SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 5 HỌC TỐT PHÂN
MÔN CHÍNH TẢ PHẦN NGHE ĐỌC
PHẦN 1 – ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lý do chọn đề tài
Phân môn chính tả trong nhà trường tiểu học giúp học sinh tiểu học hình
thành năng lực và thói quen viết đúng chính tả. Nói rộng hơn là năng lực và thói
quen viết chuẩn Tiếng Việt. Vì vậy, phân môn chính tả có vị trí quan trọng trong
nội dung chương trình môn Tiếng Việt phổ thông, nhất là tiểu học.
Giống như các phân môn khác trong môn Tiếng Việt, tính chất của phân
môn chính tả là tính thực hành. Bởi lẻ chỉ có thể rèn luyện các kĩ xảo chính tả
cho học sinh thông qua việc thực hành luyện tập, trong phân môn này các quy
tắc chính tả, các đơn vị kiến thức mang tính chất lí thuyết không được bố trí
trong tiết dạy riêng mà dạy lồng trong hệ thống bài tập chính tả.
Mặc dù được học tập chính tả dười hình thức thực hành là chủ yếu, nhưng
những năm qua, chúng ta thấy chất lượng học tập phân môn chính tả vẫn còn
thấp. Các bài văn, bài kiểm tra đều có nhiều lỗi chính tả viết sai chính tả dẫn đến
lệch nghĩa giáo viên đọc, chấm bài quá vất vả mới hiểu được học sinh muốn viết
điều gì. Đây là một thực trạng đặt ra cho giáo viên dạy Tiểu học, các cấp quản lý
cần nổ lực tìm kiếm những giải pháp thiết thực nhằm nâng dần chất lượng học
chính tả, rèn kĩ năng viết đúng chính tả cho học sinh.
Trong những năm gần đây, trong quá trình giảng dạy học sinh lớp 5. Tôi đã
tìm tòi một số biện pháp cần thiết để nhằm giúp học sinh lớp tôi rèn kỹ năng
nghe viết đúng chính tả phần “nghe đọc”.
Trong năm 20 20 tôi đã phấn đấu thi giáo viên giỏi cấp cơ sở và chọn
đề tài” Những biện pháp giúp học sinh lớp 5 học tốt môn chính tả phần nghe
đọc”
Như đã nêu trên đề tài “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 học tốt phân
môn chính tả phần nghe đọc” sẽ góp phần giúp học sinh lớp 5 nói riêng và học
sinh tiểu học nói chung, bước đầu hình thành kỹ năng viết đúng chính tả trong
1
giờ học chính tả và trong quá trình học tập, sử dụng chữ viết Tiếng Việt trong
giao tiếp.
II. Mục đích nghiên cứu
…
III. Kết quả cần đạt
…
IV. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đề tài này đã được tôi nghiên cứu và thực hiện năm trước (20 20 ) và
tôi tiếp tục thực hiện đề tài này (9/20 ). Qua các biện pháp tôi đã thực hiện
được, xem xét, đối chiếu các đề tài hiện nay, đề tài của tôi có phần khác vì tôi
tập trung vào những việc làm của giáo viên nhằm cung cấp, rèn luyện cho học
sinh nhớ và thực hành viết đúng chính tả.
Đề tài này tôi áp dụng trên đối tượng là học sinh lớp 5 trường tiểu học
THTH.
2
PHẦN 2 - NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận nghiên cứu
…
II. Thực trạng vấn đề nghiên cứu
Qua những năm giảng dạy tại trường tiểu học THTH. Tôi theo dõi lithấy
học sinh lớp tôi học yếu nhất là môn chính tả (nghe đọc). Kết quả cụ thể như
sau:
Năm học Lớp
Số
HS
Giỏi Khá TB Yếu
SL % SL % SL % SL %
20 20 4 21 6 28,6 7 33,3 3 14,3 5 23,8
20 20 4 20 4 20 6 30 3 15 7 35
Từ những số liệu ở bảng trên cho thấy:
- Năm học 20 20 chỉ có 61, 9% học sinh khá giỏi phân môn chính tả và
còn 38, 1% học sinh chính tả trung bình, yếu.
- Năm học 20 20 chỉ có 50% học sinh khá - giỏi phân môn chính tả,
còn 50% học sinh học chính tả trung bình yếu.
Nguyên nhân của tình hình nêu trên là do:
- Về phía giáo viên đứng lớp.
Trong giảng dạy giáo viên chưa thể hiện hết sự tận tụy trong nghề nghệp.
Gíao viên chỉ cần dạy đủ chương trình chứ không tận tình chỉ dẫn
- Về phía học sinh
+ Một phần do ảnh hưởng của cách phát âm địa phương, phát âm còn sai
những từ có phụ âm đầu dễ lẫn như: r / g, ch/ tr, v/d/g …
+ Đa số học sinh chưa hiểu ích lợi của việc viết đúng chính tả, học sinh
chưa có phương pháp học tập, một số học sinh còn lười học tập.
- Về phía phụ huynh học sinh:
+ Trong lớp trên dưới 90% cha mẹ học sinh đều làm nghề nông, không có
thời gian kèm cặp con cái học và chiếm một phần lớn phụ huynh học sinh không
3
quan tâm đến việc học tập của con cái, gia đình chưa xác định đúng vai trò của
việc học, gia đình cho con mình đi học miễn sao cho con em biết đọc và viết
được là đủ rồi
Từ thực trạng vừa nêu trên tôi nhận thấy cần phải có những giải pháp cụ thể
phù hợp với lớp nhằm giúp học sinh lớp 5 của tôi học tốt phân môn chính tả
(nghe đọc)
III. Mô tả nội dung
Để học sinh viết tốt hơn phần chính tả nghe đọc, tôi lần lượt áp dụng các
biện pháp sau:
1/ Chuẩn bị của giáo viên và học sinh
1.1 Chuẩn bị của giáo viên
Trước khi dạy một bài chính tả mới. Tôi cần nắm vững kiến thức thuộc nội
dung bài dạy và có phương pháp dạy phù hợp để cung cấp kiến thức cho học
sinh nhằm giúp học sinh dễ ghi nhớ mà viết đúng chính tả.
Ngoài việc tôi cần đọc kỹ bài chính tả nhiều lần, tôi còn phải dự kiến các từ
khá nếu học sinh chưa phát hiện ra khi chuẩn bị bài ở nhà. Tôi còn chuẩn bị hệ
thống câu hỏi gợi ý cho phần bài viết và bài tập thực hành
1.2 Chuẩn bị của học sinh:
Tôi yêu cầu từ đầu năm mỗi học sinh trong lớp đều có 2 quyển vở học
chính tả, một quyển vở ở lớp và một quyển vở ở nhà, bảng con, phấn …
Ngày hôm sau viết chính tả bài “Em bé”. Trước đó tôi dặn học sinh về nhà viết
trước bài đó vào vở chuẩn bị ở nhà, sau đó đọc bài từ 4- 5 lần và tìm các từ khó
trong bài viết, dùng bút chì gạch chân các từ khó viết vào bảng con. Làm như
vậy nhằm giúp học sinh đọc hiểu nội dung bài chính tả, rèn luyện chữ viết và
giúp học sinh viết chính tả nhanh và ít sai hơn.
2/ Phát huy tính tích cực chủ động trong học tập phân môn chính tả
của học sinh
2.1 Tăng cường việc tri giác chữ viết bằng thị giác cho học sinh:
4
Muốn ngăn ngừa lỗi chính tả cho học sinh tôi giúp các em ghi nhớ chữ viết
gắn liền với nghĩa của từ: Từ có vấn đề chính tả, cách tốt nhất là cung cấp cho
học sinh từ trong ngữ cảnh. Mỗi tiết học có thể cung cấp cho học sinh nhiều từ
trong một hoặc nhiều ngữ cảnh. Ngữ cảnh có ý nghĩa đặc biệt, giúp học sinh
nắm được nghĩa của từ dễ dàng, nhẹ nhàng làm điểm tựa cho trí nhớ.
Khi cần sử dụng từ, nếu còn phân vân về chữ viết, các em sẽ liên tưởng đến
ngữ cảnh và suy luận ra cách viết chữ. Trong một tiết dạy chính tả tôi tạo điều
kiện cho học sinh trở đi trở lại với từ cần ghi nhớ nhiều lần.
Chẳng hạn lần 1: Vào bài học tôi yêu cầu học sinh đọc thầm bằng mắt, ngữ
cảnh để hiểu nghĩa từ và nhớ ngữ cảnh.
Lần 2: Tôi yêu cầu học sinh lựa chọn các từ trong ngữ cảnh vừa cung cấp
để điền vào một ngữ cảnh khác
Lần 3: Tôi cho học sinh đặt câu với từ vừa học, tìm từ láy, từ ghép với
tiếng có vấn đề chính tả … Chưa kể việc học sinh thực hiện bài tập về nhà và
kiểm tra bài cũ ở buổi học sau. Trong một tiết, học sinh đã được mắt nhìn tay
viết chữ có vấn đề chính tả nhiều lần.
Ví dụ: Bài chính tả “Xóm tôi”(TV5 )
Lần 1: Em hãy đọc thầm các câu sau đây và tìm tiếng có phụ âm đầu x
Học sinh tìm: xôi, xúp, xanh, xuống
Lần 2: Em hãy lựa chọn từ có phụ âm x đầu tiếng trên đây để điền vào câu
sau:
“Tưới cho tươi mát một vùng lúa …”
Lần 3: Em hãy tạo từ ghép có tiếng “xanh” (xanh xanh, xanh xao)
- Em hãy tạo từ láy có tiếng “xanh” (xanh tươi, xanh ngắt … )
Lần 4: Em hãy đặt câu với mỗi từ xanh, xanh tươi, xanh ngắt
Những thao tác trên tôi đã cho các em thực hiện điền từ, đặt câu, tạo từ đều
được thực hiện bằng mắt và tay, giảm nói và đọc
2.2 Tăng cường thao tác phân tích chữ viết ở hoc sinh
Lỗi chính tả có thể xảy ra ở âm và vần trong tiếng việt. Vì vậy, tôi cho học
sinh phân tích chữ viết để có tác dụng ghi nhớ chữ viết, khắc sâu cách viết đi
5
liền với nghĩa từ mà nó biểu đạt. Việc phân tích chữ viết này là phải để cho học
sinh làm. Khi tiến hành phân tích chữ viết tôi buộc học sinh phải quan sát chữ
viết một cách tường tận buộc học sinh phải viết ra chữ, thao tác nhiều, chữ và
nghĩa sẽ gắn chặt vào trí nhớ, chắc chắn lỗi viết của học sinh sẽ giảm. Tôi đưa
ra một biểu bảng giáo viên làm mẫu một từ, còn lại tôi lần lượt cho học sinh
trung bình yếu làm ti
Với phương pháp này, tôi yêu cầu mỗi học sinh tự tìm từ khó rồi phân tích
theo mẫu cho sẵn. Như vậy mỗi học sinh có thể tự tìm và phân tích được nhiều
từ
Ví dụ: Dạy bài “Những con đường ở Trường Sơn”
Từ hoặc cụm từ Chữ Phụ âm đầu vần Dấu thanh
Trường Sơn Trường
Sơn
Tr
S
ương
ơn
huyền
ngang
đoàn xe đoàn
xe
đ
x
oan
e
huyền
ngang
trong long suối
trong
lòng
suối
tr
l
s
ong
ong
uôi
ngang
huyền
sắc
đan nhau
…
…
…
…
…
…
…
…
… … …
…
…
…
…
…
…
…
…
2.3 Tăng cường yêu cầu học sinh tự chữa lỗi chính tả:
Khi chấm bài chính tả, tôi chỉ cho học sinh thấy loại mà thường mắc. Tôi
yêu cầu những em thường mắc lỗi chính tả trả lời câu hỏi
- Trong bài chính tả vừa qua em thường mắc các lỗi nào?
- Những lỗi đó ở bộ phận nào của tiếng?
- Khi học sinh đã có biết được lỗi của mình thường mắc, nếu gặp những
chữ có “vấn đề chính tả” của mình thì các em sẽ thận trọng hơn khi viết chữ.
Trong lúc soát lại bài viết, tôi đưa ra mẫu đúng, yêu cầu học sinh phân tích chữ
6
viết các em sẽ thấy được lỗi của mình và tự chữa. Tôi kiểm tra việc chữa lỗi của
học sinh. Dần dần năng lực tữ kiểm tra và tự chữa lỗi của các em được hình
thành.
3/ Tạo hứng thú học tập cho học sinh
Trong giờ học chính tả, để học sinh hứng thú học tập khi học sinh phát biểu
đúng, làm đúng các bài tập khó, tôi cần động viên, khuyến khích khen thưởng
kịp thời.
Phần luyện tập trong viết chính tả cũng rất quan trọng, để học sinh làm tốt
phần luyện tập tôi cần sử dụng những phương pháp dạy học thích hợp gây hứng
thú học tập cho học sinh. Tuỳ theo nội dung phần bài tập, tôi có thể cho học sinh
làm việc cá nhân, theo cặp nhóm (tổ) nhằm tránh sự nhàm chán cho học sinh khi
học phân môn chính tả.
Ví dụ: Dạy bài” Lên đường đánh giặc Mĩ”
Bài tập 1:: Điền ang hoặc oang vào chỗ trống.
Tôi hướng dẫn học sinh chơi trò chơi tiếp sức, trước tiên học sinh nêu yêu
cầu bài tập, hướng dẫn học sinh tìm hiểu bải tập. Sau đó, tôi chia lớp thành 2
dãy (mỗi dãy chọn ra 7 em).
Tôi chia bảng làm 2 cột có ghi sẳn bài điền, mời 2 dãy thi đua lên bảng điền
đúng và nhất. Mỗi em điền một từ rồi chuyền phấn cho bạn. Hết thời gian qui
định, các nhóm ngừng viết.
- Cả lớp cùng nhận xét, tuyên dương dãy làm đúng và nhanh.
Tạo hứng thú học tập cho học sinh nhằm giúp học sinh ham thích học chính
tả, học sinh không những đọc đúng, viết đúng chính tả và còn mở rộng được một
số từ ngữ, mở rộng hiểu biết về cuộc sống.
4/ Thống nhất giữ học sinh với giáo viên trong cách đọc, cách phát âm;
Rèn chính tả qua các môn học khác:
4.1 Thống nhất giữa giáo viên và học sinh trong cách đọc và cách phát âm.
Trong tiết chính tả nghe đọc, ngoài các cách ghi nhớ bằng nghĩa từ, từ
trong ngữ cảnh mà cách đọc của giáo viên cũng là một phần rất quan trọng. Do
7
đó tôi thống nhất với học sinh để phân biệt và nhận biết các từ có phụ âm đầu là
ch/ tr, x/s, r/d/gi …
Ví dụ:
Ch: đọc bình thường
Tr: đọc đưa lưỡi lên vòm miệng
X: đọc bình thường
S: đọc cong lưỡi lên
R: đọc cong lưỡi lên
D: đọc bình thường
Gi: đọc xì hơi ra
Bên cạnh việc thống nhất cách đọc với học sinh tôi còn kết hợp cho học
sinh thực hành với bài tập rèn luyện kĩ năng viết chính tả để học sinh lĩnh hội
ngay và ghi nhớ. Khi học sinh điền xong, tôi yêu cầu học sinh phát âm đúng như
hướng thống nhất.
Ví dụ: Dạy bài “Xóm tôi”
Điền vào chỗ trống s hoặc x
- Mương … óm tôi bắt cong … ườn núi
Phai làng anh đào lủi ven rừng
Đôi dòng nước chảy tong bừng
Tưới cho tươi mát một vùng lúa … anh
- Xóm trên làng dưới ta cùng
Mương phai đào … ửa cho dòng nước … uôi
Ví dụ 2: Dạy bài” Dưới đáy biển”
- Điền r/ d/gi vào chỗ trống.
- Lửa cháy … ừng … ực
- Dạo này công việc … ồn … ập quá
- Dừng có … ại … ột nghe theo những lời đồn nhãm
Ví dụ 3: Dạy bài “Buổi sáng ở Thành Phố Hồ Chí Minh”
Điền vào chỗ trống ch/ tr
Trên … ời có đám mây xanh
8
Ở giữa mây … ắng, xung quanh mây vàng
- Cơn đằng đông vừa … ông vừa … ạy
Côn đằng nam vừa làm vừa … ơi
Với phương pháp dạy chính tả này, học sinh lĩnh hội chính xác, phát âm
đúng và nhớ lâu
4.2 Học sinh viết đúng chính tả qua các môn học khác
Đọc đúng sẽ giúp học sinh viết đúng chính tả. Chính vì vậy, để khắc phục
tình trạng học sinh viết sai chình tả, người giáo viên cần hướng dẫn học sinh
phát âm chuẩn tiếng việt qua các môn, phân môn khác như: tập đọc, tập làm văn,
toán, đạo đức …
Tôi rèn luyện cho học sinh học tốt ở phân môn Tập đọc, tập trung sửa sai
các âm, vần khó hoặc dễ lẫn lộn do cách phát âm của địa phương.
Ví dụ: ch/tr, s/x, ang/an, it/ich, r/d/gi … Trong Tiếng Việt phân môn Tập
đọc tạo nền móng vững chắc cho phân môn chính tả.
Chẳng hạn dạy bài “Bà cụ bán hàng nước chè” Tôi cần hướng dẫn học sinh
đọc các từ khó sau: diễn viên tuồng chèo, rợp bóng, chõng tre …
Ngoài ra khi dạy phân môn Tập làm văn tiết tả bài viết, tôi cũng cần hướng
dẫn cho các em soát lỗi, chữa từ, câu rất tỉ mĩ để các em thấy được chỗ sai, rút
kinh nghiệm và có hướng viết chính tả tốt hơn.
5/ Sử dụng các mẹo luật, quy tắc chính tả.
Đối với học sinh tiểu học phương án này tương đối có hiệu quả nhất, bởi vi
tư duy “máy móc”, trí nhớ “máy móc” của các em chiếm ưu
thế là thích ứng cho việc xây dựng các mẹo luật vừa dễ nhớ vừa áp dụng lúc
viết.
Ví dụ 1
Mẹo quy tắc dành cho một số phụ âm đầu dễ nhầm.
Chữ: ng, g ghép được o, ô, ơ, a, ă, â, u, ư
Chữ ng, g không ghép được e, ê, i (không có nghĩa)
Chữ ngh, gh chỉ ghép được e, ê, i
Sau chữ “q” không ghép được chữ o mà phải viết là u
9
Ví dụ 2: căn cứ vào nghĩa từ vựng ta có mẹo chính tả của cặp ch/tr
Ch :
+ Chỉ đồ dùng trong nhà: chăn, chiếu, chảo, chén, chổi, chõng, chậu …
+ Chỉ tên những người thân thuộc: cha, chú, chị, chồng, cháu, …
Sử dụng mẹo luật, quy tắc chính tả là giúp các em khi gặp các từ viết trên
các em nhớ ngay ra chữ viết, không còn lúng túng phân vân khi viết chính tả.
6/ Kết hợp với phụ huynh học sinh và các lực lượng khác
Ngay từ đầu năm học, khi nhận lớp, tôi cần tìm hiểu chất lượng học chính
tả của từng em để tôi định hướng giúp đỡ, uốn nắn cho những em viết yếu theo
yêu cầu riêng. Tôi đến thăm từng gia đình học sinh, đặc biệt traođổi với phụ
huynh các em học yếu chính ta (M.P, T.H. H.T, T.C, … ), nêu nguyên nhân các
em học yếu môn này, để trao đổi tìm hướng giúp em học tốt hơn
Còn đối với các em lười học tập, tôi luôn kiểm tra, uốn nắn hàng ngày,
thường xuyên phụ đạo đúng theo lịch quy định một tuần 2 buổi, củng cố lại kiến
thức, luật chính tả để giúp các em học tốt hơn. Ngoài ra tôi còn kết hợp Ban
giám hiệu và tổng phụ trách để nhắc nhở những em lười học nhằm giúp các em
học tốt hơn
IV. Kết quả nghiên cứu
Với các biện pháp đã đặt ra mà tôi nêu trên, tôi đã áp dụng trong suốt năm
học, thường xuyên theo dõi chuyển biến của học sinh. Qua từng tháng, tôi nhận
thấy học sinh của mình đã có nhiều tiến bộ trong học tập môn chính tả nói chung
và chính tả nghe đọc nói riêng. Các em viết ít sai lỗi hơn, về lỗi phụ âm đầu, lỗi
về vần được giảm dần. Việc luyện đọc, viết ở nhà giúp các em viết đúng bài viết
khi học trên lớp. Việc giải các bài tập, vận dụng các mẹo luật chính tả, đọc sách
báo nhiều lần giúp các em viết các bài kiểm tra luôn ít sai chính tả. Kết quả
thống kê ở cuối HKI năm 20 20 tôi nhận thấy chất lượng lớp tôi đã có sự
chuyển biến
Đầu năm
20 20
Số HS
Giỏi Khá TB
Yếu
10
SL TL SL TL SL TL SL TL
20 4 20% 5 25% 5 25 6 30%
Giữa HKI 20 4 20% 6 30% 6 30% 4 20%
Cuối HKI 20 6 30% 6 30% 6 30% 2 10%
Việc nghiên cứu các giải pháp trên, đã giúp chất lượng ở phân môn chính tả
của lớp tôi đạt học sinh khá giỏi tăng và số học sinh trung bình- yếu giảm
Đến cuối năm phấn đấu tỉ lệ học sinh viết chính tả yếu không còn.
PHẦN 3 – KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
I. Kết luận
11
Qua thời gian tích cực, kiên trì thực hiện, chất lượng học phân môn chính
tả(nghe đọc) của học sinh lớp tôi có chuyển biến tốt. Để thực hiện kết quả trên
người giáo viên cần chú ý.
- Xác định yêu cầu rèn luyện kĩ năng đọc đúng, viết đúng chính tả là nhiệm
vụ trọng tâm.
- Ngay từ đầu năm học, khi nhận lớp giáo viên cần tìm hiểu chất lượng học
chính tả của từng em.
Để giáo viên định hướng giúp đỡ , uốn nắn kịp thời cho từng em theo yêu
cầu riêng
- Giáo viên cần kiên trì, tích cực các việc dạy dỗ, kiểm tra thường xuyên
việc chuẩn bị, luyện viết từ khó ở nhà cho học sinh
- Sử dụng phối hợp linh hoạt nhiều phương pháp, sử dụng mẹo luật chính tả
giúp học sinh chủ động tự tìm ra kiến thức, thể hiện ý kiến suy nghĩ của mình
một cách độc lập sáng tạo, nhằm cho học sinh ghi nhớ từ khó và học tốt bài
chính tả trên lớp.
- Tạo nhiều hứng thú trong học tập nhằm giúp học sinh ham thích học,
say mê học chính tả hơn. Hàng tháng, tuần giáo viên cần tổng kết và biểu dương
những tổ, cá nhân đã được nhiều bông hoa điểm 10 nhất ở phân môn chính tả.
Đồng thời có kế hoạch phụ đạo cho học sinh yếu chính tả để cung cấp lại những
kiến thức mà các em chưa nắm bắt được.
- Kết hợp Ban giám hiệu nhà trường, tổng phụ trách, phụ huynh học sinh
để kiểm tra nhắc nhở, động viên đối với những em lười học tập.
Thời gian tới, tôi hy vọng rằng nếu là người giáo viên dạy lớp phải biết
vận dụng các giải pháp một cách sáng tạo, hợp lý và đồng thời phải được sự
quan tâm của phụ huynh học sinh, sự hỗ trợ của nhà trường thì kết quả sẽ tốt
hơn.
II. Kiến nghị
…
… … … … , ngày … tháng … năm 20 …
12
Người viết
13