà nghiên cứu sử dụng trong quá trình nghiên cứu.
Việt Nam là một nước nông nghiệp đang phát triển, số dân nông thôn chiếm
khoảng 76% dân số cả nước, do đó quan điểm về CNH - HĐH của Đảng và Nhà
nước ta còng là Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn.
Là một nước nông nghiệp đang phát triển với thu nhập bình quân đầu người
rất thấp, xấp xỉ 350 USD/người/năm. Do thu nhập giữa các hộ gia đình nông thôn
và thành thị có sự chênh lệch, thậm chí ngay trong số các hộ gia đình nông thôn với
nhau có khoảng cách thu nhập chênh lệch đáng kể.
Mô tả và nghiên cứu về mức thu nhập ở Việt Nam đã và đang được nhiều
tổ chức chính phủ và tư nhân quan tâm. Đã có những tài liệu về điều tra mức sống
UNDP và SIDA Thuỵ Điển tài trợ điều tra của Tổng cục Thống kê, báo cáo của
Ngân hàng thế giới và nhiều ban nghiên cứu thực địa và kinh nghiệm liên quan của
chính phủ, các tổ chức Liên Hợp Quốc và các nhà tài trợ khác
Muốn tăng tỷ trọng GDP của cả nước và dần dần giảm bớt tình trạng nghèo
đói cần phải có một sự quan tâm thích đáng đến vấn đề thu nhập, đặc biệt là đối với

người nông dân. “không phải tất cả đói nghèo đều do mất mùa hay đau ốm gây lên.
Đói nghèo còn có thể xuất hiện do thiếu lương thực và thu nhập ngay ở năm bình
ổn” (Liên Hợp Quốc – Xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam).
4
Nguyễn Văn Sơn k48 xhh Báo cáo thực tập
Trong những năm qua để đạt được mục tiêu “dân giàu nước mạnh, xã hội
công bằng văn minh” Đảng và nhà nước đã có rât nhiều chính sách hỗi trợ cho
nông thôn: Đầu tư vốn, khuyến nông v.v Tuy nhiên sự khởi sắc diễn ra không
đáng kể, thậm chí có nhiều nghiên cứu đã kết luận: Trên thực tế mức sống của một
số nhóm dân cư có thể đã có mức thu nhập dưới mức nghèo đói bình thường.
Vì thế vấn đề thu nhập của các hộ gia đình nông thôn miền núi đã và đang
thu hút rất nhiều sự quan tâm nghiên cứu của các nhà khoa học, các nhà quản lý và
hoạch định chính sách.
Việt Nam sau hơn 20 năm đổi mới nền kinh tế dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam đã có nhiều khởi sắc, đời sống kinh tế - chính trị, văn hoá có
sự tăng trưởng vượt bậc, như vậy quá trình đổi mới đã chứng minh cho thế lực của
đất nước nói chung và của từng địa phương nói riêng ngày càng lớn mạnh. đặc biệt
các địa phương trong cả nước được quan tâm hơn trong việc khai thác tài nguyên
thiên nhiên và nguồn lực con người để phát triển kinh tế địa phương. Sơn La mấy
năm trước nằm trong danh sách những tỉnh đặc biệt khó khăn , thì nay đã từng
bước thay đổi do nhà nước chính thức phê duyệt xây dựng nhà máy thuỷ điện Sơn
La. đây là bước ngoặc trong quá trình đổi mới đã chứng minh cho thế lực để đảy
nhanh tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Tân Lập là một xã nằm trong huyện Mộc Châu thuộc tỉnh Sơn La có 8.593
nhân khẩu. Với nền kinh tế đang phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá cho thị
trường. Theo báo cáo năm 2005 tổng sản lượng lương thực có hạt toàn xã tăng 2,4
lần đạt trên 4.457 nghìn tÊn / năm. Theo số liệu cho thấy hiện trạng nhà ở chủ yếu
là nhà gỗ mái p rô xi măng chiếm tới 89%. Khi đi sâu vào tìm hiểu thực tế nguồn
thu nhập của người dân mới chủ yếu từ nông nghiệp. Trong số được hỏi có 97,2%
số người được hỏi cho biết nguồn thu nhập chính chủ yếu là trồng trọt và chăn

nuôi, ngoài ra còn thu nhập từ một số nguồn khác như từ dịch vụ, buôn bán và các
nghề khác tuy có nhiều nguồn thu từ các công việc khác nhau nhưng mức thu
5
Nguyễn Văn Sơn k48 xhh Báo cáo thực tập
nhập và đời sống của người dân ở đây vẫn rất thấp. Độ chênh lệch hay sự phân cực
về thu nhập giữa hộ giàu và hộ nghèo là rất lớn. Các hộ sản xuất nông nghiệp có
mức thu nhập thấp hơn nhiều so với các nhóm hộ sản xuất phi nông nghiệp, và độ
chênh lệch thu nhập giữa các hộ làm nông nghiệp với nhau cũng có mức thu nhập
trênh lệch khá rõ.
Do vậy, tôi chọn đề tài “Những đặc điểm xã hội của cá nhân ảnh hưởng đến
mức thu nhập của hộ gia đình Tân Lập hiện nay" làm đề tài nghiên cứu.
2. ý nghĩa khoa học và thực tiễn
- ý nghĩa khoa học: Đề tài đã ứng dụng một số lý thuyết của khoa học xã
hội nói chung vào nghiên cứu thực tiễn để làm rõ đặc điểm xã hội của cá nhân tới
thu nhập của hộ gia đình. Và kết quả nghiên cứu sẽ góp phần làm tăng thêm tính đa
dạng trong nghiên cứu thực nghiệm cho ngành XHH, kinh tế học
- ý nghĩa thực tiễn: Nghiên cứu chỉ ra được thực trạng mức thu nhập của các
hộ gia đình ở xã Tân Lập một cách cụ thể nhất. Đồng thời nghiên cứu còn phân tích
sự vận động và biến đổi của nó trong quá trình CNH- HĐH.
Câu hỏi đặt ra ở đây là ảnh hưởng thu nhập người dân ở đây như thế nào?
Quá trình CNH-HĐH tác động như thế nào đến thu nhập của các hộ gia đình ở xã
Tân Lập hiện nay?
3. Đối tượng nghiên cứu. Khách thể nghiên cứu. Phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu.
Những đặc điểm xã hội cá nhân chủ hộ hoặc đại diện cho hộ là lao động
chính có đóng góp cho thu nhập của hộ ảnh hưởng đến mức thu nhập của hộ gia
đình xã Tân Lập hiện nay.
3.2. Khách thể nghiên cứu.
Những người dân đang sống và lao động ở xã Tân lập - Mộc Châu - Sơn La
hiện nay.

3.3. Phạm vi nghiên cứu:
6
Nguyễn Văn Sơn k48 xhh Báo cáo thực tập
Bước đầu tìm hiểu một số đặc điểm xã hội cá nhân là chủ hộ hoặc đại diện
của hộ là lao động chính có đóng góp chủ yếu cho thu nhập trong các hộ gia đình ở
địa bàn xã Tân Lập - Mộc Châu - Sơn La.
Thời gian thực hiện nghiên cứu từ ngày 12/5/2007 đến ngày 19/5/2007
4. Mục tiêu nghiên cứu.
Báo cáo thực tập này hướng vào thực hiện một số mục tiêu sau:
- Mô tả về thực trạng thu nhập của các hộ gia đình đồng thời chỉ rõ sự phân
hoá về mức độ thu nhập của các hộ gia đình ở xã Tân Lập, huyện Mộc Châu hiện
nay.
- Chỉ ra và phân tích một số đặc điểm xã hội của cá nhân có ảnh hưởng đến
thu nhập như: nghề nghiệp, học vấn, giới tính, tuổi tác, sức khoẻ, dân trí, đảng phái,
tôn giáo, tình trạng hôn nhân Phân tích mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đó so
với mức thu nhập của các hộ gia đình xã Tân Lập.
- Đưa ra một số ý kiến, giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao mức thu
nhập và giảm bớt sự phân hoá giữa các hộ gia đình ở. Tân Lập
5. Phương pháp nghiên cứu.
5.1. Phương pháp luận nghiên cứu của đề tài
Do đặc thù của đÒ tài nghiên cứu báo cáo dựa trên cơ sở của việc phân tích
cấu trúc và sử dụng các quy luật của xã hội học kinh tế để phân tích và nghiên cứu.
Lý thuyết Cấu trúc coi đối tượng như một hệ thống có cấu trúc, đề tài dựa
vào đó lấy hộ gia đình và cá nhân thành viên là chủ thể thu nhập, từ đó xét rộng ra
cơ cấu các mối liên hệ vững chắc các thành tố trong hệ thống xã hội: Nghề nghiệp,
học vấn, giới tính, tuổi tác. Đây là những yếu tố của cấu trúc tăng thu nhập của các
hộ gia đình cũng như quy định mức thu nhập của các chủ thể. Từ cơ cấu đó chỉ ra
được các nguyên nhân của mức thu nhập cao hay thấp. Các yếu tố, nguyên nhân
này được xem như những biến số độc lập.
5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể

7
Nguyễn Văn Sơn k48 xhh Báo cáo thực tập
Trong nghiên cứu này có dử dụng các phương pháp sau để nghiên cứu:
1) Phương pháp chọn mẫu: lấy 254 Bảng hỏi được làm sẵn để thu thập thông
tin, trình bầy rõ về kích thước cỡ mẫu, sự phân bố tại các điểm điều tra
2) Phương pháp phỏng vấn theo bảng hỏi: Phương pháp này được sử dụng để
phỏng vấn trên 200 hé gia đình theo bảng hỏi được soạn thảo sẵn.
3) Phương pháp phỏng vấn sâu 3 người do cá nhân thực hiện nhằm khai thác
thông tin sâu định tính giúp cho báo cáo có tính thuyết phục và có chiều sâu.
4) Phương pháp phân tích tài liệu được sử dụng những tài liệu có liên quan
đến đề tài nghiên cứu như các số liệu thực tế thu thập được sử lý và phân tích nhằm
đem lại hiệu quả cao nhất cho đề tài.
5) Phương pháp quan sát: Quan sát đời sống của các hộ gia đình qua tiện nghi
sinh hoạt, nhà ở, lao động sản xuất.
6. Giả thuyết và khung lý thuyết.
6.1 Giả thuyết nghiên cứu
- Có sự khác biệt về mức thu nhập giữa các hộ gia đình, sự khác biệt đó
cũng được thể hiện như tháp phân tầng về thu nhập của Miền núi. Trong đó có một
tỷ lệ những hộ rất giàu và rất nghèo tương đối xấp xỉ nhau. Mức chênh lệch về thu
nhập giữa hai loại hộ này rất lớn, làm nên sự phân hoá giàu nghèo giữa các hộ gia
đình.
- Mức thu nhập của các hộ gia đình ở đây chịu ảnh hưởng bởi một số nhân
tố sau:
* Nghề nghiệp và việc làm: Những hộ gia đình có nhiều nghề phụ, nhiều
nguồn thu nhập có thu nhập cao hơn những hộ gia đình có nguồn thu từ làm ruộng
và chăn nuôi.
* Giới tính: Mức thu nhập ở đây được đo bằng đơn vị hộ Gia đình. Do đó
việc phân biệt Nam – Nữ rất khó định vị, tuy nhiên thực tế Nữ giới chỉ có nguồn
8
Nguyễn Văn Sơn k48 xhh Báo cáo thực tập

thu nhập từ làm ruộng và chăn nuôi. Bởi vậy có đóng góp rất thấp thu nhập gia
đình so với Nam giới. Nhiệm vụ của họ là đảm bảo lương thực đủ ăn.
* Học vấn: Do mặt bằng dân trí ở đây nhìn chung là thấp và ngang nhau, do
đó mức chênh lệnh không cao, nhưng một quy luật chung những người có trình độ
học vấn cao thì mức thu nhập cũng cao hơn những người Ýt học, nhận thức kém.
* Tuổi tác: Tuổi tác cũng đóng vai trò quan trọng trong việc tạo thu nhập.
Thanh niên tuổi từ 18 đến 25 có đóng góp nhiều. Tuy nhiên họ không phải là những
người giàu có. Ngược lại những người ở độ tuổi 36- 49 lại có mức thu nhập cao
nhất.
- Ngoài ra một số nhân tố khác nhu ruộng đất, vốn kỹ thuật cũng góp phần
là những nguyên nhân ảnh hưởng đến mức thu nhập của hộ gia đình xã Tân Lập mà
trong khuôn khổ hạn hẹp báo cáo chỉ đề cập một cách sơ lược.
9
Nguyn Vn Sn k48 xhh Bỏo cỏo thc tp
6.2 Khung lý thuyt.
10
Điều kiện kinh tế
xã hội
Giới tính KhácTuổiHọc vấn
Nghề nghiệp và
việc làm
Mức thu nhập
Nguyễn Văn Sơn k48 xhh Báo cáo thực tập
Phần nội dung chính
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lý luận:
1.1. Phương pháp luận:
Những luận điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử được sử dụng làm phương pháp luận nhận thức để có được cách nhìn tổng
thể về vấn đề nghiên cứu.

Chủ nghĩa duy vật biện chứng yêu cầu nhìn các hiện tượng xã hội trong mối
quan hệ nhân quả: Đó là Mọi hiện tượng trong xã hội không tồn tại độc lập mà luôn
tương tác lẫn nhau, ảnh hưởng lẫn nhau. Chính vì thế khi nghiên cứu các hiện
tương xã hội hay vấn đề xã hội cần đặt nó trong môi trường xác định, trong sự
tương tác giữa hiện tượng hoặc vấn đề đó với các hiện tượng hoặc vấn đề xã hội
khác.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử yêu cầu nhìn hiện tượng xã hội trong một quá
trình: Mọi hiện tượng xã hội không tồn tại một cách bất biến mà luôn vận động có
sự hình thành, phát triển và tiêu vong. Do đó khi nghiên cứu một hiện tượng hoặc
vấn đề xã hội nào thì cần đặt nó trong một quá trình và đặt nó trong mét giai đoạn
cụ thể.
Vậy khi nghiên cứu về đời sống sinh hoạt của các hộ gia đình ở Xã Tân Lập
- Huyện Mộc Châu - Tỉnh Sơn La thì cần phải xem xét trên quân điểm lịch sử cụ
thể. Chú ý đến điều kiện kinh tế xã hội của địa phương, qua đó thấy được kinh tế xã
hội ảnh hưởng đến điều kiện sinh hoạt của các hộ gia đình ở đây.
Ngoài cơ sở lý luận chung, chúng tôi sử dụng một sè lý thuyết: Vị thế - Vai
trò, Cấu trúc - Chức năng, hành động xã hội và tương tác xã hội để lý giải vai trò
cần nghiên cứu
11
Nguyễn Văn Sơn k48 xhh Báo cáo thực tập
1.2. Một số khái niệm liên quan.
* Cá nhân: Về mặt xã hội học chúng ta không đề cập đến con người nói
chung trừu tượng với mặt bản chất, nguồn gốc của nó như trong triết học, mà chúng
ta đề cập đến con người với tư cách là các cá thể riêng biệt, độc lập - đó là cá nhân.
Cá nhân là khái niệm cơ bản, đầu tiên quan trọng nhất của xá hội học bởi vì
xét cho đến tận cùng thì sẽ không có xã hội loài người nếu như không có con người
thể hiện ra với tư cách là cá thể độc lập. Đối tượng chính của xã hội học là các mối
quan hệ xã hội, trong xã hội tồn tại 4 mối quan hệ lớn: con người – tự nhiên, con
người – xã hội, con người – con người, chủ thể – khách thể. Tất cả các mối quan hệ
đó xét cho đến cùng cũng bắt đầu xuất phát từ cá nhân. Mối quan hệ giữa các cá

nhân trong hoạt động xã hội, trong giao tiếp, trong lao động sản xuất mà kiến tạo
nên tất cả các mối quan hệ xã hội rộng lớn. Nói tóm lại nếu không có các nhân và
các mối quan hệ của nó thì cũng không có nhóm xã hội, giai cấp, dân tộc. Vì thế
khái niệm xuất phát ban đầu để nghiên cứu cơ cấu xã hội là Cá nhân.
* Thu nhập:
Khái niệm thu nhập :
- Thu nhập là Số lượng tiền, hàng hoá hoặc dịch vụ mà mỗi cá nhân, công
ty hay một nền kinh tế nhận trong một khoảng thời gian nhất định thường tính theo
(tháng, Quý, năm ).
Từ định nghĩa trên cho ta thấy khi nói đến thu nhập thường người ta nói đến
hai khía cạnh:
Phương thức thu nhập: Thu nhập bằng gì, tiền hay sản phẩm
Mức thu nhập: Cao hay thấp, so sánh chung trong xã hội hoặc cụ thể trên
mỗi địa bàn.
* Mức thu nhập.
12
Nguyễn Văn Sơn k48 xhh Báo cáo thực tập
Mức là cái xác định về mặt nhiều Ýt, làm căn cứ để nhằm đạt tới trong hoạt
động, để làm chuẩn đánh giá, so sánh ( Từ điển Tiếng Việt 1994 – Trang 163).
Vậy có thể hiểu mức thu nhập là các khoản thu nhập được định mức quy
đổi ra tiền tệ hoặc sản phẩm nhằm so sánh lẫn nhau, mức thu nhập thường được
đánh giá là cao hoặc thấp.
1.3. Cơ cấu thu nhập.
Cơ cấu là cách tổ chức các thành phần nhằm thực hiện chức năng của chỉnh
thể
Như vậy có thể hiểu cơ cấu thu nhập trên bình diện theo các loại tổ chức
thành phần. Tuy nhiên ở đây xét chủ thể của thu nhập là các hộ gia đinh, các nhóm
xã hội tạo nên thu nhập. Vậy cơ cấu của nhóm xã hội đó là các yÕu tố xã hôi như
nghề nghiệp giới tính, tuổi tác, học vấn
1.4. Khái niệm gia đình.

Gia đình là một thiết chế xã hội đặc thù, một nhóm xã hội nhỏ mà các thành
viên của nó gắn bó với nhau bởi các mối quan hệ hôn nhân huyết thống hoặc quan
hệ hôn nhân bởi tính cộng đồng về sinh hoạt, trách nhiệm đạo đức nhằm đáp ứng
những nhu cầu riêng của các thành viên cũng như để thực hiện tính tất yếu của xã
hội về tái sản xuất ra con người.
1.5. Khái niệm hộ gia đình.
Hé gia đình đó là một đơn vị kinh tế độc lập bao gồm những người cùng
chung sống dưới một mái nhà và chia sẻ với nhau những nguồn thu nhập đảm bảo
tồn tại và tái sinh sản.
CHƯƠNG 2: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM
1. Vài nét về địa bàn nghiên cứu.
Huyện Mộc Châu là một huyện miền núi của Tỉnh Sơn La với hai thị trấn,
25 xã, có diện tích tự nhiên là 2.025 km
2
dân số 187.677 người (số liệu năm 2003).
13
Nguyễn Văn Sơn k48 xhh Báo cáo thực tập
Cao nguyên Mộc Châu có độ cao 700 - 1.500m có diện tích đất canh tác
khá đa dạng, khí hậu mát mẻ rất thích hợp cho các loại cây công nghiệp có giá trị
kinh tÕ cao.
Xã Tân Lập – Mộc Châu – Sơn La là một xã nằm cách trung tâm huyện
mộc Châu 20 km, toàn xã có 1.791 hé; 8.593 nhân khẩu.
Về hệ thống chính trị: Toàn Đảng bộ xã có 10 chi bộ đạt tiêu chuẩn trong
sạch vững mạnh, không có chi bộ yếu kém. Những năm qua Đảng bộ xã luôn phát
huy truyền thống anh hùng, sức mạnh đoàn kết lãnh đạo nhân dân trong xã phát
triển kinh tế - xã hội, xoá đói giảm nghèo, nâng cao đời sống về mọi mặt cho nhân
dân.
Về kinh tế Tân Lập đang có nền kinh tế đang phát triển theo hướng sản xuất
hàng hoá cung cấp cho thị trường. Theo báo cáo năm 2005 tổng sản lượng lương
thực có hạt toàn xã tăng 2,4 lần đạt trên 4.457 nghìn tấn / năm, bình quân đạt trên

700 kg/1 nhân khẩu; toàn xã không có hộ đói, tỷ lệ nghèo chỉ còn 8,3 %; Trên 90%
số hộ gia đình có máy cày
Về văn hoá - xã hội: Tính đến năm 2004 toàn xã đẫ hoàn thành chương trình
phổ cập trung học sở, xoá mù chữ, tăng cường đầu tư cho giáo dục, đời sống tinh
thàn của người dân được cải thiện , đến năm 2005 toàn xã có1.761 hộ được dùng
điện lưới quốc gia, chiếm 96%, mạng lưới giao thông, thuỷ lợi phát triển đáp ứng
nhu cầu đi lại và sản xuất, sinh hoạt của nhân dân
Về an ninh Quốc phòng: Xã Tân lập là xã luôn phát huy danh hiệu anh hùng
lực lượng vũ trang nhân dân luôn xung kích trong phong trào bảo vệ tổ quốc, giữ
vững an ninh chính trị , trật tự an toàn xã hội trên địa bàn, sẵn sàng đối phó với âm
mưu thủ đoạn của kẻ địch, đáu tranh chống các loại tội phạm, các tệ nạn xã hội
nhất là tệ nạn về ma tuý.
Tân Lập là một trong những xã được chọn làm điểm tái định cư thuỷ điện
Sơn La, từ 2002 đến nay xã đã đón 600 hộ dân đến tái định cư tại 7 điểm trong xã
14
Nguyễn Văn Sơn k48 xhh Báo cáo thực tập
"Đảng bộ và nhân dân các dân tộc trong xã có truyền thống đoàn kết, tương
thân, tương ái, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, quyết tâm phát huy nội lực để phát
triển kinh tế, xoã đói giảm nghèo; đội ngũ cán bộ xã nhiệt tình, trách nhiệm, gắn bó
với cơ sở, luôn tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng" ( Trích : Báo cáo
chính trị của ban chấp hành Đảng bộ xã nhiệm kỳ 2005 - 2012).
2. Vài nét về tình hình thu nhập của các hộ gia đình ở xã Tân Lập hiện nay.
Qua điều tra nghiên cứu khảo sát ở xã Tân Lập chúng tôi they tổng mức thu
nhập của các hộ gia đình (đơn vị triệu đồng/1 năm) với các mức và tỷ lệ % như sau:
1) <3 triệu đồng/năm: 6%
2) 3 - 5 triệu đồng/năm: 16,8%
3) >5 - 10 triệu đồng/năm: 22,8%
4) >10 – 20 triệu đồng/năm: 33,6%
5) > 20 triệu đồng/năm: 20,8%
Căn cứ vào mứ thu nhập trên ta có thể phân chia một cách tương đối thành

các loại hộ giàu, trung bình, nghèo và cực nghèo.
Thu nhập của người dân xã Tân Lập chủ yếu từ nông nghiệp với sản phẩm
chủ lực là lúa và hoa màu, chăn nuôi, ngoài ra còn từ tiểu thủ công nghiệp, buôn
bán nhỏ, dịch vụ. Như vậy mức thu nhập được đo bằng tiền. Tất cả các nguồn thu
nhập trên khi điều tra chóng tôi đã quy đổi ra thành tiền theo thời giá hiện hành vào
tháng 8 năm 2007.
Mức tổng thu mô tả cơ cấu trên được tính theo đơn vị hộ gia đình. Hộ gia
đình ở đây có số nhân khẩu khá đông do sinh con nhiều và một số lớn là gia đình
mở rộng. Bình quân mỗi hộ gia đình có khoảng 5,4 người. Điều đó lại càng khẳng
định rõ mức thu nhập thấp nếu tính theo đầu người. Có 6% thu nhập dưới 60.000
VNĐ/tháng/người và 12% thu nhập khoảng từ 60.000 – 100.000
VNĐ/tháng/người.
15
Nguyễn Văn Sơn k48 xhh Báo cáo thực tập
Tuy nhiên, cơ cấu thu nhập đó mang tính đại diện cho toàn xã hội nếu so
sánh tương quan trong phạm vi địa bàn. Số hộ giàu và nghèo ở hai ngưỡng trên và
dưới có tỷ lệ chênh lệch nhau, số hộ có thu nhập trên 20 triệu trở lên gấp hơn ba lần
số hộ có thu nhập dưới 3 triệu. Trong tổng số mẫu điều tra. Những hộ có mức thu
nhập trung bình từ 5 triệu đồng đến 20 triệu đồng/năm chiếm tỷ lệ cao 56,4%. Tất
nhiên cái nghèo ở nước ta không bao giờ được coi chỉ đơn thuần là vấn đề thu nhập
vật chất. Thế nhưng đánh giá theo số liệu của Tổng cục Thống kê tỉnh (2000) thì
người nghèo (theo chuẩn mới) là người có thu nhập bình quân đầu người hàng
tháng dưới 180 nghìn trở xuống là nghèo. Vậy thì mức thu nhập dưới 3 triệu
đồng/năm của một hộ gia đình đông người có thể khẳng định một cách chắc chắn
rằng 6% số hộ này thuộc diện rất nghèo. Bên cạnh đó 20,8% số hộ khác có mức thu
nhập trên 20 triệu đồng/năm (bình quân khoảng 400nghìn đồng/ tháng/người).
Như vậy mức chênh lệch lên tới gần 5 lần. Sự phân hoá giàu nghèo đứng ở
góc độ nào đó thì nó vừa là nguyên nhân, vừa là hệ quả trong quá trình phát triển xã
hội.
Nguyên nhân của sự phân hoá mức thu nhập giữa các hộ gia đình nông thôn

thì có rất nhiều, đó là sự khác biệt thiếu hụt về phương tiện sản xuất, vốn, nhân lực,
trình độ kỹ thuật Tuy nhiên, do hạn chế về năng lực và thời gian, trong khuôn khổ
bản báo cáo này tôi chỉ đề cập đến một số yếu tố có sự tác động ảnh hưởng rõ nhất
đến mức thu nhập của các hộ gia đình người nông dân xã Tân Lập.
3. Một số đặc điểm xã hội của cá nhân (chủ hộ) ảnh hưởng đến mức thu
nhập của các hộ gia đình ở xã Tân Lập hiện nay.
3.1. Nghề nghiệp và việc làm ảnh hưởng đến mức thu nhập của hộ gia
đình.
Một đặc trưng nổi bật của xã Tân Lập là thuần nông hoàn toàn, rất Ýt hộ
làm nghề phi nông nghiệp. Do đó đây là một xã sản xuất nông nghiệp là chính, tuy
có chuyển đổi sang các dạng khác song nhóm hộ thuần nông vẫn còn rât lớn, trong
16
Nguyễn Văn Sơn k48 xhh Báo cáo thực tập
khi đó các nhóm hộ phi nông nghiệp và nhóm kết hợp rất Ýt . Do vị trí địa lý của
xã nằm cách xa trung tâm và xa trục giao thông chính, nên Tân Lập rất thiếu sự
giao thông buôn bán với nền kinh tế thị trường.
Trong xã xuất hiện các hộ buôn bán dịch vụ nhưng hầu hết khả năng kinh
doanh không có dấu hiệu khả quan, vì lượng hàng tiêu thụ Ýt ỏi. Đa số người dân
vẫn chỉ tập trung lo làm ruộng, làm nương, làm vườn kết hợp với chăn nuôi gia sóc
gia cầm.
Mặc dù với thực trạng thu nhập thấp như trên đã mô tả nhưng phần lớn
nông dân vẫn chưa ý thức vươn lên để làm giàu. Sự nghèo đói và không có tri thức
đã làm hạn chế nhu cầu của họ và họ tạm bằng lòng với cuộc sống hiện có.
Căn cứ vào chỉ báo về xu hướng sản xuất kinh doanh của các hộ có thể chia
ra làm 3 loại hộ như sau:
- Nhóm hộ thuần nông gồm: những hộ có thu nhập chủ yếu và cơ bản từ
trồng trọt và chăn nuôi. Đây là những hộ có thời gian nông nhàn nhiều nhất, họ chỉ
tập trung lo chăm bón ruộng lúa, cây chè, hoa màu và chăn nuôi.
Trong số này có cả những hộ thuần nông nhưng lại có xu hướng mở rộng
sản xuất chăn nuôi, không Ýt trong số họ biết vận dụng đúng và linh hoạt các biện

pháp kỹ thuật, có sự đầu tư đúng đắn về vốn cho nên thu nhập khá cao nhờ năng
suất và sản lượng cao. Nhóm hộ thuần nông chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu, lên tới
hơn 90% số người được hỏi.
- Nhóm hộ kết hợp gồm những hộ có mức thu nhập khá dàn trải từ nghề
chính và phụ. ở đây họ coi nông nghiệp là hàng đầu, bên cạnh đó còn xoay xở,
kiếm thêm nguồn thu nhập từ các loại hình sản xuất tiểu thủ công nghiệp, buôn bán
nhỏ, … ngoài ra một số cán bộ xã được hưởng lương nhà Nước Đặc điểm của
nhóm hộ này là có ý thức và mong muốn có sự cải thiện về mức thu nhập. Tuy
nhiên do năng lực hạn chế nên mức thu nhập của họ tăng lên không đáng. Loại hộ
này chỉ chiếm tỷ lệ là 3,2% số người được hỏi.
17
Nguyễn Văn Sơn k48 xhh Báo cáo thực tập
- Nhóm hộ vẫn duy trì làm ruộng, ý thức của họ là trong nhà có đủ thóc vẫn
yên tâm hơn. Tuy nhiên nhiều khi trong công việc đống áng họ lại thuê mướn
người còn bản thân họ lại tập trung vào kiếm thêm thu nhập từ các nghành nghề
khác. Đây là hộ kinh doanh buôn bán. Số hộ này chiếm tỷ lệ 9,2% số người được
hỏi. Đây là số hộ có thu nhập cao nhấtv trong cả 3 loại hộ kể trên. Để thuận tiện
cho việc nghiên cứu phân tích tạm gọi đây là loại hộ phi nông nghiệp. (Xem bảng
1)
Bảng 1: Tương quan giữa nghề nghiệp với mức thu nhập (%).
Tổng thu
Loại hé
<3
triệu
đ/năm
3 - 5
triệu
đ/năm
5 - 10
triệu

đ/năm
10 - 20
triệu
đ/năm
>20
triệu
đ/năm
Tổng
Thuần nông 38,9 13,7 20,3, 23,1 4,0 100
Kết hợp 25,0 12,0 13,0 37,5 12,5 100
Phi nông 29.0 12,9 8,6 17,3 21,2 100
Nguồn: Từ kết quả cuộc khảo sát XHH
Nhìn vào bảng số liệu trên cho thấy nhóm hộ thuần nông thu nhập ở dưới
mức thu nhập 3 triệu đồng/năm là cao nhất. Điều đó có nghĩa là nếu không có thêm
nghề phụ thì số người nghèo đói sẽ tăng lên.
Nhóm kết hơp là nhóm có thu nhập cao nhất, 37,5% trong số này có thu
nhập từ 10 – 20 triệu đồng/năm và nhóm phi nông có 21,2% thu nhập trên 20 triệu
đồng/năm. Như vậy giảm bớt việc làm nông nghiệp để tăng các hoạt động sản xuất
tiểu thủ công nghiệp và buôn bán dịch vụ không những loại bỏ được khả năng
nghèo đói mà còn cho nhiều cơ hội để nâng cao thu nhập.
Nhóm hộ thuần nông có mặt ở hầu hết các mức thu nhập, tuy nhiên tập
trung nhiều nhất ở mức <3 triệu đồng/năm. Có tỷ lệ chiếm 38,9%, mức thu nhập
cao > 20 triệu đồng/năm chỉ chiếm có 4% do chăn nuôi và trồng trọt ở đây chỉ
mang tính hộ gia đình nhỏ .
18
Nguyễn Văn Sơn k48 xhh Báo cáo thực tập
Nhóm hộ kết hợp tuy không có thu nhập cao nhưng phần lớn nhóm này
thuộc loại trung bình khá với mức thu từ 5 triệu đến 20 triệu đồng/năm. Đây là
những hộ có thu nhập thêm từ các nghề phụ khác như trang trại, xưởng chế biến
chè, làm công nhânTuy nhiên số nghề phụ ở đây còn rất Ýt và khó khăn trong vấn

đề tìm việc và tiêu thụ vốn để sản xuất, đâycũng là một thực trạng bức xúc bó buộc
mọi suy nghĩ và tính năng động của người dân. Họ cho rằng ngại làm và cái chính
là không có vốn, sản phẩm mình tự làm ra không bán được. Nhiều hộ gia đình
không thể làm thêm nghề phụ do sức khoẻ yếu và thiếu nhân lực.
Những phân tích trên cho thấy rõ ràng có nhiều nghề phụ, nhiều nguồn thu
nhập thì sẽ cho thu nhập cao hơn là làm nông nghiệp. Đặc biệt là: nếu chỉ trông vào
trồng trọt thì thu nhập hầu như đều không đủ ăn. Những người chỉ tập trung làm
nông nghiệp thì thời gian nhàn rỗi của họ sẽ rất nhiều trong khi có thêm nghề phụ
thì toàn bộ thời gian rỗi Êy đầu tư vào sản xuất đem lại nguồn thu nhập cho gia
đình. Mặt khác công việc trồng trọt đem lại hiệu quả kinh tế rất thấp chưa kể đến
điều kiện thời tiết và đất đai ảnh hưởng đến năng suất và sản lượng của sản phẩm.
Quan niệm nhận thức giữa hộ giàu làm dịch vụ buôn bán với hộ nghèo cũng
cho thấy sự khác biệt. Trong khi những hộ nghèo thuần nông an phận với công việc
của mình thì những người tham gia vào việc buôn bán có quan niệm không chịu
cảnh mãi với cuộc sống nghèo khổ, họ luôn tìm kiếm cách thức để bươn trải làm
giàu, tăng thu nhập cho gia đình cải thiện đời sống.
Qua phỏng vấn anh Lường Văn Ân thôn Bản Hoa 1 - Xã Tân Lập - Huyện
Mộc Châu - Tỉnh Sơn La. Anh cho biết gia đình anh chủ yếu là làm ruộng nên mỗi
tháng thu nhập chỉ khoảng 300 ngàn đồng, gia đình anh thuộc hộ nghèo trong xã
với 2 vợ chồng và 2 đứa con. Nhà anh là dân bản địa, năm 2003 thực hiện kế hoạch
của tỉnh về nhường đất SX cho dân tái định cư. Vì thế trong những năm qua gia
đình anh thường thiếu ăn, điều này cũng thường xảy ra ở một số hộ khác chủ yếu
làm ruộng.
19
Nguyễn Văn Sơn k48 xhh Báo cáo thực tập
Về điều kiện lao động và việc hỗ trợ vốn, người dân còn muốn có những
chính sách xã hội tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất, đó cũng là những vấn đề
đáng lưu tâm trong việc tạo thêm công ăn việc làm, tăng thu nhập.
Việt Nam trong lịch sử vốn là một xã hội trong nông với nguyên tắc “dĩ
nông vi bản”. Ngày nay, đường lối đổi mới của nước Đảng và Nhà nước là công

nghiệp hoá, hiện đại hóa nông thôn nông nghiệp. Điều đó chứng tỏ vẫn lấy nông
nghiệp làm hàng đầu. Xu thế chuyển đổi cơ cấu xã hội lao động nghề nghiệp theo
định hướng kinh tế thị trường và xu thế phi nông hoá là tất yếu và cần thiết nếu
muốn nâng cao mức thu nhập của các hộ gia đình.
3.2. Giới tính và mức độ thu nhập của các hộ gia đình ở Tân Lập.
Bất bình đẳng về giới luôn là suy nghĩ vốn ăn sâu vào nếp sống, vào suy
nghĩ, vào mọi ngõ ngách ở mọi miền trên đất nước ta. Từ xưa vốn đã quan niệm
truyền thống nhất Nam khinh Nữ. Truyền thống Êy là nguồn gốc tạo nên sự bất
bình đẳng.
Tân Lập là một xã thuần nông mà công việc làm nông nghiệp vốn dĩ là rất
đỗi nặng nhọc. Mọi khâu từ làm ruộng lúa nương, lúa ruộng và ngô, bỏ phân, cấy,
cày, gặt hái đều là công việc đòi hỏi mất rất nhiều thời gian và sức lực. Chị em phụ
nữ phải làm phần lớn tất cả những công việc trên. Điều kiện như vậy đã ảnh hưởng
rất lớn đến sức khoẻ của người phụ nữ. Mặt khác đặc điểm xã này là một xã chủ
yếu là nông nghiệp, do đó hầu hết sản xuất ở đây là lao động thủ công chiếm tới
70%.
Khi hỏi về mức thu nhập của chị Lò Thị V ở Bản Hoa 1, chị cho biết phong
tục ở đây vẫn coi trọng Nam giới nên trong việc làm ăn buôn bán để tạo thêm thu
nhập cho gia đình của Nữ giới còn nhiều hạn chế. Tuy nhiên trước kia gia đình chị
V có nguồn thu chủ yếu từ nông nghiệp thì nay mạnh dạn hơn trong suy nghĩ chị đã
chuyển sang buôn bán nhỏ lẻ để tăng thêm thu nhập cho gia đình. Vì vậy cũng đủ
chi tiêu cho cuộc sống thường ngày.
20
Nguyễn Văn Sơn k48 xhh Báo cáo thực tập
Hàng năm có một số lao động rời xã đi nơi khác làm ăn. Số lao động Êy đa
phần là Nam giới. Mọi công việc nhà nông còn lại là do phụ nữ đảm nhiệm gánh
vác. Tuy có nhiều người không đi làm thuê mà làm thuê tại nhà cũng không chịu
tham gia vào công việc đồng áng, chăn nuôi.
Kết quả điều tra cho thấy chỉ co 17% cho rằng sự vắng mặt của người
chồng ảnh hưởng đến lao động gia đình điều đó cũng cho thấy phần lớn số người

có chồng đi làm ăn xa đã quen với công việc và biết cách khắc phục nó.
Mặc dù sức lao động bỏ ra rât nhiều tuy nhiên thu nhập từ công việc của
người phụ nữ không cao luôn ở mức thấp hơn đàn ông. (Xem bảng 2)
Bảng 2: Tương quan giới với mức thu nhập (%)
Tổng thu
Giới
<3 triệu
đ/năm
3 – 5
triệu
đ/năm
5 – 10
triệu
đ/năm
10 - 20
triệu
đ/năm
>20 triệu
đ/năm
Nam
47,4 55,9 52,5 70,1 63,6
Nữ
52,6 41,1 47,5 29,9 36,4
Tổng
100 100 100 100 100
Nguồn: Từ kết quả cuộc khảo sát XXH
Bằng số liệu trên cho thấy tỉ lệ tương quan giữa hai ngưỡng thu nhập. ở
ngưỡng đáy với mức thu nhập trên < 3 triệu đồng/năm, tỷ lệ nữ chiếm 52,6% trong
khi nam giới chiếm 47,4%. Ngược lại ở ngưỡng đỉnh với mức thu nhập trên 20
triệu đồng/năm, nữ chiếm 3,6,4% trong khi nam giới chiếm 63,6%. Điều này đồng

nghĩa với việc tỷ lệ nữ nghèo hơn Nam. Mặc dù số tổng thu này được tính theo cả
hộ gia đình nhưng mức thu nhập của nam vẫn cao hơn nữ. Nhưng dù sao lao động
nông nghiệp vẫn cho thu nhập rất thấp, trong khi họ còn phải đảm đương toàn bộ
công việc nội trợ trong gia đình. Sự bất bình đẳng này cần phải được khắc phục,
mặc dù đây không phải là điều đơn giản có thể giải quyết một sớm một chiều.
21
Nguyễn Văn Sơn k48 xhh Báo cáo thực tập
3.3. Trình độ học vấn ảnh hưởng đến mức thu nhập của các hộ gia đình
ở Tân Lập.
Ở Tân Lập trình độ học vấn nói chung rất thấp do ngẫu nhiên trong chọn
mẫu trong tổng số 254 bảng hỏi cấp I chiếm 22.1%. THCS chiếm 29,2 hầu hêt ở
đây học cấp THPT. Tỷ lệ này chiếm 39,9%, Tỷ lệ trung cấp chỉ có 4.3%, tỷ lệ học
đến cao đẳng Đại Học rất thấp chỉ chiếm 3,2% hầu hết số này là giáo viên. Thực
trạng này cho thấy mọi người ở đây chỉ thực hiện theo chủ trương chính sách của
nhà nước về phổ cập giáo dục tiểu học và trung học. Vì nhiều lý do trong đó căn
bản nhất vẫn là do mức thu nhập quá thấp việc học lên cao là một gánh nặng của
gia đình. (Bảng 3)
Bảng 3: Tương quan học vấn với mức thu nhập.
Tổng thu
Loại hé
<3
triệu
đ/năm
3 – 5
triệu
đ/năm
5 – 10
triệu
đ/năm
10 - 20

triệu
đ/năm
>20
triệu
đ/năm
Tổng
Cấp I 7,2 12,2 49,2 28,2 3,2 100
Cấp II 4,9 8,1 47,0 33,4 6,6 100
Cấp III 3,1 13,0 45,1 32,3 6,5 100
≥ CĐ - ĐH 20,0 0,0 40,0 25,5 10,5 100
Nguồn: Từ kết quả cuộc khảo sát XXH
Theo bảng số liệu trên ( bảng số 3) ta thấy do mặt bằng trình độ học vấn
tương đối ngang nhau do đó dễ nhận thấy tỷ lệ tương quan giữa học vấn với các
mức thu nhập chênh nhau rất thấp và chủ yếu là rơi vào nhóm có mức thu nhập từ 5
đến 10 triệu đồng/năm. tuy nhiên ở đây có những nhận xét về sự khác nhau mà đặc
trưng ở hai mức thu nhập thấp nhât < 3 triệu đồng/năm. và cao nhất > 20 triệu
đồng/năm.
Điều gây bất ngờ cho người nghiên cứu là ở mức thu thấp nhất có 20% số
người có trình độ Cao Đẳng và Đại Học. Lý giải điều này là bởi vì tỷ lệ tổng số
người đạt trình độ này chỉ chiếm 2,7% tổng số người được hỏi. Do đó 20% của
2,7% sẽ rất thấp, con số này thuộc về những người già, ốm đau bệnh tật
22
Nguyễn Văn Sơn k48 xhh Báo cáo thực tập
Ngoại trừ trường hợp nêu trên các con số còn lại phản ánh một cách khá
chính xác sự ảnh hưởng của trình độ học vấn lên mức thu nhập của hộ gia đình
nông thôn. Trình độ học vấn cao cho thu nhập cao và ngược lại trình độ học vấn
thấp cho thu nhập thấp. ở mức thu thấp nhất dưới 3 triệu đồng/năm, người có trình
độ cấp 1 chiếm 7,2%, cấp II chiếm 4,9% và câp III chỉ có 3,1% trong khi đó ở mức
thu cao nhất trên 20 triệu đồng/năm thì ngược lại người có trình độ cấp I chỉ chiếm
3,2% trong khi cấp II và cấp III chiếm 6,5% và 6,6, còn Cao Đẳng và Đại Học lên

đên 10,5%.
Một ví dụ cho thấy đó là hé gia đình anh Lường Văn So ở bản Dọi 1. Cả 2
vợ chồng anh đều chưa học hết cấp 2 nên anh chị mất đi cả tính tự tin khi tiếp xúc,
vì thế việc đi chợ hay làm ăn buôn bán đối với anh chị cũng rất khó khăn. Nên toàn
bộ thu nhập của gia đình hoàn toàn trông chờ vào ruộng nương.
Như vậy với trình độ dân trí thấp sẽ ảnh hưởng đến sự cơ động, phát triển
xã hội, người dân thiếu đi tính linh hoạt, năng động, năng lực cách tiếp cận thị
trường kém, lấy sự an toàn về mặt lương thực làm mục đích. Những năm gần đây
Đảng và Nhà Nước đã đầu tư khá nhiều cho ngành giáo dục, tuy nhiên vấn đề thụ
hưởng nền giáo dục ở nông thôn vẫn là vấn đề cấp bách và khó giải quyết, đặc biệt
là đối với những vùng có thu nhập thấp như địa bàn xã Tân Lập.
3.4. Tuổi và nhân tố khác ảnh hưởng đến mức thu nhập.
Bên cạnh các nhân tố nghề nghiệp học vấn, giới tính thì độ tuổi của người
nông dân khác nhau còng cho thấy thu nhập khác nhau Độ tuổi lao động, chủ yếu là
nam giới. Nữ giới thì ở nhà lấy chồng sớm và làm ruộng, mặc dù tuổi trẻ và sức
khoẻ nhưng không hẳn họ là những người có thu nhập cao hơn những người lớn
tuổi. (Bảng 4)
Bảng 4: Tương quan số tuổi với mức thu nhập (%).
Tổng thu <3
triệu
3 - 5
triệu
5 - 10
triệu
10 - 20
triệu
>20
triệu
Tổng
23

Nguyễn Văn Sơn k48 xhh Báo cáo thực tập
Loại hé đ/năm đ/năm đ/năm đ/năm đ/năm
18 – 25 21,1 8,8 18,6 8,0 10,9 12,2
26 – 35 31,6 32,4 33,9 27,6 20,0 28,3
36 – 49 31,6 50,0 33,9 50,6 49,1 44,9
≥ 50 15,8 8,8 13,6 13,8 20,0 14,6
Tong 100 100 100 100 100 100
Nguồn: Từ cuộc khảo sát XHH
Theo như bảng số 4 cho thấy ở xã Tân Lập Ýt có hộ giàu ở lứa tuổi từ 18
đến 25. Chủ yếu lứa tuổi này có mức thu nhập trung bình từ 5 đến 10 triệu
đồng/năm. Lý do thu nhập thấp là họ thiếu kinh nghiệm thiếu tích luỹ tâm lý (được
đồng nào sài đồng Êy) do đó không có thu nhập cao đó là chưa kể đến đây là lứa
tuổi có thể bị các tệ nạn xã hội xâm nhập.
Ở các lứa tuổi lớn hơn do kinh nghiệm được tích luỹ trong một thời gian
nên họ thường có thu nhập cao hơn. Hầu hết trong số họ làm việc tại nhà hoặc làm
thợ, tỷ lệ mức thu > 20 triệu đồng cao nhất ở người từ 36 đến 49 tuổi chiếm 49,1%.
Ngoài ra mức thu nhập còn chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác như vốn
đất đai, kỹ thuật
Đất đai ở Tân Lập là đất kém màu mỡ,ngày càng bị thu hẹp do dân định cư
chuyển về mặt khác do nguồn nước khan hiếm cho nên có phần nào ảnh hưởng
không tốt đến sản lượng cây trồng dẫn đến năng suất thấp.
Vốn kinh doanh của các hộ gia đình rất nhỏ, số người được hỏi cho rằng họ
không có đủ vốn, tuy nhiên việc vay vốn từ tín dụng ngân hàng gặp rất nhiều khó
khăn. Theo đánh giá của người dân như thời gian vay quá ngắn thủ tục rườm rà và
phải thế chấp mới được vay, mà vốn là nguồn lực đầu tiên và quan trọng trong việc
kinh doanh và sản suất. Tình trạng thiếu vốn dẫn đến “cái khó bó cái khôn”
Về kỹ thuật ở đây người dân chủ yếu dùng công cụ bằng cày cuốc, lao động
chân tay thủ công là chủ yếu, thiếu công cụ sản xuất, thiếu nhân lực lao động.
Những tình trạng như trên kìm hãm những khả năng sản suất va năng lực tiếp cận
24

Nguyễn Văn Sơn k48 xhh Báo cáo thực tập
thị trường của người nông dân, mong muốn được hỗi trợ về vốn và muốn có công
cụ sản suất là máy móc
Như vậy trong cơ cấu thu nhập của hộ gia đình xã Tân Lập ở đây có rất
nhiều nhân tố tác động, muốn nâng cao mức thu nhập của họ cần có chính sách
đúng đắn, thích hợp với mỗi nhân tố đó. Trên đây là phác hoạ một số nhân tố cụ
thÓ mang tính đặc trưng đối với địa bàn xã Tân Lập huyện Mộc Châu tỉnh Sơn La.
4. Kết luận và khuyến nghị
4.1 kết luận:
Qua khảo sát và nghiên cứu 254 mẫu các hộ gia đình ở xã Tân Lập huyện
Mộc Châu Sơn La cho thấy xã Tân Lập chủ yếu làm nghề nông và có thu nhập chủ
yếu từ nông nghiệp là chính , đây là một xã nghèo, tuy rằng có tháp phân tầng, thu
nhập tương đồng với tình hình chung của vùng nông thôn miền núi nên mức thu
nhập còn thấp. Cái nghèo ở đây được xác định bởi các nguyên nhân:
- Cơ cấu nghề nghiệp quá nặng về nông nghiệp, chủ yếu là làm ruộng, làm
nương Ýt có nghề phụ, Ýt mở rộng kinh tế buôn bán, phần lớn thu nhập nhờ vào
làm ruộng và chăn nuôi. những hộ gia đình có làm thêm nghề phụ thì manh mún, lẻ
tẻ, kém linh hoạt, tính năng động thấp và năng lực tiếp cận thị trường kém. Tuy
nhiên nguồn thu nhập của họ vẫn cho thấy sự khác biệt đối lập với những hộ gia
đình thuần nông.
- Có sự phân công giới trong lao động. Đa số nam giới , mọi công việc gia
đình và sản xuất đều do người phụ nữ đảm nhiệm, ảnh hưởng nhiều đến hệ quả và
năng suất lao động thấp.
- Trình độ học vấn nhìn chung là thấp, mức thụ hưởng văn hoá kém, không
biết ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Đã thành quy luật,
trình độ học vấn thấp dẫn đến nghèo đói. Bức tranh thu nhập ở đây mô tả khá rõ
“vòng luẩn quẩn” về nghèo đói và học vấn này.
25

×