Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

hiện tượng chuyển giá của DN FDI tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (296.95 KB, 33 trang )

CHỦ ĐỀ:
HIỆN TƯỢNG CHUYỂN GIÁ CỦA CÁC DOANH NGHIỆP FDI
TẠI VIỆT NAM.
****
Thành viên tham gia:
1. Nguyễn Văn Chiến
2. Nguyễn Cảnh Tâm
3. Bùi Chí Công
4. Trần Kim Cương
5. Nguyễn Chí Hoàn
6. Bùi Thị Thanh Huyền
1
MỤC LỤC
PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1, Lý do lựa chọn đề tài
2, Mục tiêu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3, Phương pháp nghiên cứu
4, Cấu trúc của đề tài.
PHẦN 2: NỘI DUNG CHÍNH
1. Doanh nghiệp FDI và hiện tượng chuyển giá.
2. Thực trạng chuyển giá quốc tế ở Việt Nam trong thởi kì hội nhập kinh tế thế
giới và tác hại của chuyển giá đối với nền kinh tế.
3. Những giải pháp chống chuyển giá ở Việt Nam
PHẦN 3. KẾT LUẬN
2
Giải thích từ ngữ:
OECD: tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế.
FDI: vốn đầu tư nước ngoài.
WTO: tổ chức thương mại Thế Giới
VCCI: phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam
3


PHẦN 1. LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Năm 2006, Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của WTO đã mở ra nhiều cơ hội
phát triển cho nền kinh tế Việt Nam. Việc thu hút nguồn vốn FDI của Việt Nam đã
có nhiều bước tiến đáng kể , mà theo các chuyên gia nhận định đây là những trứng
vàng của nền kinh tế.
Từ 2006 đến nay, nguồn vốn FDI đổ vào Việt Nam không ngừng tăng lên và liên
tiếp lập những mốc kỷ lục mới về tổng mức vốn đầu tư . Năm 2009, trong giai đoạn
kinh tế thế giới lâm vào tình trạng khủng hoảng nặng nề, nguồn vốn FDI vẫn duy trì
ở mức cao tuy thấp hơn so với đỉnh vào năm 2008, và dự báo trong năm 2010 sẽ tiếp
tục tăng trở lại. Nguồn vốn FDI đổ vào nước ta không chỉ là tăng về số lượng các dự
án mà tăng về cả qui mô và chất lượng của các dự án. Cũng như ngày càng có nhiều
quốc gia, các tập đoàn lớn trên thế giới tìm hiểu cơ hội đầu tư vào thị trường Việt
Nam. Việc tiếp nhận vốn FDI sõ tạo ra cơ hội tiếp cận với trình độ khoa học kỹ thuật
hiện đại, trình độ quản lý kinh tế tầm cao của thế giới và giải quyết công ăn việc làm
cho lao động trong nước. FDI trở thành một trong những nguồn cung cấp vốn quan
trọng cho nên kinh tế, là động lực thúc đẩy kinh tế Việt Nam phát triển, tạo nên tính
năng động và cạnh tranh cho thị trường.
Tuy nhiên, bên cạnh những đóng góp tích cực của vốn FDI, thì nguồn vốn này vẫn
tiềm ẩn những rui ro nếu chúng ta không có các biện pháp quản lý hợp lý và đồng bộ.
Đặt biệt trong những năm gần đây tình hình các doanh nghiệp FDI kê khai lỗ kéo dài
nhiều năm làm cho chính phủ Việt Nam bị thất thu thuế ảnh hưởng trực tiếp đến ngân
sách, bên cạnh đó tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh với các doanh nghiệp trong
nước, tác động không tốt đến cơ chế quản lý tài chính của chính phủ trong lĩnh vực
FDI, và ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng nguồn vốn này cũng như tác động xấu đến
mục tiêu thu hút và quản lý vĩ mô vốn FDI của chính phủ. Vấn đề dược đặt ra là đã
có hình vi “chuyển giá “tại các doanh nghiệp FDI hiện nay. Đứng trước tình hình này
Bộ Tài chính vừa ban hành Thông tư 66/2010/TT-BTC vào ngày 22 tháng 4 năm
4
2010 hướng dẫn thực hiện việc xác định giá thị trường trong giao dịch kinh doanh

giữa các bên có quan hệ liên kết. Thông tư này thay thế Thông tư 117/2005/TT-BTC
ngày 19 tháng 12 năm 2005. Tình hình chuyển giá đã và đang là một thực trạng đáng
báo động ở Việt Nam hiện nay, trong khi các quốc gia phát triển đã có nhiều kinh
nghiệm trong việc chống chuyển giá ở các công ty đa quốc gia, thì Việt Nam vẫn còn
thiếu kinh nghiệm trong vấn đề này. Chính vì lý do này nhóm quyết định chọn đề tài
“Những diễn biến của hiện tượng chuyển giá của các doanh nghiệp FDI ở Việt Nam”
làm đề tài thảo luận

2. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Mục đích của đề tài này là tìm hiểu, nghiên cứu và phân tích hiện tượng chuyển giá
ở Việt Nam trong thơi gian qua, khi nguồn vốn FDI đổ vào Việt Nam ngày càng
tăng, và hoạt động của các công ty đa quốc gia ngày càng sôi động. Từ đó, đề ra một
số biện pháp chống chuyển nhằm giúp các cơ quan chức năng quản lý tốt hơn các
doanh nghiệp FDI trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các doanh nghiệp FDI đang hoạt động trên địa
bàn cả nước và hiện tượng chuyển giá của các doanh nghiệp này tại Việt Nam trong
những năm gần đây.
3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp sử dụng trong đề tài là và phương pháp thống kê, liệt kê, phân tích các
nguồn số liệu từ đó đưa ra nhận xét để làm rõ vấn đề. Bên cạnh đó dê tài còn sử dụng
phương pháp phương so sánh trong quá trình phân tích.
4. Cấu trúc dự kiến
Chương 1: Doanh nghiệp FDI và hiện tượng chuyển giá.
Chương 2: Thực trạng chuyển giá quốc tế ở Việt Nam trong thởi kì hội nhập kinh tế
thế giới và tác hại của chuyển giá đối với nền kinh tế.
Chương 3: Những giải pháp chống chuyển giá ở Việt Nam
5. Đóng góp của đề tài
Đóng góp một số giải pháp chống chuyển giá cho các cơ quan quản lý của nhà nước
quản lý tốt hơn đối với các doanh nghiệp FDI, góp phần làm tăng nguồn thu
5

ngân sách Nhà nước từ việc thu thuế TNDN đối với các công ty này. Mặt khác, giúp
các doanh nghiệp Việt Nam, đặt biệt các doanh nghiệp có tham gia trong liên doanh
có cái nhìn rõ hơn về chuyển giá quốc tế cũng như những biện pháp tự bảo vệ mình
trong khi hợp tác với các đối tác nước ngoài.
PHẦN 2. NỘI DUNG CHÍNH
I. Doanh nghiệp FDI và hiện tượng chuyển giá.
1. Doanh nghiệp FDI
a. Khái niệm
Khái niệm “Thế nào là doanh nghiệp FDI? ” tưởng chừng như một khái niệm đơn
giản theo đánh giá của các chuyên gia đó lại đang là “mớ bòng bong” gây khó dễ cho
không chỉ các doanh nghiệp mà ngay cả các cơ quan quản lý.
Theo Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF- International Money Fund) thì doanh nghiệp FDI :
“Đầu tư trực tiếp nhằm đạt được quyền lợi lâu dài trong một doanh nghiệp hoạt động
trong một nền kinh tế khác với nền kinh tế nhà đầu tư”. Định nghĩa này chỉ “
nghiêng” về quyền lợi của nhà đầu tư nước ngoài, không quan tâm đến lợi ích của
nước chủ nhà tiếp nhận đầu tư.
Còn theo cách hiểu theo Luật đầu tư của Việt Nam thì đầu tư nước ngoài (ĐTNN) –
là việc tổ chức, cá nhân nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền nước ngoài hoặc
bất kỳ tài sản nào được chính phủ Việt Nam chấp nhận.
Theo Điều 3 của Luật Đầu tư: “ Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư do nhà đầu tư
đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư” còn “Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài bao gồm doanh nghiệp do nhà đầu tư nước ngoài thành lập để thực hiện hoạt
động đầu tư tại Việt Nam; doanh nghiệp Việt Nam do nhà đầu tư nước ngoài mua cổ
phần, sáp nhập, mua lại”.
Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (Doanh nghiệp FDI) là các doanh
nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài, không phân biệt tỷ lệ vốn của bên
nước ngoài góp là bao nhiêu. Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài
bao gồm:
– Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
– Doanh nghiệp liên doanh giữa nước ngoài và các đối tác trong nước.

2. Hiện tượng chuyển giá
6
a. khái niệm
Chuyển giá (tranfer pricing): là việc thực hiện chính sách giá đối với hàng hóa, dịch
vụ và tài sản được chuyển dịch giữa các thành viên trong tập đoàn qua biên giới
không theo giá thị trường nhằm tối thiểu hóa số thuế của các công ty đa quốc gia trên
toàn cầu.
Như vậy, chuyển giá là một hành vi do các chủ thể kinh doanh thực hiện nhằm thay
đổi giá trị trao đổi hàng hóa, dịch vụ trong quan hệ với các bên liên kết. Hành vi ấy có
đối tượng tác động chính là giá cả. Sở dĩ giá cả có thể xác định lại trong những giao
dịch như thế xuất phát từ ba lý do sau:
Thứ nhất, xuất phát từ quyền tự do định đoạt trong kinh doanh, các chủ thể hoàn
toàn có quyền quyết định giá cả của một giao dịch. Do đó họ hoàn toàn có quyền mua
hay bán hàng hóa, dịch vụ với giá họ mong muốn.
Thứ hai, xuất phát từ mối quan hệ gắn bó chung về lợi ích giữa nhóm liên kết nên sự
khác biệt về giá giao dịch được thực hiện giữa các chủ thể kinh doanh có cùng lợi ích
không làm thay đổi lợi ích toàn cục.
Thứ ba, việc quyết định chính sách giá giao dịch giữa các thành viên trong nhóm
liên kết không thay đổi tổng lợi ích chung nhưng có thể làm thay đổi tổng nghĩa vụ
thuế của họ. Thông qua việc định giá, nghĩa vụ thuế được chuyển từ nơi bị điều tiết
cao sang nơi bị điều tiết thấp hơn và ngược lại. Tồn tại sự khác nhau về chính sách
thuế của các quốc gia là điều không tránh khỏi do chính sách kinh tế - xã hội của họ
không thể đồng nhất, cũng như sự hiện hữu của các quy định ưu đãi thuế là điều tất
yếu. Chênh lệch mức độ điều tiết thuế vì thế hoàn toàn có thể xảy ra.
b. Phạm vi chuyển giá
Chuyển giá với ý nghĩa chuyển giao giá trị trong quan hệ nội bộ nên hành vi phải
được xem xét trong phạm vi giao dịch của các chủ thể liên kết. Điều 9 Công ước mẫu
của OECD về định giá chuyển giao ghi nhận “Hai doanh nghiệp được xem là liên kết
(associated enterprises) khi:
i. Một doanh nghiệp tham gia vào quản lý, điều hành hay góp vốn vào doanh nghiệp

kia một cách trực tiếp hoặc gián tiếp hoặc qua trung gian;
ii. Hai doanh nghiệp có cùng một hoặc nhiều người hay những thực thể (entities)
khác tham gia quản lý, điều hành hay góp vốn một cách trực tiếp hoặc gián tiếp hoặc
thông qua trung gian”.
Yếu tố quản lý, điều hành hay góp vốn chính là điều kiện quyết định sự ảnh hưởng,
sự giao hòa về mặt lợi ích của các chủ thể này nên cũng là cơ sở để xác định mối quan
hệ liên kết. Tính chất của những biểu hiện này không mang tính quyết định. Như thế
các doanh nghiệp liên kết có thể được hình thành trong cùng một quốc gia hoặc có thể
ở nhiều quốc gia khác nhau. Từ đó, chuyển giá không chỉ diễn ra trong các giao dịch
quốc tế mà có thể cả trong những giao dịch quốc nội.
7
Trên thực tế, chuyển giá thường được quan tâm đánh giá đối với các giao dịch quốc
tế hơn do sự khác biệt về chính sách thuế giữa các quốc gia được thể hiện rõ hơn.
Trong khi đó, do phải tuân thủ nguyên tắc đối xử quốc gia nên các nghĩa vụ thuế hình
thành từ các giao dịch trong nước ít có sự cách biệt. Vì thế, phần lớn các quốc gia
hiện nay thường chỉ quy định về chuyển giá đối với giao dịch quốc tế. Theo đó, giao
dịch quốc tế được xác định là giao dịch giữa hai hay nhiều doanh nghiệp liên kết mà
trong số đó có đối tượng tham gia là chủ thể không cư trú (non-residents). Sự khác
biệt chính yếu nằm ở sự cách biệt về mức thuế suất thuế TNDN của các quốc gia. Một
giá trị lợi nhuận chuyển qua giá từ doanh nghiệp liên kết cư trú tại quốc gia có thuế
suất cao sang doanh nghiệp liên kết ở quốc gia có thuế suất thấp. Ngược lại một
lượng chi phí tăng lên qua giá mua sẽ làm giảm thu nhập cục bộ ở quốc gia có thuế
suất thuế thu nhập cao. Trong hai trường hợp đều cho ra những kết quả tương tự là
làm tổng thu nhập sau thuế của toàn bộ nhóm liên kết tăng lên.
Khía cạnh khác, các giao dịch trong nước có thể hưởng lợi từ chế độ ưu đãi, miễn
giảm thuế. Thu nhập sẽ lại dịch chuyển từ doanh nghiệp liên kết không được hưởng
ưu đãi hoặc ưu đãi với tỉ lệ thấp hơn sang doanh nghiệp liên kết có lợi thế hơn về điều
này.
Một số trường hợp chuyển giá tiêu biểu:
- nâng giá trị vốn góp: trong quá trình đầu tư vào một nước để sản xuất kinh doanh,

do các doanh nghiệp FDI có máy móc thiết bị công nghệ hiện đại nên các doanh
nghiệp FDI sẽ tiến hành góp vốn bằng máy móc thiết bị và công nghệ hiện đại. do
phía nước nhận đầu tư chưa có đủ năng lực và trình độ để thẩm định giá các loại thiết
bị công nghệ hiện đại này nên thường sẽ bị các đối tác nước ngoài định giá các thiết
bị, công nghệ cao hơn giá trị thực tế của chúng. việc định giá cao sẽ làm nâng giá trị
vốn góp trong liên doanh của bên đối tác và chiếm lấy quyền quản trị công ty. việc
định giá cao thiết bị máy móc đầu tư ban đầu đã giúp cho các doanh nghiệp FDI
chuyển một lượng tiền đi ngược trở ra cho công ty mẹ ngay từ lúc đầu tư và thông
qua chi phí khấu hao hàng năm sẽ làm cho nhà nước nhận đầu tư thất thu thuế
- chuyển giá thông qua chuyển giao công nghệ: các doanh nghiệp FDI còn thực hiện
việc chuyển giá thông qua việc chuyển giao công nghệ bằng cách thu phí tiền bản
quyền, đây là một loại chi phí chiếm tỷ trọng lớn do khấu hao giá trị tài sản cố định
vô hình. khi đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh thì tình trạng kinh doanh của công
ty sẽ bị thua lỗ kéo dài qua các năm, nguyên nhân chủ yếu là do phải trả cho chi phí
bản quyền quá cao và tăng dần qua các năm. trong tình hình công ty liên doanh
thường xuyên thua lỗ, phía liên doanh nước nhận đầu tư sẽ chịu ảnh hưởng nặng nề
nhưng ngược lại phía các doanh nghiệp FDI vẫn không hề hấn gì vì họ vẫn nhận đủ
tiền bản quyền từ nhãn hiệu và tiền bản quyền lại có xu hướng ngày càng tăng ngày
càng tăng.
- chuyển giá nhằm mục đích chiếm lĩnh thị trường: các doanh nghiệp FDI khi đi vào
đầu tư kinh doanh tại một quốc gia thì họ thường sẽ thích liên doanh với một công ty
8
nội địa hơn là vào đầu tư thẳng là công ty 100% vốn nước ngoài. nguyên nhân là các
doanh nghiệp FDI này muốn sử dụng hệ thống phân phối và thị phần có sẵn của các
công ty nội địa. sau một thời gian liên doanh thì các doanh nghiệp FDI này sẽ dùng
các thủ thuật khác nhau, trong đó có thủ thuật chuyển giá để đẩy công ty nội địa ra và
chuyển công ty liên doanh thành công ty 100% vốn nước ngoài. các thủ thuật này chủ
yếu là làm nâng lên chi phí hoạt động của công ty con, công ty con sẽ báo lỗ liên tục
trong nhiều năm nhưng vẫn tiếp tục mở rộng hoạt động.
3. Dấu hiệu chuyển giá

Thứ nhất, biểu hiện cụ thể của hành vi chuyển giá là giao kết về giá. Giao dịch liên
kết với giao dịch độc lập được hiểu là việc so sánh giữa giao dịch liên kết với giao
dịch độc lập hoặc so sánh giữa các DN thực hiện giao dịch liên kết với DN thực hiện
giao dịch độc lập. Việc so sánh được thực hiện trên cơ sở lựa chọn và phân tích dữ
liệu, chứng từ, tài liệu có liên quan đến giao dịch độc lập, giao dịch liên kết diễn ra
trong cùng kỳ đảm bảo độ tin cậy để sử dụng cho mục đích kê khai, tính thuế phù hợp
với các quy định pháp luật về kế toán, thống kê và thuế. Nhưng giao kết về giá chưa
đủ để kết luận rằng chủ thể đã thực hiện hành vi chuyển giá. Bởi lẽ nếu giao kết đó
chưa thực hiện trên thực tế hoặc chưa có sự chuyển dịch quyền đối với đối tượng giao
dịch thì không có cơ sở để xác định sự chuyển dịch về mặt lợi ích. Như vậy, ta có thể
xem chuyển giá hoàn thành khi có sự chuyển giao đối tượng giao dịch cho dù đã hoàn
thành nghĩa vụ thanh toán hay chưa. Giá giao kết là cơ sở để xem xét hành vi chuyển
giá. Chúng ta cũng chỉ csó thể đánh giá một giao dịch có chuyển giá hay không khi so
sánh giá giao kết với giá thị trường. Nếu giá giao kết không tương ứng với giá thị
trường thì có nhiều khả năng để kết luận rằng giao dịch này có biểu hiện chuyển giá
Thứ hai, hành vi chuyển giá được thể hiện qua kết quả sản xuất-kinh doanh của một
doanh nghiệp thường bị thua lỗ liên tục trong vài năm. Doanh nghiệp kê khống giá
nhập khẩu nguyên liệu máy móc thiết bị từ công ty mẹ ở nước ngoài làm cho chi phí
đầu vào tăng lên. Hậu quả của việc này là giá thành sản phẩm do các doanh nghiệp
này sản xuất ra trở nên đắt hơn. Giá thành cao là cơ sở để các doanh nghiệp báo cáo
lỗ để không phát sinh thu nhập chịu thuế; hoặc doanh nghiệp kinh doanh có mặt hàng
có giá bán thấp hơn rất nhiều so với mặt hàng có cùng chức năng trên thị trường, mặc
dù doanh nghiệp có thể có lãi nhưng đây cũng là phương pháp chuyển giá hạ thấp đầu
vào để giảm giá thành, giảm giá bán nhằm cạnh tranh thị trường.
Thứ ba, các doanh nghiệp kê khai hoạt động kinh doanh thua lỗ, song các doanh
nghiệp không ngừng mở rộng hoạt động sản xuất - kinh doanh, tăng quy mô hoạt
động Thực tế này là do các công ty mẹ ở nước ngoài đã thực hiện chuyển giá, tìm mọi
cách để công ty con không có lãi và toàn bộ số lãi của công ty con được chuyển về
công ty mẹ, làm thất thu cho ngân sách nhà nước.
9

Thứ tư, một thủ thuật chuyển giá khác mà các doanh nghiệp FDI hay sử dụng, được
các chuyên gia cảnh báo, là thông qua chi phí khấu hao. Theo đó, các công ty con
“sẵn sàng” nhập khẩu máy móc thiết bị đã qua sử dụng từ công ty mẹ ở nước ngoài,
rồi tiến hành khấu hao thật nhanh và tính chi phí này vào giá thành khiến giá thành
cũng bị đội lên nhiều. Trường hợp này tương tự như Coca Cola.
Một vài ví dụ thực tiễn về chuyển giá
Trường hợp điển hình có những biểu hiện "đáng ngờ" về chuyển giá, có thể kể đến
Metro Việt Nam. Trong 12 năm kinh doanh ở Việt Nam, bắt đầu từ tháng 3/2002 đến
nay chỉ duy nhất năm 2010 Metro báo lãi 116 tỷ đồng, ác năm còn lại, con số lỗ của
của Metro dao động từ 89 đến 160 tỷ đồng. Theo đó, tính đến năm 2012, Metro lỗ lũy
kế lên đến 598 tỷ đồng.
Một báo cáo ngành thuế công bố năm 2013 cho thấy Metro Cash&Carry đứng đầu
bảng trong danh mục các doanh nghiệp FDI khai lỗ.Chính vì hoạt động kinh doanh
thua lỗ nên 12 năm hoạt động ở Việt Nam, Metro chỉ mới chỉ nộp thuế giá trị gia
tăng, môn bài, tiền thuê đất, thuế nhà thầu. Riêng thuế thu nhập doanh nghiệp, Metro
chưa nộp đồng nào và trở thành một trong những doanh nghiệp FDI bị cơ quan thuế
đặt dấu hỏi lớn về vấn đề chuyển giá.

(Diễn biến doanh thu của Metro Việt Nam trong 12 năm gia nhập thị trường Việt
Nam. Số liệu: Báo cáo tài chính Tập đoàn Metro.)
Tuy nhiên, dù lỗ liên tục nhưng Metro Việt Nam lại không ngừng mở rộng thị
trường. Hệ thống siêu thị Metro liên tục tăng từ Bắc đến Nam với 19 trung tâm trên cả
nước cùng 3.600 nhân viên. Trong năm 2012-2013, doanh thu hoạt động của Công ty
Metro tại Việt Nam đạt 516 triệu Euro. Khi giải trình với ngành, đại diện phía Metro
từng cho biết, do chi phí để đầu tư một trung tâm bán sỉ rất lớn. Trong khi những năm
gần đây số lượng siêu thị mở mới nhiều, doanh nghiệp phải cạnh tranh gay gắt nên
10
phải mất trung bình ba năm kể từ khi khai trương mới có lãi. Các trung tâm lại mở
liên tiếp nhau, hoạt động chưa ổn định ngay nên công ty bị lỗ kéo dài.
“Chẳng doanh nghiệp nào mà đầu tư kinh doanh hết hàng mấy trăm triệu đô, rồi để

lỗ như vậy. Đã lỗ triền miên năm này qua năm khác, lại vẫn liên tục đầu tư và mở
rộng mạng lưới kinh doanh. Nếu có lỗ thì chỉ lỗ 3-4 năm đầu mà thôi, chứ không thể
lỗ kéo dài đến hơn chục năm liền”, chuyên gia kinh tế Bùi Kiến Thành khẳng định.
Nhiều ý kiến lập luận rằng, có lẽ việc Metro công bố lỗ triền miên như vậy là có
mục đích, đó là vì Metro không muốn nộp thuế ở Việt Nam, và nếu đúng như vậy, thì
đấy có thể xem như một dạng "chiến lược kinh doanh" của doanh nghiệp này.
Bàn về nghi án chuyển giá của Metro Việt Nam, TS Lê Đăng Doanh - nguyên Viện
trưởng Viện Quản lý Kinh tế Trung ương từng cho rằng, nghi vấn chuyển giá của
Metro quá rõ ràng bởi vì không có doanh nghiệp nào hằng năm báo lỗ trên 100 tỷ
đồng nhưng lại tăng doanh thu, tăng lao động và mở rộng thị trường…
II. Thực trạng chuyển giá quốc tế ở Việt Nam trong thởi kì hội nhập kinh tế thế
giới và tác hại của chuyển giá đối với nền kinh tế.
A. Thực Trạng
1. Những hành vi chuyển giá thường thấy ở các doanh nghiệp có nguồn vốn
FDI ở Việt Nam
(nguồn: số liệu VCCI)
1.1. Nâng giá trị vốn góp
Các doanh nghiệp FDI có máy móc thiết bị công nghệ hiện đại nên tậng dụng
những lợi thế của mình các doanh nghiệp FDI sẽ tiến hành góp vốn bằng máy móc
11
thiết bị và công nghệ hiện đại. Do phía Việt Nam chưa có đủ năng lực và trình độ để
thẩm định giá các loại thiết bị công nghệ hiện đại này nên thường sẽ bị các đối tác
nước ngoài định giá các thiết bị, công nghệ cao hơn giá trị thực tế của chúng. Việc
định giá cao sẽ làm nâng giá trị vốn góp trong liên doanh của bên đối tác và chiếm lấy
quyền quản trị công ty. Về phía đối tác Việt Nam đa phần chỉ góp vốn bằng giá trị sử
dụng đất nên giá trị vốn góp trong liên oanh thường rất thấp. Việc định giá cao thiết
bị máy móc đầu tư ban đầu đã giúp cho các doanh nghiệp FDI chuyển một lượng tiền
đi ngược trở ra cho công ty mẹ ngay từ lúc đầu tư ban đầu.
Ví dụ : Một khách sạn liên doanh giữa Tổng Công ty Du lịch Sài Gòn và Vina
Group đã xác định giá trị đưa vào góp vốn của Vina Group là 4.340.000 USD. Nhưng

theo sự thẩm định giá của công ty giám định giá Quốc Tế thì giá trị tài sản góp vốn
của Vina Group chỉ có giá trị là 2.990.000 USD. Như vậy trong nghiệp vụ định giá
giá trị góp vốn liên doanh này phía Việt Nam đã bị thiệt 1.350.000 USD tương đương
45.2%.
Tình trạng nâng giá tài sản góp vốn trên mang lại sự thiệt hại cho cả 3 đối tượng là
phía liên doanh góp vốn Việt Nam, chính phủ Việt Nam và cả người tiêu dùng Việt
Nam. Bên liên doanh Việt Nam bị thiệt trong phần vốn góp, làm cho tỷ lệ góp vốn
nhỏ lại; Chính phủ Việt Nam bị thất thu thuế; còn người tiêu dùng Việt Nam phải tiêu
dùng sản phẩm với giá cả đắt hơn giá trị thực tế của sản phẩm.
Do nâng giá trị tài sản góp vốn nên tỷ lệ vốn cao hơn phía Việt Nam, vì vậy bên đối
tác nước ngoài thường sẽ nắm quyền kiểm soát và điều hành doanh nghiệp
12
đối tác nước ngoài sẽ điều hành công ty theo mục đích của họ để cho tình hình thua lỗ
kéo dài và bên liên doanh Việt Nam không đủ tiềm lực tài chính để tiếp tục hoạt động
đành phải bán lại phần vốn góp và hàng loạt các công ty liên doanh trở thành công ty
100% vốn nước ngoài.
1.2 Chuyển giá thông qua chuyển giao công nghệ
Đây là hành vi chuyển giá thông qua việc chuyển giao công nghệ và thu phí tiền bản
quyền, đây là một loại chi phí chiếm tỷ trọng lớn do khấu hao giá trị tài sản cố định
vô hình. Một ví dụ điển hình cho việc chuyển giá thông qua chuyển giao công nghệ
đó là tại Công ty Liên doanh Nhà máy Bia Việt Nam. Công ty Liên doanh Nhà máy
Bia Việt Nam là một liên doanh hoạt động theo Luật Đầu tư Nước ngoài được Ủy ban
Nhà nước về hợp tác và đầu tư (nay là Bộ Kế hoạch và Đầu tư) cấp phép số 287/GP
ngày 09 tháng 12 năm 1991. Hai đối tác liên doanh là Công ty Thực phẩm II tại thành
phố Hồ Chí Minh và Công ty Heneiken International Behler (Hà Lan). Đến năm 1994
thì giấy phép liên doanh này được chuyển nhượng sang giấy phép số 287/GPDCI
ngày 27/10/1994 liên doanh với Asia Pacific Breweries PTE.LTD (Singapore). Tổng
số vốn đầu tư là 49,5 triệu USD và vốn pháp định là 17 triệu USD.
Bên liên doanh Việt Nam chiếm 40% và bên liên doanh Singapore chiếm 60% vốn,
ngành nghề sản xuất của liên doanh là sản xuất bia để tiêu thụ trong nước và xuất

khẩu. Khi đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh thì tình trạng kinh doanh của công ty
bị thua lỗ kéo dài qua các năm, nguyên nhân chủ yếu là do phải trả cho chi phí bản
quyền quá cao và tăng dần qua các năm.
Trong tình hình công ty liên doanh thường xuyên thua lỗ, phía liên doanh Việt Nam
chịu ảnh hưởng nặng nề nhưng ngược lại phía liên doanh nước ngoài vẫn không hề
hấn gì vì họ vẫn nhận đủ tiền bản quyền từ nhãn hiệu và tiền bản quyền lại có xu
hướng ngày càng tăng ngày càng tăng.
1.3 Chuyển giá nhằm mục đích chiếm lĩnh thị trường
Các công ty đa quốc gia khi vào thị trường một quốc qia nào đó, mục tiêu ưu tiên
của họ là giành láy thị phần của các công ty nội địa đang hoạt động trong lãnh vực mà
họ kinh doanh. Với mục tiêu này các doanh nghiệp FDI thường sẽ liên doanh với một
công ty nội địa hơn là vào đầu tư thẳng là công ty 100% vốn nước ngoài. Nguyên
nhân là các doanh nghiệp FDI này muốn sử dụng hệ thống phân phối và thị phần có
sẵn của các công ty nội địa. Sau một thời gian liên doanh thì các doanh nghiệp FDI
này sẽ dùng các thủ thuật khác nhau, trong đó có thủ thuật chuyển giá để đẩy công ty
nội địa ra và chuyển công ty liên doanh thành công ty 100% vốn nước ngoài.
Với những thủ thuật này, một mặt các doanh nghiệp FDI sẽ chiếm lĩnh được thị
trường của các công ty nội địa ở quốc gia đó, đồng thời việc đẩy đối tác ra khỏi liên
doanh, các doanh nghiệp FDI sẽ giành được toàn bộ phần lợi nhuận thu dược tử hoạt
động kinh doanh ở quốc gia đó mà vẫn không tốn nhiều chi phí và thời gian cho việc
13
tiềm hiểu thị trường và quản bá hình ảnh.
Năm 2009, có hơn 6.000 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, vốn
thực hiện là 33 tỉ USD, DN nước ngoài chiếm 13,8% tổng sản phẩm xã hội đóng góp
vào xuất khẩu: trừ dầu thô là 33%, cộng cả dầu thô lên đến 53%. Riêng xuất khẩu các
sản phẩm chế tác chất lượng cao DN đầu tư nước ngoài chiếm tới trên 80%. Có thể
thấy doanh nghiệp nước ngoài ngày càng thâm nhập sâu rộng tại thị trường Việt Nam,
chứng tỏ các doanh nghiệp FDI rất thành công trong việc tiếp cận thị trường Việt
Nam cũng như phát triển qui mô sản xuất.
1.4. Chuyển giá thông qua chênh lệch thuế suất

Khi thuế suất thuế TNDN ở hai quốc có mức chênh lệch đáng kể các doanh nghiệp
FDI sẽ dùng hình thức chuyển giá đề làm giảm đáng kể số thuế mà mình phải
nộp.Các doanh nghiệp FDI sẽ chuyển lợi nhuận của mình ở quốc gia có mức thuế
suất thấp, đồng thời dùng các biện pháp để làm tăng chi phí từ đó làm cho hoạt động
kinh doanh luôn ở mức lỗ ở những quốc gia có mức thuế suất cao.
2. CÁC BIỂU HIỆN CHUYỂN GIÁ CỦA CÁC DOANH NGHIỆP FDI TẠI VIỆT
NAM.
Hiện tượng chuyển giá ở Việt Nam hiện nay đang là những vấn đề phức tạp và khó
tiếp cận. Thực trạng chuyển giá đó một mặt cho chúng ta thấy những tác động tiêu
cực đến nền kinh tế nhưng qua đó cũng cho chúng ta thấy rõ hơn sự yếu kém từ trong
nội bộ nền kinh tế, đây được coi là một lỗ hổng tài chính lớn của Việt nam hiện nay.
Bản chất của vấn đề chuyển giá ở đây chính là mối quan hệ về lợi ích giữa các bên.
Nếu Việt Nam có những chính sách, chiến lược kém thì các doanh nghiệp FDI sẽ
không bao giờ bỏ lỡ thời cơ tối đa hóa lợi nhuận bằng cách chuyển giá.
Một trong những cơ sở để đưa ra nghi vấn chuyển giá trong khu vực có FDI ở Việt
Nam thường là: (1) số doanh nghiệp FDI thường xuyên báo cáo lỗ trong nhiều năm
chiếm tỷ lệ lớn, trong tổng số doanh nghiệp FDI, có doanh nghiệp lỗ mất vốn chủ sở
hữu; và mặc dù lỗ thường chuyên như vậy nhưng vẫn tiếp tục mở rộng quy mô sản
xuất, kinh doanh; (2) tỷ suất lợi nhuận (đối với những doanh nghiệp có lãi) trên doanh
thu không đáng kể; (3) tỷ lệ đóng góp vào ngân sách của gia của khu vực FDI ( không
kể dầu thô) thấy (chỉ dao động 9-10% tổng thu ngân sách của quốc gia), trong khi
tổng dự án và tổng kinh phí đầu tư khá cao (23,3% tổng vốn đầu tư xã hội năm 2012).
Trong đó, dấu hiệu đầu tiên (1) là rõ nhất.
Theo thống kê, cả nước có khoảng 50% doanh nghiệp FDI kê khai lỗ, trong đó nhiều
doanh nghiệp thua lỗ liên tục trong 3 năm liên tiếp. Thành phố Hồ Chí Minh, có tới
gần 60% trong số 3500 doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nhiều năm
qua thường xuyên kê khai lỗ. Tỉnh Lâm Đồng cũng xuất hiện tình trạng tương tự với
104/111 doanh nghiệp FDI báo cáo lỗ liên tục. Tỉnh Bình Dương, một trong những
tỉnh thu hút được nhiều dự án FDI cũng có đến 50% doanh nghiệp FDI báo cáo lỗ từ
14

năm 2006-2011 ( Năm 2007, số doanh nghiệp khai báo lỗ chiếm tỷ lệ 53%, năm 2008
là 58%, năm 2009 là 55%, năm 2010 là 44% và năm 2011 là 48%). Mới đây, Thanh
tra Chính phủ công bố Kết luận Thanh tra việc thu nộp ngân sách tại khu chế xuất và
doanh nghiệp chế xuất trên địa bàn thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh
Bình Dương và Đồng Nai đã phát hiện có 57% trong tổng số 399 doanh nghiệp chế
xuất kiểm tra không phát sinh doanh thu hoặc hạch toán lỗ hoặc không lãi; nhiều
doanh nghiệp báo lỗ liên tục nhiều năm. Trong đó, qua xem xét 125 doanh nghiệp
hạch toán lỗ trong 3 năm từ 2009 đến 2011 thì có đến 36 doanh nghiệp lỗ 3 năm liên
tiếp với tổng mức lỗ lên tới trên 2.856 tỷ đồng, 69 doanh nghiệp lỗ 2 năm liên tiếp với
tổng mức lỗ 1.829 tỷ đồng, nhiều doanh nghiệp có số lỗ vượt quá số vốn chủ sở hữu.
Năm 2012, hoàn thành thanh tra, kiểm tra tại 2.161 doanh nghiệp lỗ, có dấu hiệu
chuyển giá, đã kiến nghị thu vào NSNN trên 746 tỷ đồng. Năm 2013, hoàn thành
thanh tra, kiểm tra tại 2.110 doanh nghiệp lỗ, có dấu hiệu chuyển giá, đã kiến nghị thu
vào NSNN trên 988 tỷ đồng, giảm khấu trừ 139,5 tỷ đồng, giảm lỗ 4.192,86 tỷ đồng.
Trong 3 quý đầu năm 2013, Tổng cục Thuế và các cơ quan thuế địa phương ở Việt
Nam đã có nhiều đợt thanh, kiểm tra kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp FDI
đang hoạt động tại Việt . Trong đó, đã có 122 doanh nghiệp tại 23 tỉnh, thành bị
ngành thuế thanh tra đặc biệt do nghi chuyển giá. Sau thanh, kiểm tra, nhiều doanh
nghiệp từ lỗ "bỗng dưng" thành lãi, từ lãi ít chuyển sang lãi nhiều, lãi lớn. Trong 8
tháng đầu năm 2014, khi thanh tra, kiểm tra tại hơn 39.000 DN, các cơ quan chức
năng đã phát hiện gần 2.000 DN có dấu hiệu chuyển giá, truy thu hơn 1.000 tỷ đồng,
giảm lỗ lên tới trên 4.000 tỷ đồng. Kết quả, các doanh nghiệp này đã buộc phải điều
chỉnh giảm lỗ phát sinh và giảm chuyển lỗ tổng số tiền là 2.252 tỷ đồng. Trong đó,
giảm lỗ phát sinh 1.870 tỷ đồng, giảm số lỗ được chuyển vào kỳ tính thuế thực hiện
thanh tra, kiểm tra là 335 tỷ đồng. Qua đó, tổng số tiền thu nhập chịu thuế của các
doanh nghiệp này tăng lên là 2.599 tỷ đồng.
Theo Báo cáo Động thái doanh nghiệp Việt Nam 6 tháng đầu năm 2014 và dự cảm
của doanh nghiệp sáu tháng cuối năm 2014 của Phòng Thương mại và Công nghiệp
Việt Nam (VCCI), các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đang
bộc lộ những vấn đề gây ảnh hưởng đến tính bền vững của tăng trưởng. Tỷ lệ doanh

nghiệp FDI lỗ luôn luôn là cao nhất trong ba thành phần kinh tế, một trong những
nguyên nhân được báo cáo chỉ ra là việc có hiện tượng chuyển giá trong các doanh
nghiệp FDI. Kết quả khảo sát cho thấy, 56% doanh nghiệp cho rằng các doanh nghiệp
FDI thường sử dụng hình thức chuyển giá bằng cách mua nguyên liệu đầu vào sản
xuất của công ty mẹ với giá cao và bán sản phẩm cho công ty mẹ với giá thấp và lãi ở
công ty mẹ để so với giá thực tế. Điều này sẽ dẫn đến lỗ ở công ty con và lãi ở công
ty mẹ để lách thuế vì thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp ở quốc gia công ty mẹ đặt
trụ sở thấp hơn ở Việt Nam.
VCCI tiến hành cuộc khảo sát điều tra thực tế, bằng nhiều phương pháp thích hợp,
qua đó làm rõ vấn nạn chuyển giá với sự thừa nhận của chính DN FDI. Cuộc điều tra
15
khảo sát này được thực hiện tại 13 tỉnh và TP với hơn 1.600 DN FDI (mang tính đại
diện cho cộng đồng DN FDI) đến từ 49 quốc gia của vùng lãnh thổ đang hoạt động tại
Việt Nam.
(Tỉ lệ thực hiện chuyển giá của các nhóm DN theo khảo sát điều tra của VCCI năm
2014)
Cùng với đó, theo báo cáo mới đây của 63 cục thuế, hơn 100 chi cục thuế trên cả
nước, kết quả thanh tra tại 870 DN FDI thì có tới 720 DN vi phạm. Có một số địa
phương, thanh tra thuế đi kiểm tra DN FDI đến đâu thì tất cả đều vi phạm đến đó. Ví
dụ Cục thuế Quảng Ngãi khi thanh tra 27 DN thì tất cả đều vi phạm; Bắc Giang thanh
tra 14 DN thì cả 14 đều vi phạm. Tỷ lệ này diễn ra tương tự tại các Cục thuế của tỉnh
Hòa Bình (16/16), Gia Lai (15/15)…Trước khi thực hiện cuộc thanh kiểm tra trên,
Tổng cục Thuế cũng đã tiến hành tổng rà soát kết quả kinh doanh những năm gần đây
đối với 5.531 doanh nghiệp FDI, chiếm khoảng gần 60% số doanh nghiệp FDI đang
hoạt động trên cả nước. Trong đó, có 3.175 doanh nghiệp có số lỗ luỹ kế đến thời
điểm đánh giá, chiếm 57,4%. Đặc biệt, có 529 doanh nghiệp báo cáo lỗ, nhưng vẫn
tăng trưởng doanh thu, tập trung vào các ngành: dệt, may, da giày, dịch vụ hỗ trợ kinh
doanh, chế biến và bảo quản nông sản, lâm sản, thuỷ sản
Đáng chú ý, kết luận thanh tra nêu trên cho thấy nhiều doanh nghiệp mặc dù kê khai
lỗ lớn trong nhiều năm nhưng hằng năm, tốc độ tăng doanh thu vẫn cao, hoạt động

sản xuất kinh doanh liên tục được mở rộng. Trên cơ sở phân tích các số liệu, Thanh
tra Chính phủ cho rằng đó "là biểu hiện của việc chuyển gia, nhưng do không xác
minh được thông tin đầu ra đối với các doanh nghiệp nước ngoài nên cơ quan thuế
không đủ cơ sở để xem xét, xử lý".
16
Các báo cáo của cơ quan thuế cho thấy, các doanh nghiệp FDI báo cáo kinh doanh
thua lỗ thường tập trung trong lĩnh vực gia công may măc, da giày; sản xuất, kinh
doanh chè xuất khẩu; công nghiệp chế biến… Đặc biệt, ở thành phố Hồ Chí Minh, có
đến 90% doanh nghiệp FDI hoạt động trong lĩnh vực may mặc có kết quả kinh doanh
thua lỗ trong khi hầu hết các doanh nghiệp trong nước cùng ngành nghề đều có lãi.
Mặc dù thua lỗ triền miên song các doanh nghiệp FDI này vẫn đầu tư mở rộng sản
xuất, kinh doanh.
Trường hợp điển hình có những biểu hiện "đáng ngờ" về chuyển giá, trước tiên, phải
nói đến công ty Coca-Cola Việt Nam. Trong gần 20 năm đầu tư, kinh doanh tại Việt
Nam, Coca-Cola liên tục báo lỗ, lỗ lũy kế tính đến 30-9-2011 của công ty này đã lên
tới 3.768 tỷ đồng. Do lỗ liên tục như vậy nên Coca-Cola Việt Nam không phải đóng
thuế thu nhập doanh nghiệp, trong khi doanh thu liên tục tăng từ 20-30%/năm. Và
điều đáng ngạc nhiên hơn là tuy lỗ lớn như vậy nhưng doanh nghiệp này đã có kế
hoạch đầu tư thêm 300 triệu USD tại Việt Nam.
Một công ty khác nằm trong diện nghi vấn chuyển giá với giá trị lớn lên đến hơn
1.200 tỷ đồng, là Công ty PepsiCo Việt Nam. Từ khi thành lập năm 1991, gần 20 năm
qua PepsiCo lỗ liên tục, cho đến một số năm gần đây mới có lãi nhưng tỷ lệ lợi nhuận
trên doanh thu rất thấp, chỉ trên 2%. Mặc dù vậy, PepsiCo Việt Nam vẫn liên tục mở
rộng đầu tư, xây dựng các nhà máy mới ở Đồng Nai (45 triệu USD), Bắc Ninh (73
triệu USD). Công ty TNHH Metro Cash & Carry Việt Nam (thường gọi là siêu thị
Metro) cũng trong diện "nghi vấn"; thành lập từ năm 2001, đến nay đơn vì này đã
phát triển 19 trung tập bán sỉ trên cả nước nhưng thua lỗ triền miên dù doanh thu tăng
liên tục hàng năm. Cụ thể, năm 2007 lỗ 157 tỷ đồng/doanh thu 6.607 tỷ đồng; năm
2008, lỗ hơn 190 tỷ đồng/doanh thu 8.175 tỷ đồng; năm 2009, lỗ 160 tỷ đồng/doanh
thu 8.728 tỷ đồng.

Một loạt doanh nghiệp FDI chuyên sản xuất, kinh doanh chè ở Lâm Đồng cũng thực
hiện chuyển giá và đã được cơ quan thuế của tỉnh này xử lý. Theo số liệu của Cục
thuế tỉnh Lâm Đồng, 17 doanh nghiệp FDI sản xuất, kinh doanh chế biến chè trên địa
bàn tỉnh năm 2009 xuất khẩu được 1.522 tấn, doanh thu 105 tỷ đồng, lỗ 63,68 tỷ
đồng, lũy kế lỗ đến thởi điểm 31-12-2009 là 317 tỷ đồng. Nguyên nhân dẫn đến lỗ
của các doanh nghiệp này rất phi lý. Cụ thể, để sản xuất 1kg chè ô long thành phẩm
giá nguyên liệu chính là 175.000 đồng/kg trong khi đó các doanh nghiệp này xuất
khẩu với giá chỉ từ 2,8-4USD/kg (không quá 84.000 VND).
Mới đây, báo cáo của Thanh tra Chính phủ cũng cho thấy điều bất thường khi nhiều
doanh nghiệp FDI có "tiếng tăm" khai lỗ lớn song họ vẫn không hề có "nao núng" mà
tiếp tục mở rộng sản xuất, kinh doanh. Có thể nêu một số trường hợp điển hình sau:
Công ty TNHH Sumitomo Bakelite Việt Nam, 100% vốn Nhật Bản có trụ sở tại
Khu công nghiệp Thăng Long Hà Nội có số lỗ lũy kế 3 năm lên tới hơn 777 tỷ đồng.
17
Công ty TNHH điện tử Meiko Việt Nam – một trong 10 dự án đầu tư trực tiếp nước
ngoài lớn nhất năm 2006 và là dự án sản xuất điện tử có vốn FDI lớn nhất vào Vệt
Nam tại thời điểm cấp phép – có số lỗ 3 năm là hơn 300 tỷ đồng.
Công ty TNHH Sản phẩm công nghiệp Toshiba Asia với mức lỗ lũy kế 3 năm là hơn
430 tỷ đồng. Công ty TNHH Kureha Việt Nam với mức lỗ lũy kế 2 năm là 256 tỷ
đồng. Công ty TNHH Saigon Stec (Bình Dương) với mức lỗ lũy kế 3 năm trên 218 tỷ
đồng1.
Ngoài các công ty trên, còn một loạt các "tên tuổi" khác cũng nằm trong nghi án
chuyển giá, như: Adidas, Big C, Keangnam Vina Ngành thuế Việt Nam trong nỗ
lực chống chuyển giá đã buộc các doanh nghiệp giảm lỗ và truy thu thuế một khoảng
tiền khá lớn. Chỉ tính riêng thành phố Hồ Chí Minh, trong năm 2012, khi thanh tra
312 doanh nghiệp kê khai lỗ liên tục, trong đó có doanh nghiệp trong diện nghi vấn
chuyển giá đã giảm lỗ 2.688 tỷ đồng, giảm khấu trừ 27,83 tỷ đồng, truy thu 187,79 tỷ
đồng, truy hoàn 2,64 tỷ đồng và phạt gần 85 tỷ đồng, số thuế truy nộp ngân sách là
275,43 tỷ đồng. Ở quy mô toàn quốc, trong năm 2011, sau khi thanh tra, kiểm tra 921
doanh nghiệp FDI lỗ, ngành thuế đã xử lý giảm lỗ 6.617 tỷ đồng, truy thu và phạt

1.669 tỷ đồng.
Với những cơ sở trên, có thể khẳng định, vấn đề chuyển giá trong các doanh nghiệp
FDI ở Việt Nam đang ngày càng phổ biến và cuộc đầu tranh chống chuyển giá ngày
càng khó khăn, phức tạp đòi hỏi các cơ quan chức năng, nhất là ngành thuế đề ra các
biện pháp hữu hiệu hơn trong kiểm soát chuyển giá.
B. TÁC HẠI ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ.
Hiện nay, tại Việt Nam, đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI) là hình thức đầu tư phổ
biến và là giải pháp hỗ trợ vốn hữu hiệu cho một nước đang phát triển như Việt Nam.
Đặc biệt, từ khi thực hiện mở cửa nền kinh tế, luồng vốn FDI đổ vào Việt Nam ngày
càng nhiều, kể cả về mặt số lượng cũng như chất lượng. Nhờ đầu tư FDI, Việt Nam
đã tiếp nhận được nhiều kỹ thuật, bí quyết công nghệ mới, năng lực quản lý
marketing, kinh nghiệm quản lý và điều hành, nguồn nhân sự với trình độ cao thông
qua các hợp đồng kinh tế, các hợp đồng liên doanh, liên kết hay các hợp đồng chuyển
giao công nghệ.
Tuy nhiên, bên cạnh những đóng góp tích cực của luồng vốn FDI đối với sự phát
triển của kinh tế và xã hội Việt Nam thì vẫn có những tiêu cực nảy sinh. Đáng chú ý
nhất hiện nay là vấn đề “chuyển giá”. Như nhiều quốc gia khác, phần lớn các chủ đầu
tư FDI là các công ty đa quốc gia ( doanh nghiệp FDI) như Coca Cola, Pepsi, Intel,
Microsoft, Unilever, P&G, Nestle, Metro, PWC, Kao, Avon, Mercedes Benz… Các
doanh nghiệp FDI này cùng với mạng lưới các công ty con trên phạm vi toàn cầu sẽ
luôn liên kết với nhau và hoạt động nhằm mục tiêu chung nhất là tối đa hóa lợi nhuận
18
của toàn bộ doanh nghiệp FDI. Nếu như “chuyển giá” là một trong những cách thức
giúp các doanh nghiệp FDI đạt được mục tiêu trên thì đó lại là một mầm mống đe
dọa nền kinh tế của chúng ta. Sau đây là một số tác hại mà “chuyển giá” gây ra:
Thứ nhất, vấn đề “chuyển giá” của các doanh nghiệp FDI có thể gây thất thoát
cho nguồn thu ngân sách quốc gia và ảnh hưởng đến nền sản xuất hàng hóa nội địa.
Việc chuyển giá bằng cách định giá quá cao hoặc quá thấp trong hoạt động thương
mại giữa nội bộ công ty của các doanh nghiệp FDI nhằm chuyển thu nhập và lợi
nhuận từ nước có thuế cao sang nước có thuế thấp là cách các doanh nghiệp FDI đang

thực hiện để tránh thuế. Đặc biệt, với mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp ở
Việt Nam hiện nay là 25%, cao hơn hẳn so với khu vực càng tạo động cơ cho các
doanh nghiệp FDI thực hiện chuyển giá để né thuế. Cụ thể, các doanh nghiệp FDI
nhập khẩu nguyên liệu máy móc đầu vào từ công ty mẹ (hay các công ty liên kết) ở
mức giá cao, sau đó, họ bán lại hàng hóa sản xuất ở Việt Nam cho công ty mẹ với giá
thấp. Bằng cách này, các doanh nghiệp FDI đã “né” được thuế thu nhập doanh
nghiệp, và tiếp tục được hoàn thuế giá trị gia tăng. Ngoài ra, việc kê khống giá nhập
khẩu nguyên vật liệu, máy móc thiết bị từ công ty mẹ ở nước ngoài cũng làm cho giá
thành sản phẩm của doanh nghiệp FDI tăng lên. Đây là cơ sở để họ báo cáo lỗ. Theo
thống kê của Cục thuế Thành Phố Hồ Chí Minh thì có hơn 70% các doanh nghiệp
FDI trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh kê khai lỗ mặc dù làm ăn tốt và tăng trưởng
cao. Cách làm của các doanh nghiệp này đã gây thất thoát đáng kể nguồn thu thuế
trong nước. Trong năm 2006, hầu hết các nguồn thu ngân sách đều tăng, chỉ có nguồn
thu từ khu vực đầu tư nước ngoài (FDI) là thấp hơn dự toán ngân sách tới 7%. Nếu
tình trạng này kéo dài sẽ làm cho các doanh nghiệp FDI “lờn thuốc” đối với hệ thống
pháp luật của Việt Nam. Trong thời đại kinh tế quốc tế hội nhập, các doanh nghiệp
FDI ngày càng mở rộng thị trường và có thêm nhiều chi nhánh, công ty con trên nhiều
quốc gia khác nhau; hệ thống mua bán hàng hóa, cung cấp nguyên vật liệu, thiết bị,
dịch vụ cho nhau càng phát triển thì hoạt động chuyển giá càng có nhiều cơ hội để
thực hiện. Như vậy, trong tương lai, không lấy gì đảm bảo rằng ngân sách nhà nước
sẽ không bị thất thu nhiều hơn nữa, thậm chí còn phải chi thêm để hoàn lại các khoản
thuế “ảo” cho các doanh nghiệp FDI này.
Thứ hai, chuyển giá sẽ tạo sự không công bằng trong cạnh tranh giữa doanh
nghiệp FDI với doanh nghiệp nội địa. Chẳng hạn, một doanh nghiệp FDI sử dụng
công cụ “chuyển giá” để tối ưu hóa lợi nhuận về công ty mẹ ở nước ngoài trong khi
đó báo cáo thua lỗ tại quốc gia đang kinh doanh để khỏi đóng thuế và nhiều trường
hợp được hoàn thuế, như vậy công ty FDI đó sẽ có nhiều nguồn lực về tài chính hơn
để đầu tư vào các hoạt động tiếp thị, quảng bá. Trong khi đó, doanh nghiệp nội địa
phải thực hiện nghĩa vụ thuế nghiêm túc hơn nên ít nhiều sẽ thua thiệt với các công ty
FDI. Hiện tượng này đang có xu hướng gia tăng đối với các doanh nghiệp sản xuất

hàng tiêu dùng, thực phẩm, chẳng hạn như sữa, cà phê Nếu các doanh nghiệp trong
nước không đủ tiềm lực tài chính để cạnh tranh, họ sẽ dần dần bị mất ưu thế và đưa
19
đến phá sản hoặc buộc phải chuyển sang kinh doanh trong các ngành khác. Các
doanh nghiệp FDI sẽ dần trở nên độc quyền và thao túng thị trường trong nước, kiểm
soát giá cả và mất dần tính tự do cạnh tranh của thị trường tự do. Khi đó, Chính phủ
sẽ gặp khó khăn trong quá trình hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô và không thể
thúc đẩy ngành sản xuất trong nước phát triển.
Thứ ba, đối với các doanh nghiệp FDI mới tham gia, họ có thể sử dụng chuyển
giá để thâm nhập thị trường và từng bước chiếm lĩnh thị trường trong nước. Việc này
có thể được thực hiện trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua việc thôn tính các doanh
nghiệp trong nước. Nếu thực hiện trực tiếp, các doanh nghiệp FDI sẽ tăng cường các
hoạt động quảng cáo, khuyến mãi quá mức để thu hút chú ý của người tiêu dùng. Nếu
thực hiện gián tiếp, với tiềm lực tài chính mạnh, các doanh nghiệp FDI sẽ tiến hành
liên doanh với các doanh nghiệp trong nước với tỷ lệ vốn góp cao để nắm quyền quản
lý. Khi đã nắm được quyền quản lý các doanh nghiệp FDI sẽ thực hiện hành vi
chuyển giá nhằm làm cho kết quả kinh doanh thua lỗ kéo dài. Khi kết quả hoạt động
kinh doanh bị thua lỗ thì bắt buộc phải tăng vốn góp lên, nếu các đối tác không đủ
tiềm lực tài chính sẽ phải bán lại phần vốn góp của mình và như vậy là từ công ty liên
doanh chuyển thành công ty 100% vốn nước ngoài. Doanh nghiệp FDI nắm giữ được
quyền sở hữu công ty. Kế hoạch thôn tính doanh nghiệp trong nước đã thành công.
Hai ví dụ điển hình cho trường hợp này là công ty Coca Cola Chương Dương và P&G
Việt Nam. Sau khi đánh bật các các đối thủ và những bên liên kết kinh doanh ra khỏi
thị trường, doanh nghiệp FDI sẽ chiếm lĩnh thị trường và nâng giá sản phẩm để bù lại
phần chi phí trước đây đã bỏ ra. Đây là tình trạng thường gặp ở Việt Nam khi mà
trình độ quản lý còn yếu kém.
Thứ tư, các hoạt động chuyển giá sẽ làm kế hoạch phát triển nền kinh tế quốc
dân của Chính phủ bị lệch hướng. Thông qua hoạt động chuyển giá, các doanh
nghiệp FDI định giá cao các yếu tố đầu vào, từ đó rút ngắn thời gian thu hồi vốn, vì
vậy mà các luồng vốn có xu hướng chảy ngược ra khỏi Việt Nam. Điều này sẽ làm

thay đổi cơ cấu vốn của nền kinh tế quốc gia. Ngoài ra, nhập khẩu nguyên liệu, máy
móc cao hơn giá trị thực cũng góp phần làm mất cân đối cán cân ngoại tệ và gây nên
tình trạng nhập siêu. Hậu quả của những vấn đề trên là tạo ra sự phản ánh sai lệch kết
quả hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế, tạo ra một bức tranh kinh tế
không trung thực. Từ đó, gây cho Chính phủ nhiều khó khăn trong quá trình hoạch
định các chính sách kinh tế vĩ mô và không thể thúc đẩy ngành sản xuất trong nước
phát triển.
Như vậy, có thể thấy hoạt động chuyển giá gây ra rất nhiều tác động tiêu cực đến
nền kinh tế Việt Nam. Vì vậy, Nhà nước Việt Nam cần sớm đề ra các biện pháp hữu
hiệu để phát hiện và ngăn chặn kịp thời hoạt động chuyển giá. Nếu không, trong dài
hạn, nền kinh tế Việt Nam sẽ bị suy yếu và phụ thuộc vào các doanh nghiệp FDI; và
20
một khi không tự chủ được về kinh tế, bị chi phối về chính trị, xã hội là điều hoàn
toàn có thể xảy ra.
III. GIẢI PHÁP CHO VẤN ĐỀ CHUYỂN GIÁ
1. Kinh nghiệm giải quyết vấn đề chuyển giá ở các quốc gia khác
Ngày nay cùng với sự phát triển ngày một lớn mạnh của các công ty đa quốc gia
hoạt động chuyển giá đã trở thành một thủ thuật tinh vi và phức tạp không thể thiếu
của các công ty này nhằm nhiều mục đích khác nhau. Hành vi chuyển giá của doanh
nghiệp FDI thường mang lại những tác động xấu cả cho nước tiếp nhận đầu tư. Vì
vậy các quốc gia luôn tiến hành nghiên cứu và học hỏi kinh nghiệm của các nước
khác để chống các thủ thuật chuyển giá này.
a) Kinh nghiệm chống chuyển giá ở Mỹ:
Mỹ là một quốc gia có nền kinh tế phát triển, và cũng là quốc gia dẫn đầu về kinh
nghiệm trong vấn đề quản lý nền kinh tế. Thế nhưng Mỹ cũng đa gặp không ít những
khó khăn trong vấn đề chống chuyển giá.
Pháp luật của Mỹ qui định là phần thu nhập được tạo ra trên lãnh thổ của Mỹ thì
phải nộp thuế thu nhập cho dù là Công ty đa quốc gia này có thuộc quyền sở hữu của
Mỹ hay không. Các công ty này không được né tránh nộp thuế thu nhập cho phần thu
nhập phát sinh trên đất Mỹ bằng cách chuyển lợi nhuận ra nước ngoài thông qua hành

vi chuyển giá hay chuyển dịch hoạt động sản xuất kinh doanh hay đầu tư vào các
quốc gia có thuế suất cực thấp còn được gọi là “các thiên đường về thuế”. Mặc dù luật
pháp kinh tế Mỹ rất phát triển và hiện đại nhưng vẫn tỏ ra bất lực trong việc cố gắng
để đạt các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô được đưa ra.
Cơ quan thuế nội địa của Mỹ - IRS (Internal Revennue Service) đã khảo sát và đưa
ra được bằng chứng là các công ty đa quốc gia đang hoạt động trên đất Mỹ mà không
thuộc quyền sở hữu của Mỹ thì hầu hết nộp thuế ít hơn so với các công ty nội địa. Các
kẽ hở về luật pháp cũng được các công ty đa quốc gia thuộc sở hữu của Mỹ lợi dụng
để giảm khoản thuế phải nộp và dần tạo nên xu hướng chuyển dịch đầu tư của các
công ty Mỹ ra ngoài nước Mỹ. Trong thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp FDI rất rộng lớn và phức tạp, các nghiệp vụ mua bán diễn ra với khối
lượng lớn và độ phức tạp cao, vì vậy mà tiếp cận và phát hiện các nghiệp vụ nào có
chứa đựng hành vi chuyển giá là rất khó. Tương tự rất khó xác định lợi nhuận nào là
tạo ra trên đất Mỹ và lợi nhuận nào là tạo ra ngoài đất Mỹ một cách chính xác.
Mặc dù có nhiều cải cách nhưng hệ thống thuế của nước này “đầy những lỗ hổng,
giúp các công ty né tránh hợp lý tới mức hoàn hảo việc thực hiện đầy đủ nghĩa vụ
thuế”. Tiêu biểu cho những lỗ hỏng đó là do đặc điểm là thuế suất thuế thu nhập
doanh nghiệp của Mỹ (CIT) so với các quốc gia khác là rất cao (40%) nên các doanh
21
nghiệp FDI có xu hướng là chuyển lợi nhuận ra nước ngoài vì họ cho rằng thuế suất
tại Mỹ cao và chính phủ không xem xét hết các chi phí của họ. Bên cạnh đó Mỹ cũng
đánh thuế tương đối cao trên thu nhập từ thị trường nước ngoài. Ví dụ một công ty
Mỹ tại Hàn Quốc cũng phải nộp thuế tại Hàn Quốc, nhưng nếu mang số lợi nhuận còn
lại về nước, họ sẽ đối mặt mức thuế doanh nghiệp 35% tại Mỹ. Các công ty Mỹ có thể
trì hoãn việc nộp thuế bằng cách giữ lợi nhuận ở nước ngoài, và trên thực tế đã rất
nhiều doanh nghiệp đã làm vậy. Tới khi chuyển số lợi nhuận này về nước, các công ty
này nhận tín dụng cho phần thuế đã nộp ở nước ngoài. Trong trường hợp này, họ chỉ
phải phải trả phần thuế chênh lệch giữa thuế suất ở Hàn Quốc (27,5%) và thuế suất ở
Mỹ (35%). Trong khi ở nhiều nước khác trên thế giới không đánh thuế lên thu nhập
từ nước ngoài mà các công ty đa quốc gia của họ đã thu được. Lấy một công ty đa

quốc gia của Thụy Sỹ hoạt động tại Hàn Quốc làm ví dụ. Công ty này trả 27,5% thuế
lợi nhuận doanh nghiệp tại Hàn Quốc và đưa về nước số lợi nhuận còn lại mà không
phải trả thêm đồng thuế nào tại Thụy Sỹ.
Một số ví dụ dẫn chứng các doanh nghiệp FDI đã tối thiểu hóa số thuế phải nộp:
- Vào năm 1987, Công ty IBM trình báo cáo tài chính hàng năm trước đại hội cô đông
thì hãng này cho rằng 1/3 lợi nhuận kiếm được trong năm là từ hoạt động kinh doanh
trên đất Mỹ. Tuy nhiên khi kê khai với cơ quan thuế thì IBM đã kê khai rất nhiều chi
phí R&D liên quan đến thị trường Mỹ vì vậy mà phần lợi nhuận kiếm được trên thị
trường Mỹ gần như bằng không và kết quả là IBM tránh được nghĩa vụ nộp thuế cho
chính phủ Mỹ mặt dù doanh thu thuần của IBM vào năm 1987 là 25 tỷ USD.
- Một ví dụ khác là Tập đoàn Intel đã thắng một vụ kiện liên quan đến thuế khi bị cáo
buộc là đã che giấu hàng triệu USD lợi nhuận từ nguồn doanh thu bán các vi mạch
sản xuất tại Mỹ nhưng được khai báo với cơ quan thuế là sản xuất tại Nhật Bản. Do
bất cập trong hiệp ước thuế quan giữa Mỹ và Nhật Bản mà cả hai quốc gia này bị thất
thu thuế và tập đoàn Intel đã tránh được khoảng thuế phải nộp.
- Một cách tránh thuế đánh vào lợi nhuận phổ biến là các công ty sẽ đầu tư mở chi
nhánh tại Puerto Rico. Sau đó các công ty này sẽ chuyển các tài sản có giá trị như: bí
quyết thương mại, bằng sáng chế và các hoạt động R&D đến Puerto Rico. Các doanh
nghiệp FDI sẽ khai báo phần lớn lợi nhuận kiếm được là tại Puerto Rico và với thuế
suất thấp tại đây thì các doanh nghiệp FDI sẽ tối thiểu được thuế phải nộp. Theo một
thông báo của cơ quan thuế của Mỹ thì trong vòng 7 năm các doanh nghiệp FDI đã
làm thiệt hại 95 tỷ USD cho ngân khố Mỹ.
Trước tình hình chuyển giá do các doanh nghiệp FDI thực hiện trên đất Mỹ thì cơ
quan thuế của Mỹ đã có ban hành các qui định, các đạo luật chống chuyển giá. Một
trong những đạo luật chống chuyển giá cơ bản và đầy đủ là IRS Sec 482. Đạo luật này
quy định nguyên tắc căn bản giá thị trường là cơ sở cho thực hiện định giá chuyển
giao giữa các doanh nghiệp FDI với nhau nhưng đồng thời cổ vũ cho việc vận dụng
22
phương pháp định giá chuyển giao trên cơ sở chiết tách lợi nhuận. Năm 1993, căn cứ
theo Omnibus Budget Reconciliation Act, Đạo luật chống chuyển giá IRS Sec 6662 ra

đời kèm theo một số thay đổi nhằm chặt chẽ hơn và tăng cường hiệu quả chống
chuyển giá. Trong Đạo luật 6662 có hai nguyên tắc chế tài mới dành cho hành vi
chuyển giá:
- Phạt chuyển giá trong giao dịch (Transactional Penalty): là loại hình chế tài khi có
chênh lệch đáng kể trong giá chuyển giao nếu so sánh với căn bản giá thị trường theo
Quy định IRS sec 482, mà hậu quả là số thu nhập chịu thuế không phản ánh đúng
thực tế của nghiệp vụ phát sinh. Mức phạt chuyển giá 20% dành cho trường hợp có
sai sót đáng kể do chuyển giá khi chuyển giá vượt quá mức 200% (hay ít hơn 50%) so
với mức mà IRS sec 482 xác định được.
- Phạt bổ sung (Net Adjustment Penalty): phạt bổ sung được áp dụng nếu phần thu
nhập chịu thuế sau khi tính lại theo IRS Sec 482 tăng vượt mức qui định có thể cho
trước. Ví dụ khoản phạt bổ sung 20% trên số thuế truy thu sẽ áp dụng trong trường
hợp phần thu nhập tăng thêm vượt quá mức thấp nhất trong hai mức sau – 5 triệu
USD hoặc 10% trên tổng số thuế phải nộp. Phạt bổ sung 40% trên số thuế truy thu sẽ
áp dụng trong trường hợp phần thu nhập tăng thêm vượt quá mức thấp nhất trong hai
mức sau – 20 triệu USD hoặc 20% trên tổng số thuế phải nộp.
b) Kinh nghiệm từ các thành viên SGATAR: Tổ chức nghiên cứu và quản lý thuế khu
vực châu Á:
Việc xác định hành vi chuyển giá luôn là thách thức lớn do phải xác định được sự
chênh lệch giá giao dịch nội bộ với giá thị trường trong các đơn vị liên kết. Nhân sự
kiên họp cấp chuyên viên lần thứ 11 của Tổ chức nghiên cứu và quản lý Thuế khu
vực châu Á, các nhà quản lý Việt Nam đã có dịp được học hỏi kinh nghiệm từ phía
các nước bạn.
• Hàn Quốc:
Cơ quan Thuế Hàn Quốc cho biết, theo luật pháp Hàn Quốc, các tổ chức, cá nhân có
các giao dịch quốc tế phải báo cáo giá chuyển nhượng khi nộp hồ sơ kê khai thuề, tuy
nhiên để đạt được sự chắc chắn trong phương pháp định giá chuyển nhượng, các tổ
chức cá nhân có thể áp dụng một thỏa thuận trước khi xác định giá với cơ quan thuế.
Và để sát thực của thông tin, cơ quan thuế cũng có bộ phận thẩm định giá để kiểm tra
tính xác thực của giá chuyển giao được kê khai trong các báo cáo, trong đó, các thông

tin của bộ phận thẩm định giá được lấy từ kho cơ sở dữ liệu thương mại và sự phối
hợp thông tin với các nước khác.
• Australia:
23
Từ năm 1992, ở tất cả các cấp trong bộ máy Cơ quan thuế Australia đã thành lập bộ
phận chống chuyển giá trên cơ sở các hiệp định song phương được ký kết giữa Chính
phủ Australia với các quốc gia khác trong đó có các quy định về chuyển giá.
Cơ quan thuế Australia áp dụng hệ thống quản lý rủi ro đối với các tập đoàn và công
ty đa quốc gia trên cơ sở khuyến khích tinh thần tự nguyện trong việc kê khai giá
chuyển nhượng và phân chia lợi nhuận giữa các bên. Khi xảy ra mâu thuẫn hoặc thấy
có dấu hiệu vi phạm, cơ quan thuế sẽ dựa trên biên bản thoả thuận song phương giữa
Australia với các nước và khung pháp luật thuế để giải quyết các vướng mắc và xử lý
vi phạm.
• Papua New Guinea:
Cơ quan thuế sẽ dựa trên hoạt động thực tế giữa các bên liên quan để phân chia lợi
nhuận. Cũng giống như Australia, Papua New Guinea cũng áp dụng quản lý rủi ro
trong quản lý giá, trong trường hợp có dấu hiệu vi phạm về chuyển giá, cơ quan thuế
sẽ gửi bản câu hỏi đến các đơn vị trong cùng tập đoàn và tổ chức điều tra, đối chiếu
với bản câu hỏi đó để phát hiện những bất và yêu cầu các đơn vị giải trình. Trường
hợp không giải trình được, cơ quan thuế sẽ áp dụng các chế tài theo pháp luật để xử lý
vi phạm.
• Nhật Bản:
Để hạn chế tối đa những rủi ro về chuyển nhượng giá, Nhật Bản đã ký các hiệp định
với các nước để phối hợp quản lý chặt chẽ hoạt động kinh doanh của công ty mẹ và
công ty con. Cuộc khủng hoảng kinh tế thời gian vừa qua đã làm khoản lỗ ở các công
ty con cộng dồn về công ty mẹ ở Nhật Bản là rất lớn, do đó để giảm thiểu tác động
của khủng hoảng kinh tế, tránh hoạt động chuyển giá, Tổng cục Thuế Nhật Bản đang
tập trung lực lượng thực hiện việc thanh tra, trong đó yêu cầu các đơn vị kinh doanh
thu thập, kê khai các thông tin về giá giao dịch và gửi về cho cơ quan thuế. Qua kiểm
tra, nếu phát hiện doanh nghiệp có dấu hiệu rủi ro, cơ quan thuế sẽ trực tiếp xuống

kiểm tra, thanh tra.
2. Giải pháp cho Việt Nam
a. Kinh nghiệm chống chuyển giá tại Việt Nam:
Có một điều không thể phủ nhận là nền kinh tế của nước ta còn khá non trẻ và trình
độ quản lý của các nhà lập pháp Việt Nam thì luôn được nhắc đến với rất yếu kém và
lạc hậu. các lĩnh vực kinh tế thì lại rất phức tạp. Do đó, ngay trong buổi đầu chuyển
đổi để hòa nhập vào nền kinh tế thế giới, rất nhiều công ty của Việt Nam đã phải gánh
chịu những thiệt thòi to lớn trong các phi vụ chuyển giá gây nên bởi các công ty đa
quốc gia. Đây quả là cuộc chiến không cân sức giữa người tí hon và những gã khổng
lồ.Bao nhiêu năm qua, bên cạnh những bài học cũ đó, Việt Nam đã và đang không
24
ngừng học hỏi kinh nghiệm từ các nước ban trên thế giới, đặc biệt là những nước có
đặc điểm kinh tế xã hội gần gũi với Việt Nam, trong cuộc chiến chống chuyển giá.
b. Giải pháp cho Việt Nam
Có một điều không thể phủ nhận là nền kinh tế của nước ta còn khá non trẻ và trình
độ quản lý của các nhà lập pháp Việt Nam thì luôn được nhắc đến với rất yếu kém và
lạc hậu. các lĩnh vực kinh tế thì lại rất phức tạp. Do đó, ngay trong buổi đầu chuyển
đổi để hòa nhập vào nền kinh tế thế giới, rất nhiều công ty của Việt Nam đã phải gánh
chịu những thiệt thòi to lớn trong các phi vụ chuyển giá gây nên bởi các công ty đa
quốc gia. Đây quả là cuộc chiến không cân sức giữa người tí hon và những gã khổng
lồ. Bao nhiêu năm qua, bên cạnh những bài học cũ đó, Việt Nam đã và đang không
ngừng học hỏi kinh nghiệm từ các nước bạn trên thế giới, đặc biệt là những nước có
đặc điểm kinh tế xã hội gần gũi với Việt Nam, trong cuộc chiến chống chuyển giá.
c. Một số vấn đề gây khó khăn trong chống chuyển giá ở Việt Nam
Phát hiện chống chuyển giá là một vấn đề nan giải của tất cả các nước chứ không
riêng gì Việt Nam. So với các nước trong khu vực Việt Nam có thuế suất thuế thu
nhập doanh nghiệp khá cao 25%. Vì vậy, việc các công ty đa quốc gia-mà đại diện là
các công ty có vốn đầu tư FDI-thực hiện chuyển giá là việc thường xuyên xảy ra.Có
một số vấn khó khăn mà cho đến nay Việt Nam vẫn chưa thể xử phạt được các công
ty này :

Thứ nhất, Việt Nam vẫn còn khá non trẻ trong việc phát hiện và xử phạt các vi phạm
kinh tế đặc biệt là đối với các công ty đa quốc gia .Luật pháp Việt Nam chưa thực sự
hoàn thiện nên các công ty lớn, công ty đa quốc gia với đội ngũ luật sư giỏi đã tư vấn
các kẽ hở của luật để lách luật.Cho đến hiện nay, Việt Nam vẫn chưa có Luật cụ thể
về chống chuyển giá chỉ có thông tư 117/2007/TT-BTC và mới nhất là thông tư
66/2010/TT-BTC để giám sát và phát hiện hoạt động chuyển giá của các công ty có
giao dịch liên kết. Tuy nhiên thông tư này vẫn còn chung chung khó thực hiện trên
thực tế.
Thứ hai,ở Việt Nam thuế thu nhập doanh nghiệp và kê khai thuế xuất nhập khẩu
theo dạng tự kê khai tự nộp và cán bộ thuế chỉ kiểm tra khi phát hiện những sai phạm,
yêu cầu c1c doanh nghiệp này giải trình. Nhưng với đội ngũ những nhân viên giỏi có
nhiều kinh nhiệm thì việc giải trình đó là hoàn toàn dễ dàng với họ. Hơn nữa,theo
thông tư 66/2010/TT-BTC thì để phát hiện chuyển giá cần có bảng giá thị trường của
các hàng hóa dịch vụ, cho thuê, chuyển giao Tuy nhiên mỗi doanh nghiệp đều có
chính sách riêng, giá bán cho các công ty giao kết có thể không thay đổi so với công
ty độc lập nhưng sẽ khuyến mãi thêm số lượng thì vẫn không thể xác định doanh
nghiệp này chuyển giá. Do vậy các doanh nghiệp có sự chủ quan trong việc thực hiện
chuyển giá.
25

×