Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Bước đầu nghiên cứu kỹ thuật nhân giống cây bương lông điện biên tại đoan hùng phú thọ” là cần thiết,

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (273.58 KB, 38 trang )

PHẦN 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Theo Manraud trước năm 1945, tỷ lệ che phủ của rừng nước ta chiếm
43% tổng diện tích đất đai của cả nước nhưng theo số liệu thống kê năm
2000, tỷ lệ che phủ đó chỉ còn lại xấp xỉ 32%, theo thống kê năm 2005, độ
che phủ của rừng đã xấp xỉ 37%. Việc khôi phục và phát triển tài nguyên rừng
là một yêu cầu quan trọng và cấp thiết, việc lựa chọn cây trồng là yếu tố quan
trọng quyết định tới sự thành công trong công tác này. Để phủ xanh diện tích
rừng của nước ta không chỉ có cây gỗ mà còn có các loài lâm sản ngoài gỗ.
Trong đó có tre trúc cũng là lâm sản ngoài gỗ (LSNG). Tre trúc là loại lâm
sản quan trọng đứng thứ hai sau gỗ phân bố trong một số trạng thái rừng tự
nhiên vùng nhiệt đới và á nhiệt đới, hiện nay đã được gây trồng ở khá nhiều
nơi và có trên 200 loài tre trên cả nước. Đây là loại lâm sản ngoài gỗ có giá trị
kinh tế và có đặc điểm sinh trưởng nhanh và tái sinh mạnh, trồng một lần khai
thác nhiều lần nên luôn có nguồn thu hàng năm nếu trồng tre, do vậy còn
được mệnh danh là cây của người nghèo. Ở nông thôn nước ta trước đây hầu
như tất cả các vật dụng trong đời sống, sản xuất đều được làm từ Tre. Ngày
nay tuy tốc độ đô thị hoá cao, nhiều vật dụng thay thế nhưng cây Tre cũng
không thể vắng bóng với cư dân thành phố từ cái tăm, đôi đũa bằng Tre vẫn
tiện dụng hơn tăm gỗ, đũa nhựa. Và khi đời sống nâng cao thì cây Tre được
sử dụng làm cảnh rất phổ biến ở thành phố. Tre - Trúc là lâm sản ngoài gỗ có
rất nhiều công dụng, có thể nói từ thân, gốc, rễ, lá, quả đều được sử dụng triệt
để, bộ phận được sử dụng rộng rãi đó là thân khí sinh. Do thân khí sinh của
Tre - Trúc có nhiều đặc tính tốt nên sử dụng trong xây dựng nhà cửa, đóng đồ
gia dụng, làm bố mảng, cầu phao. Hiện nay công nghiệp phát triển, Tre - Trúc
là nguồn nguyên liệu quý giá cho sản xuất giấy cao cấp, cho ván sàn, ván ép,
đồ mộc cao cấp, chiếu trúc, than hoạt tính, thủ công mỹ nghệ…, có thể nói
1
Tre - Trúc thay thế được gỗ trong nhiều lĩnh vực. Với công nghệ chế biến cao,
những sản phẩm sản xuất từ Tre - Trúc không những đẹp mà còn có độ bền


cao, khả năng chịu nén, chịu lực tốt. Mỗi loài tre có những giá trị sử dụng
khác nhau, có phân bố, đặc điểm sinh thái và kỹ thuật gây trồng khác nhau.
Phân bố các loài tre từ ngay mực nước biển đến hơn 4000 m. Xuất phát từ
cách tiếp cận từ đặc điểm sinh thái kết hợp kiến thức bản địa của người dân
địa phương để lựa chọn được loài cây phù hợp với từng vùng địa lý khác
nhau. Trong số các loài tre trong cả nước thì có cây Bương lông điện biên là
một trong số các loài cây đem lại lợi ích kinh tế cho người dân. Để có được
lợi ích kinh tế cao thì biện pháp kỹ thuật nhân giống cũng rất quan trọng để
phát triển cây Bương lông điện biên cho năng suất và chất lượng cao nhằm
cung cấp nguyên liệu cho sản xuất công nghiệp. Bương lông điện biên
(Dendrocalamus giganteus), có tên gọi khác là Mạy púa mơi, Bương lớn,
Bương lớn Điện Biên. Là một trong những loài tre có kích thước lớn nhất ở
Việt Nam, chiều cao 15 - 20 m, đường kính gốc 20 -– 25 cm, có vách dày,
chiều dài đốt từ 25 – 30 cm, ít cành nhánh, chắc và bền có khả năng cung cấp
nguyên liệu cho công nghiệp chế biến thay thế cho gỗ cho hiệu quả rất cao.
Nhưng hiện nay việc kinh doanh cây Bương lông Điện Biên vẫn theo hướng
quảng canh, dựa vào kinh nghiệm của người dân địa phương và điều kiện tự
nhiên sẵn có là chính nên năng suất không cao như vốn có của nó. Đặc biệt
việc phát triển mở rộng diện tích trồng loài cây này rất khó khăn do nhân
giống bằng gốc rất hạn chế về số lượng giống, người dân chưa nắm được kỹ
thuật nhân giống bằng phương pháp chiết cành hoặc giâm hom cành nên số
lượng giống cung cấp ra thị trường ít chưa đáp ứng được nhu cầu nhân rộng
mô hình, hơn nữa người dân địa phương chỉ cho rằng trồng bằng giống gốc
mới cho năng suất, trong khi đó nhiều loài tre mọc cụm khác việc nhân giống
và trồng bằng giống cành đã đem lại hiệu quả kinh tế rất cao như: Luồng
(Dendrocalamus barbatus), Mai xanh (Dendrocalamus latiflorus),vv. Như
2
vậy, việc gây trồng Bương lông Điện Biên còn thiếu hướng dẫn kỹ thuật nhân
giống có khả năng đáp ứng số lượng giống lớn cho gây trồng nhân rộng; chưa
được quan tâm nghiên cứu. Xuất phát từ những lý do trên chúng tôi thực hiện

chuyên đềđề tài “Bước đầu nghiên cứu kỹ thuật nhân giống cây Bương
lông điện biên tại Đoan Hùng - Phú Thọ” là cần thiết, để đáp ứng cơ sở
khoa học và yêu cầu cấp bách của thực tiễn sản xuất hiện nay.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
2.1.1. Mục tiêu chung
Góp phần xác định cơ sở khoa học xây dựng hướng dẫn kỹ thuật nhân
giống cây Bương lông điện biên.
2.1.2. Mục tiêu cụ thể
- Xác định một số biện pháp kỹ thuật nhân giống như hom thân, hom
gốc, hom cành chét.
- Đề xuất một số biện pháp kỹ thuật nhân giống Bương lông điện biên.
1.3. Ý nghĩa của đề tài
1.3.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học
- Qua quá trình thực hiện đề tài tạo cơ hội biết được phương pháp giải
quyết vấn đề khoa học , tiếp cận các phương pháp nghiên cứu khoa học, giải
quyết vấn đề khoa học ngoài hiện trườngài thực tiễn.
- Làm quen với một số phương pháp được sử dụng trong nghiên
cứu đề tài cụ thể

.
- Học tập và hiểu biết thêm về kinh nghiệm, kỹ thuật trong thực tiễn tại
địa bàn nghiên cứu.
- Đề tài góp phần xác định cơ sở khoa học xây dựng hướng dẫn kỹ
thuật nhân giống cây Bương lông điện biên.
1.3.2. Ý nghĩa trong thực tiễn sản xuất
- Xác định được một số biện pháp kỹ thuật nhân giống như hom thân,
hom gốc, hom cành chét và một số biện pháp kỹ thuật nhân giống Bương lông
3
điện biên Biết cách tiếp cận thực tiễn những vấn đề trong sản xuất, kinh
doanh rừng, quản lý nguồn tài nguyên rừng hiện nay, nâng cao tính bền vững

của hệ sinh thái rừng.
- Giúp nắm rõ hơn về đặc điểm phân bố và sinh trưởng phát triển của loài cây
bương.
- Giúp hiểu rõ hơn về khả năng tái sinh, phục hồi rừng và có cơ sở đề ra
những biện pháp lâm sinh như khoanh nuôi phục hồi rừng, làm giầu rừng để
có thể tận dụng được những khu rừng sinh trưởng phát triển tự nhiên mang lại
hiệu quả hơn cho cuộc sống của người dân cũng như việc cải tạo môi trường,
tăng mức độ đa dạng sinh học.

4
PHẦN 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Cơ sở khoa học
Tre trúc là tập hợp các loài thực vật thuộc họ Hoà thảo (Poaceae). Các
loài tre trúc rất phong phú, đa dạng, phân bố rộng khắp trên thế giới. Tre trúc dễ
trồng, sinh trưởng nhanh, sớm cho khai thác, dễ chế biến nên được sử dụng cho
rất nhiều mục đích khác nhau. Tre trúc có giá trị rất lớn đối với nền kinh tế quốc
dân và đời sống nhân dân, đặc biệt là nông dân nông thôn và miền núi.

Tre trúc thường có thân cứng như gỗ, song có đặc trưng là thân thường
rỗng trong ruột, có hệ thân ngầm và phân cành khá phức tạp, và có hệ thống
mo thân hoàn hảo, được sử dụng hiệu quả trong quá trình phân loại. Thân
ngầm của tre trúc thường phát triển trong đất thành mạng lưới hay chỉ phát
triển thành một số đốt ngắn ở gốc cây. Các đốt thân ngầm thường có nhiều rễ
và chồi ngủ. Chồi sẽ mọc lên thành cây tre, trúc (thân khí sinh) trên mặt đất
hay phát triển thành thân ngầm mới. Tre trúc có 3 loài thân ngầm chính là
thân ngầm mọc cụm, thân ngầm mọc rải và thân ngầm kiểu hỗn hợp.
Kỹ thuật nhân giống, gây trồng, chế biến và tiêu thụ sản phẩm tre, trúc
đã và đang được quan tâm nghiên cứu và phát triển. Nhiều loài tre, trúc được
nhân dân gây trồng để phát triển kinh tế, đồng thời nâng cao độ che phủ, giảm

xói mòn, chống sụt lở vùng đầu nguồn, ven sông suối, cung cấp nguyên liệu
cho chế biến, thúc đẩy phát triển thị trường tiêu thụ trong nước và xuất khẩu.
Đặc biệt, trong giai đoạn xây dựng nông thôn mới, việc phát triển vùng
nguyên liêu tre, trúc theo Quyết định số 11/2011/QĐ-TTg ngày 18 tháng 02
năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ cần được quan tâm nghiên cứu theo
hướng phát triển bền vững.
Loài Bương lông điện biên, còn có các tên gọi khác như Mạy púa mơi,
Bương lớn, Bương lớn Điện Biên. Là một trong những loài tre có kích thước
lớn nhất ở Việt Nam, chiều cao 15 - 20 m, đường kính gốc 20 - 25cm, có vách
5
dày, chiều dài đốt từ 25 – 30 cm, ít cành nhánh, khả năng cung cấp nguyên
liệu cho công nghiệp chế biến sản phẩm rất cao. Việc phát triển mở rộng diện
tích trồng loài cây này rất khó khăn do nhân giống bằng gốc rất hạn chế về số
lượng giống, người dân chưa nắm được kỹ thuật nhân giống bằng phương
pháp chiết cành hoặc giâm hom cành nên số lượng giống cung cấp ra thị
trường ít chưa đáp ứng được nhu cầu nhân rộng mô hình.
Các nghiên cứu về cây Bương lông điện biên rất ít, đặc biệt là nghiên
cứu về biện pháp kỹ thuật lâm sinh, nhân giống và chế …. Chính vì vậy, đề tài
nghiên cứu được đặt ra là rất cần thiết, có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn.
Thân cây bương to, dài, chắc, bền nên thường được dùng làm cột
buồm, làm nhà. Các dân tộc vùng cao dùng bương lớn làm máng dẫn nước,
làm nguyên liệu cho công nghiệp giấy, chế biến thay thế cho gỗ có hiệu quả
cao. Măng Bương to,ăn ngon, ăn tươi hoặc phơi khô, cũng có thể đóng hộp.
Một bụi cây to có thể cho tới 180kg măng tươi/bụi/năm. Măng tươi của bương
được thị trường rất ưa chuộng vì có vị hơi đắng rất đặc biệt, măng đầu vụ có
thể bán 2.000-3.000đ/kg; trọng lượng măng lúc khai thác có thể đạt tới
15kg/măng. Có bụi một năm thu được 10-15 măng. Một số hộ buôn bán còn
mua măng tươi về sau đó luộc và bảo quản trong chum, vại to để 4-5 tháng
sau mới bán cho được giá.
2.2. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước

2.2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Tre có từ rất sớm cùng với nghiên cứu phân loại các loài thực vật, đầu
tiên là Luoreiro (1750) khi công bố các loài tre mới. Các loài tre trúc phân bố
tự nhiên ở các vùng nhiệt đới, á nhiệt đới và ôn đới, từ vùng thấp tới độ cao
4000 m (so với mực nước biển), song tập trung chủ yếu ở vùng thấp tới đai cao
trung bình (Nguyễn Hoàng Nghĩa, 2005) [ ]. Các loài tre trúc có thể mọc hoang
dại hoặc được gây trồng và có một đặc điểm nổi bật là có mặt ở rất nhiều các
môi trường sống khác nhau (Dransfield and Widjaja, 1995). Theo Rao and Rao
6
(1995), cả thế giới có khoảng 1.250 loài tre trúc của 75 chi, phân bố ở khắp các
châu lục, trừ châu Âu. Châu Á đặc biệt phong phú về số lượng và chủng loại
tre trúc với khoảng 900 loài của khoảng 65 chi (Rao and Rao 1995; 1999) [ ].
Kết quả tại bảng 2.1 là số liệu năm 1995 về sự đa dạng của các loài tre trúc trên
thế giới.
Bảng 1. Phân bố của các loài tre trúc trên thế giới (Biswas 1995)
Nước Số chi
Số
loài
Diện tích
(ha)
Nước-Vùng lãnh thổ
Số
chi
Số
loài
Diện tích
(ha)
Trung Quốc 26 300 2.900.000 Singapore 6 23
Nhật Bản 13 237 825.000 Bănglađet 8 20 6.000.000
Ấn Độ 23 125 9.600.000 Papua New Guinea 26

Việt Nam
16 92*
1.942.000 S
rilanka
7 14
Myanma 20 90 2.200.000 Hàn Quốc 10 13
Inđônêxia 10 65 50.000 Đài Loan 40 140.000
Phillipnines 8 54 Mađagaxca 11 40
Malaysia 7 44 Châu Mỹ 20 45
Thai Lan 12 41 1.000.000 Ôxtralia 4 4
Ohnberger (1999) đã thống kê trên thế giới có 1575 loài tre, thuộc 111
chi, 10 phân tông và 6 tông. Nhân giống tre được nhiều tác giả quan tâm và
đề cập đến như Banik (1979, 1985), Hassan (1977), R. Swarup & A.
Gambhir (2008), Nautiyal et al (2008) bằng nhiều phương pháp khác như
bằng hạt, chiết, nuôi cấy mô, chồi gốc. Theo Banik (1979) hạt B.tulda có tỷ lệ
nảy mầm chỉ 24.78% và 5% cây con tồn tại ở vườn ươm. Nhưng nhân giống
bằng gốc đạt tỷ lệ cao hơn, chẳng hạn đạt 5% ở Melocana baccifera, 9% ở
B.tulda, 33% ở Oxytanenthera nigrociliata, 40% ở Dendrocalamus
longispathus và 100% ở Bambusa vulgaris (Hassan 1977) [ ].
7
Phương pháp chiết tỷ lệ ra rễ ở các loài tre vách dày được áp dụng ở
Băng-la- đét đạt 45-56% ở các loài Bambusa vulgaris, B.polymorpha và
D.giganteus (Banik 1985). A. Benton et al (2011) nghiên cứu về phương pháp
chiết (air-layering method) đối với tre cho rằng: đảm bảo ra rễ tốt ở trên cây
trước khi cắt xuống. Nhưng phương pháp này chỉ áp dụng ở những vùng có
độ ẩm cao và bị hạn chế ở phần dưới của cây và thường phần này không dùng
làm vật liệu nhân giống.
Chồi gốc (cành chét) của các loài Bambusa balcooa, B.longispiculata,
B.tulda, B.vulgaris, Dendrocalamus longispathus, Melocana baccifera,
Neohouzeaua dulloa và Oxytenathera nigrociliata đã được sử dụng để trồng

rừng ở ấn độ tỷ lệ thành công đạt 44-76% khi trồng vào tháng 4, 3-38% vào
tháng 6 và chồi mầm một tuổi đạt tỷ lệ sống cao hơn cây 2-3 tuổi. Nhân giống
bằng phương pháp chiết thân đối với loài Bambusa longispiculata đạt tỷ lệ ra
rễ 25% nhưng tỷ lệ ra rễ tăng lên 54% khi có xử lý với hóc môn tăng trương
IBA 200 ppm. Sử dụng hóc môn IBA và NAA khi giâm hom thân (mỗi hom 1
đốt, gồm 2 mấu) đạt tỷ lệ ra rễ 80% ở Bambusa arundinacea, 70% ở
Dendrocalamus strictus (S. Nautiyal et al 2008).
Có 607 ha rừng tre của 9 loài (Dendrocalamus strictus, D.asper,
D.hamiltonii, Bambusa bambos, B.nutans, B.balcooa,Pseudooxytanthera,
Guadua angustifolia) được trồng bằng giống nuôi cấy mô. Điều này rất có lợi
ích về mặt kinh tế và có thể trồng rừng qui mô lớn. Công nghệ này đạt chất
lượng tốt có thể triển khai trồng rừng trên toàn quốc Ấn độ (R. Swarup &
Gambhir 2008).
Fu Maoyi, Xiao Jianghua (1996) với “Cultivation & Utilization on
Bamboos” đã xác định những nhân tố ảnh hưởng đến quá trình phát sinh
măng, sinh trưởng và phát triển của thân khí sinh là: độ ẩm, nhiệt độ, dinh
dưỡng, cấu trúc rừng, biện pháp lâm sinh, sâu bệnh. Đây là những nhân tố cần
phải được quan tâm khi áp dụng các biện pháp thâm canh tăng năng xuất
8
măng và thân khí sinh. Theo nghiên cứu về Dendrocalamus giganteus. Loài
Dendrocalamus giganteus Munro được công bố năm 1868 (Munro 1868), đây
là một trong hai những loài tre lớn nhất của chi Dendrocalamus cũng như tre
của thế giới. Loài tre này đều có đường kính thân từ 20 - 30cm, cao từ 20 -
30m, vách dày 2 – 2,5 cm, vỏ có màu xanh lục. Đây cũng là loài tre có giá trị
kinh tế cao ở Trung Quốc. Nghiên cứu của Sobita Devi và Sharma, (1993)
cho rằng bao phấn dài 7,5-10 mm, bầu nhụy có lông; quả thóc thuôn dài
khoảng 7-8 mm, nhiễm sắc thể 2n = 72. Theo báo cáo của Kurseong of West
Bengal năm 1880 – 1888 thì chu kỳ ra hoa của D. giganteus là khoảng 40
năm. Nghiên cứu của Luxmi Chauhan et al., (1988) về tế bào của D.
giganteus cho thấy chiều dài sợi là 0.325 μm. Các nghiên cứu về tăng trưởng

cho thấy mùa sinh trưởng bắt đầu từ tháng tám đến tháng mười một và ban
ngày tốc độ tăng trưởng chậm, tăng trưởng nhanh hơn xảy ra vào ban đêm
(Osmaston, 1918) [ ]. Sharma và ctv. (1972) đã sử dụng Polyethylene glycol
(PEG) kết hợp với các chất bảo quản hóa học như axit boric 2 % và natri
pentachlorophenate theo tỷ lệ 1:1 để bảo quản D. Giganteus [ ]. Guha et al.,
(1975) sau khi tiến hành các thí nghiệm về D. giganteus đã kết luận rằng dùng
sản phẩm loài D. giganteus làm nguyên liệu giấy tốt hơn loài D. Strictus [ ].
2.2.2 Tình hình nghiên cứu trong nước
Tre gần gũi với con người trong lao động sản xuất hàng ngày. Từ đôi
quang, chiếc đòn gánh, cán cuốc, tay hái, tay liềm, cối xay, dần, sàng, thúng,
mủng… Người dân sống với ruộng đồng, bờ bãi, rặng tre, Tre thành vật dụng
dựng cửa, dựng nhà, dựng nên mái ấm. Tre thành nguồn vui cho trẻ thơ từ
chiếc thuyền lá tre đến que chuyền đánh chắt, cánh diều, chiếc sáo. Từ đó có
thể thấy tre rất quan trọng đối với đời sống của người dân không chỉ cung cấp
cấp nguồn thực phẩm mà còn là nguyên liệu làm các đồ vật dụng trong gia
đình, ngày nay tre còn được sử dụng làm nguyên liệu cho công nghiệp sản
xuất giấy.
9
Hiện nay, Việt Nam đứng thứ 4 thế giới về diện tích tre, với 194 loài
thuộc 26 chi, trong đó có 80 loài đã tạm thời được định danh, còn lại là các
loài chưa có tên hoặc có các loài/phân loài mới. Trong nhiều năm trở lại đây,
rất nhiều chi, loài mới được các nhà khoa học Việt Nam nghiên cứu và bổ
sung vào danh lục tre nứa của nước nhà. Công trình đầu tiên nghiên cứu về tre
nứa ở Việt Nam là Camus and Camus (1923) đã thống kê có 73 loài tre trúc
của Việt Nam [ 11]. Năm 1978 Vũ Văn Dũng công bố Việt Nam có khoảng
50 loài [4 ]. Năm 1999 Phạm Hoàng Hộ đã thống kê được 123 loài, số lượng
các loài tre trúc của Việt Nam đã tăng lên đáng kể. Không dừng lại ở đó vào
giai đoạn 2001-2003, Nguyễn Tử Ưởng, Lê Viết Lâm (Viện Khoa học Lâm
nghiệp Việt Nam) cùng với GS. Xia Nianhe, chuyên gia phân loại tre
(chi Bambusa) của Viện thực vật học Quảng Châu, Trung Quốc đã xác định ở

Việt Nam có 113 loài của 22 chi, kiểm tra và cập nhật 11 tên khoa học mới,
đặc biệt đưa ra được 6 chi và 22 loài tre lần đầu đầu được định tên khoa học ở
Việt Nam bổ sung cho hệ thực vật Việt Nam; đưa ra 22 loài cần được xem xét
để xác nhận loài mới [9 ].
Trong 2 năm 2004 – 2005, PGS.TS Nguyễn Hoàng Nghĩa cùng hai
chuyên gia phân loại tre Trung Quốc là GS. Li Dezhu, Phó Viện trưởng Viện
thực vật học Côn Minh, Vân Nam (chuyên gia chi Dendrocalamus) và GS.
Xia Nianhe (chuyên gia chi Bambusa) tiếp tục cộng tác nghiên cứu với các
nhà nghiên cứu tre trúc ở nước ta tiếp tục nghiên cứu định danh các loài tre
nứa hiện có của Việt Nam ban đầu đã đưa ra danh sách gồm 194 loài của 26
chi tre trúc Việt Nam. Phần lớn trong số đó là chưa có tên. Một số chi có
nhiều loài là chi Tre gai (Bambusa) có 55 loài thì có tới 31 loài chưa có tên,
chi Luồng (Dendrocalamus) có 21 loài với 5 loài chưa định tên, chi Le
(Gigantochloa) có 16 loài với 14 loài chưa có tên, chi Vầu đắng (Indosasa) có
11 loài với 8 loài chưa có tên và chi Nứa (Schizostachyum) có 14 loài thì có
tới 11 loài chưa có tên. Dự đoán, nếu được thống kê đầy đủ số loài tre của
10
Việt Nam có thể lên 200- 250 loài. Năm 2001 theo công bố của Chương trình
Tổng kiểm kê rừng toàn quốc, Việt Nam có 789.221ha rừng tre thuần loại,
702.871ha rừng hỗn giao tre nứa tự nhiên, cộng với trên 70.000 ha rừng tre
trồng và hàng trăm triệu cây tre trồng phân tán. Tre đựơc sử dụng rộng rãi
trong xây dựng, đặc biệt là ở các vùng nông thôn; từ việc sử dụng làm cọc
móng, giàn dáo, các kết cấu cần chịu lực đến sàn, trần, mái nhà, vách ngăn,
khung nhà để xuất khẩu, ước tính số lượng Tre được sử dụng trong xây dựng
chiếm tới 50% sản lượng khai thác hàng năm. Vì vậy trong chương trình
trồng mới 5 triệu ha rừng, nhóm Tre có vị trí được quan tâm. Kết quả hội thảo
"Xác định loài cây trồng rừng và chọn loài ưu tiên" tại các vùng lâm nghiệp
cũng đã chọn "Tre" là loài cây trồng ở tất cả các vùng (Nguyễn Tử Ưởng,
1995) [ ].
Quá trình khảo sát đã phát hiện ra một số chi được coi là mới đối với

nước ta là chi Giang (Maclurochloa) với 17 loài, chi Tre quả thịt
(Melocalamus) với 10 loài, chi Tre Bidoup (Kinabaluchloa) có 1 loài. Một số
loài mới được phát hiện là Tre lông Bidoup (Kinabaluchloa) có đặc điểm
ngoại hình giống loài cùng chi ở Malaixia (Wong, 1995) [11 ]; trúc dây
Bidoup (Ampelocalamus) có ngoại hình giống như trúc dây Ba Bể; nhiều loài
nứa (Schizostachyum), le (Gigantochloa) và lồ ô (Bambusa). Một số chi có
nhiều loài là chi Tre (Bambusa) có 55 loài, chi Luồng (Dendrocalamus) có 21
loài, chi Le (Gigantochloa) có 16 loài, chi Nứa (Schizostachyum) có 14 loài
và chi Vầu đắng (Indosasa) có 11 loài.
Qua một số năm điều tra khảo sát (2003-2006), Trần Văn Tiến và
Nguyễn Hoàng Nghĩa (2007) đã xác định được phân tông tre (Bambussinae) ở
Việt Nam hiện nay có 8 chi: chi Tre (Bambusa), chi Le Bắc Bộ (Bonia), chi
Luồng (Dendrocalamus), chi Le (Gigantochloa), chi Tre lông
(Kinabaluchloa), chi Giang (Maclurochloa), chi Tre quả thịt (Melocalamus),
chi Tầm vông (Thyrsostachys) mà các chi này có các loài mới hoặc mới ghi
11
nhận ở Việt Nam. Dựa trên một số đặc điểm hình thái hoa của 37 loài thuộc 5
chi cũng như các cơ quan dinh dưỡng nhằm giới thiệu một số đặc điểm dễ
nhận biết và xây dựng khoá phân loại các chi thuộc phân tông tre
(Bambusinae) ở Việt Nam [ ].
Nhu cầu về tre ở nước ta ngày càng tăng, trong khi đó diện tích tre nứa
tự nhiên đang suy giảm nhanh chóng, do vậy trong Chương trình trồng mới 5
triệu ha rừng tre nứa cũng được chọn để trồng rừng để tạo vùng nguyên liệu
cho chế biến phục vụ nội tiêu và xuất khẩu. Đỗ Văn Bản (2006) đã giới thiệu
một số loài Tre thông dụng cho trồng rừng như: Dendrocalamus aff
giganteurs Munro (Mạy púa mơi), Dendrocalamus aff latifflorus Munro (Mai
xanh), Dendrocalamus aff pachuystachys Hsueh et D.Z.Li, Dendrocalamus
(Bương hoa lớn), Dendrocalamus longivaginus sp.nov., Bambusa
sinospinosa McClure (Tre là Ngà), Dendrocalamus minor (McClure) chia et
Fung ( Tre mỡ Lạng Sơn), Phyllostachys hetercycla (Carr.) Mitford,

Bambusa bicorniculata sp. nov. (Dendrocalamus barbatus Hsuch et D. Z. Li (
Luồng, mét), Dendrocalamus yunnanicus Hsuch et D. Z. Li ( Mai dây, mai
ống),…
Các nghiên cứu về kỹ thuật lâm sinh tương đối phong phú. Các nghiên
cứu tập trung các vấn đề nhân giống, khảo nghiệm, kỹ thuật gây trồng, kỹ
thuật chăm sóc và khai thác các loại riêng biệt. Tuy nhiên, các nghiên cứu chỉ
chú trọng vào một số loài có giá trị kinh tế cao và trồng tập trung (ví dụ
Lluồng, Ttre điền trúc ), trong khi còn rất nhiều loài rất có tiềm năng phân
bố trong rừng hỗn giao tre nứa khắp Việt Nam vẫn chưa được nghiên cứu vì
các mục tiêu khai thác sử dụng, cũng như đa dạng sinh học và bảo tồn.
2.3. Tình hình kinh tế xã hội khu vực nghiên cứu
2.3.1. Điều kiện tự nhiên
2.3.1.1 Vị trí địa lý
12
Đoan Hùng là một huyện đồi núi trung du, nằm tại ngã ba ranh giới
giữa tỉnh Phú Thọ với hai tỉnh Yên Bái và Tuyên Quang. Diện tích tự nhiên
của huyện Đoan Hùng là 302,4 km². Ranh giới hành chính của huyện được
xác định như sau:
+ Phía Đông Nam giáp huyện Phù Ninh
+Phía Nam giáp huyện Thanh Ba
+Phía Tây Nam và phía Tây giáp huyện Hạ Hòa, đều là các huyện của
tỉnh Phú Thọ.
+Phía Tây Bắc, Đoan Hùng giáp huyện Yên Bình của tỉnh Yên Bái.
+Phía Bắc và phía Đông, huyện Đoan Hùng giáp các huyện của tỉnh
Tuyên Quang, kể từ Bắc sang Đông lần lượt là các huyện: Yên Sơn (phía
Bắc) và Sơn Dương (phía Đông). Trên phần phía Đông Bắc huyện có đoạn
cuối của sông Chảy (phần hạ du thủy điện Thác Bà), đổ nước vào sông Lô
ngay tại đây. Men theo phần lớn ranh giới với huyện Sơn Dương - Tuyên
Quang, là dòng sông Lô, một con sông lớn của hệ thống sông Hồng, nhưng
ngã ba sông Chảy - sông Lô lại nằm sâu trong lòng huyện.

2.3.1.2. Địa hình
Với đặc trưng của vùng chuyển tiếp từ miền trung du và miền đồi núi
cao, huyện Đoan Hùng có tổng diện tích đất tự nhiên 30.244,47 ha. Trong đó
diện tích đất gò đồi chiếm phần lớn diện tích. Địa bàn huyện Đoan Hùng nằm
trên trục quốc lộ 2 và quốc lộ 70, địa hình phức tạp đồi núi xen kẽ các cánh
đồng lầy thụt. huyện có 27 xã và một thị trấn, gồm 14 dân tộc, trong đó dân
tộc kinh chiếm phần lớn dân số trong vùng.
Địa hình của huyện khá phức tạp thấp dần từ bắc xuống nam, từ tây
sang đông độ dốc trung bình 3-5 độ, có nhiều cánh đồng chua, lầy thụt, nằm ở
các khe dốc, có chiều dài từ tây bắc xuống đông nam là 31 km, chiều rộng từ
đông sang tây là 14 km. sự thay đổi đọ cao của các vùng trong huyện thấp dần
về phía sông lô, sông chảy, cụ thể địa hình được chia làm 3 tiểu vùng.
13
Tiểu vùng 1 ( tiểu vùng Thượng huyện) diện tích là 12.347 ha bao gồm
9 xã: Bằng Luân, Minh Lương, Bằng Doãn, Quế Lâm, Phúc Lai, Đông khê,
tây Cốc, Ca Đình, Ngọc Quan) chiếm khoảng 41%tổng diện tích tự nhiên. Địa
hình nơi đây có nhiều núi cao, rừng tự nhiên suy kiệt, chủ yếu là rừng trồng,
đọ dốc trung bình 12-25 độ với dải gò đồi bát úp mấp mô có đọ cao trung
bình từ 50-100m tạo nên khoảng giưa là các thung lũng nhỏ hẹp thích hợp cho
trồng rừng sản xuất, cây công nghiệp và cây ăn quả.
Tiểu vùng 2 (tiểu vùng vên sông Lô, sông Chảy) có diện tích là 10.800 ha
bao gồm 13 xã ( chí Đám, Vân Du, HÙNg quan, nghinh xuyen, phuong trung,
phong phú, thị trấn đoan hùng, hữu đô, phú thứ, đại nghĩa, hùng long, sóc đăng,
vụ quang), chiếm 35,7 diện tích tự nhiên, là vùng chuyển tiếp có dạng núi thấp
xen kẽ các dải đồng bằng hẹp ven sông lô, sông chảy. đất vùng ven sông nên chủ
yếu là đất phù sa cổ và 1 phần sình lầy, thích hợp cho trồng cây lương thực, rau
màu, cây công nghiệp ngắn ngày, chăn nuôi và cây ăn quả.
Tiểu vùng 3 (tiểu vùng hạ huyện) có diện tích là 7.097,47 ha, bao gồm
6 xã Minh Phú, Chân Mộng, Vân Đồn, Tiêu Sơn, Yên Kiện, Minh Tiến)
chiếm khoảng 23,5% tổng diện tích tự nhiên, dạng núi thấp, xen kẽ vùng đồi

bát úp có nhiều cánh đồng dạng lòng chảo , có đọ cao phổ biến từ 25- 50 m,
có ưu thế về chăn nuôi, trồng cây công nghiệp dài ngày và cây nguyên liệu
cho nhà máy giấy bãi bằng
Bảng …. 2.2. Đặc điểm địa hình của huyện theo dạng địa hình năm 2007
Dạng địa hình Diện tích (ha) Đặc điểm
1. Dạng thấp trũng 6.450 Chiếm khoảng 21,3% tổng DTTN,
độ cao từ 13,5m – 25m xen kẽ các
dải đồi phân bố không liên tục, có
độ dốc 0 -8 độ.
2. Dạng gò đồi 14.244,3 Chiếm 47% tổng DTTN, gồm có
gò đồi thấp với độ cao 30m- 50m
và gò đồi cao với đọ cao 50- 100m,
14
độ dốc từ 12-25 độ
3. Dạng núi ,thấp
đồi cao
4.660 Chiếm 15,2% tổng DTTN, có độ
cao từ 100m đến 200m, độ dốc
>hơn 25
Nguồn: Phòng Địa chính huyện Đoan Hùng
2.3.1.3. Khí hậu
Đoan Hùng thuộc vùng trung du bắc bộ, chịu ảnh hưởng của nhiệt đới
gió mùa nóng ẩm, chia thành hai mùa rõ rệt: Mùa mưa lượng mưa cao, cường
độọ mạnh chiếm khoảng 90% lượng mưa cả năm, trời nắng gắt đôi khi có
những đợt lốc xoáy cục bộ và mưa đá. Mùa khô ít mưa, có gió mùa Đông Bắc
thổi vào, trời rét, nhiệt độ thấp.
Đặc điểm chính về khí hậu thời tiết của huyện như sau:
- Nhiệt độ: nhiệt độ trung bình năm từ 23 - 24ºc, mùa nóng nhiệt độ từ
27 - 28ºC, mùa lạnh nhiệt độ từ 15 - 16ºC.
- Chế độ mưa: Lượng mưa trung bình 1780 mm/năm, phân bố theo mùa

rõ rệt mùa mưa kéo dài 7 tháng ( tháng 5- tháng 11).
- Độ ẩm không khí: Độ ẩm tương đối trung bình hằng năm là 85%, mùa
mưa độ ẩm cao có thể đạt tới 88%, độ ẩm thấp nhất là 24%.
2.3.1.4. Thuỷ văn.
Huyện chịu ảnh hưởng chủ yếu của hệ thống sông Chảy và sông Lô.
Sông Lô chảy qua huyện từ xã Chí Đám tới xã Vụ Quang qua các xã: Chí
Đám, thị trấn Đoan Hùng, Sóc Đăng, Hữu Đô, Đại Nghĩa, Phú Thứ, Hùng
Long, Vụ quang, với chiều dài 25km.
Sông Chảy có chiều dài qua huyện khoảng 22 km bát đầu từ vùng tiếp
giáp Yên Bái là Đông Khê, Quế Lâm theo hướng Tây Bắc – Đông Nam qua
các xã Phương Trung, Nghinh Xuyên, Phong Phú, Hùng Quan, thị trấn Đoan
Hùng, Vân Du, Chí Đám và đổ vào sông Lô tại Mom Cầy (Ngọc Trúc - Chí
Đám).
15
Hai con sông này có lượng phù sa thấp hơn sông Hồng, nước chảy xiết,
vào mùa mưa lũ hợp lại gây nên những trận lụt lớn cho vùng, lưu lượng
1.150m/s. vì vậy công tác phòng hộ đê được cấp chính quyền và nhân dân
trong vùng rất coi trọng.
- Ngòi, với 28 ngòi ( ngòi Nạp Xuyên, ngòi Quế Lâm, ngòi sống, ngòi
ruỗn, ngòi Rằm …), cứ bình quân 3,36 km² lưu vực 1km ngòi dài tạo nên cho
huyện một hệ thống tưới tiêu phong phú, vùa đẻ tiêu nước khi mưa lũ, và đưa
nước lên các xã vùng thượng huyện vào mùa khô.
2.3.1.5. Đặc điểm đất đai
Đoan Hùng có những nhóm đất chính sau:
- Nhóm đất Feralít đỏ vàng phát triển trên đá phiến thạch sét: Đất có
thành
phần cơ giới từ thịt nặng đến sét, tầng đất dày, thấm nước tốt, lượng
mùn trung bình, lân dễ tiêu nghèo. Độ PH của đất thay đổi từ trung tính đến
chua ở các mức độ khác nhau. Loại đất này thích hợp với đất sản xuất nông
lâm nghiệp.

- Nhóm đất Feralít đỏ vàng phát triển trên nền phù sa cổ: Đất có hàm
lượng
mùn và đạm tổng số nghèo, lân tổng số trung bình, lân dễ tiêu nghèo,
kali tổng số và trao đổi giàu và trung bình. Nhóm đất này thích hợp với đất
sản xuất lâm nghiệp.
- Nhóm đất thung lũng do sản phẩm dốc tụ: Đất này được hình thành
do sản
phẩm dốc tụ. Thành phần cơ giới của đất chủ yếu là thịt trung bình đến
thịt nặng. Hàm lượng mùn và đạm tổng số khá, lân tổng số và lân dễ tiêu
nghèo, đất có độ PH chua và rất chua. Nhóm đất này chủ yếu sử dụng để gieo
trồng lúa nước và các loại cây màu.
16
- Nhóm đất Feralít phát triển trên tầng đá mẹ sa thạch, phiến thạch, đất
nghèo
dinh dưỡng, có thành phần cơ giới thịt nhẹ đến trung bình. Độ PH của
đất chua, hàm lượng mùn và đạm tổng số nghèo, lân tổng số và lân dễ tiêu
trung bình, kali nghèo. Nhóm đất này thích hợp cho các loài cây công nghiệp
như: Chè
- Nhóm đất phù sa sông suối, thành phần cơ giới từ thịt trung bình đến
thịt
nặng. Đất có phản ứng trung tính, hàm lượng mùn và đạm tổng số khá,
lân tổng số giàu và dễ tiêu, ka li tổng số và trao đổi nghèo. Nhóm đất này
thích hợp với một số cây ngắn ngày như: Ngô, Đậu tương
2.3.2. Điều kiện kinh tế xã hội
2.3.2.1.Hiện trạng dân số, dân tộc, lao động và phân bố dân cư
17
a) Dân số
Năm 2010, dân số Đoan Hùng là 104.471 người; mật độ dân số bình quân
345,23 người/km2, dân số nông thôn chiếm 93,63% và dân số thành thi chiếm
6,37%. Số người trong độ tuổi lao động là 57.000 người, chiếm 54,56% tổng

dân số (trong đó lao động hoạt động trong khu vực kinh tế Nhà nước có 2,7
nghìn người, chiếm 0,005% tổng số lao động). Cơ cấu dân số của huyện Đoan
Hùng là dân số trẻ, tỉ lệ người trong độ tuổi lao động và trẻ em ở độ tuổi lao
động và trẻ em ở độ tuổi đi học và chưa đi học lớn, chiếm trên 80% tổng dân
số toàn huyện.
b) Lao động
Trong giai đoạn 2010 – 2020 huyện sẽ phấn đấu tạo công ăn việc làm
cho người lao động, đưa thêm các ngành nghề mới vào sản xuất, xây dựng các
Trung tâm đào tạo và hướng nghiệp, tạo thêm lực lượng lao động mới có tay
nghề và trình độ kỹ thuật cao. Công tác đào tạo, dạy nghề đã được các cấp,
các ngành quan tâm. Các trường, lớp, trung tâm dạy nghề phát triển dưới
nhiều hình thức, dạy nghề ngắn hạn phát triển mạnh. Thông qua việc thực
hiện các chương trình, mục tiêu và các dự án phát triển kinh tế - xã hội,
chương trình quốc gia về giải quyết việc làm; trong giai đoạn từ 2005 - 2012
huyện đã tạo việc làm mới và làm thêm cho gần 25.000 lao động với các nghề
chính như may mặc, thêu ren, sửa chữa cơ khí, điện dân dụng, tin học văn
phòng, dược, chăn nuôi, trồng trọt,
2.3.2.4. Thực trạng phát triển cơ sở hạ tầng
a) Giao thông
18
- Đường bộ: Đoan Hùng có mạng lưới giao thông phát triển, xuyên dọc
huyện có 2 tuyến đường quốc lộ 2 và quốc lộ 70. Trong đó 12 xã có đường
quốc lộ đi qua và 16 xã có đường rải cấp phối. Đến nay có 28/28 xã, thị trấn
trong huyệncó đường giao thông đến tận trung tâm xã, tạo thành mạng lưới
nối liền giữa các xã trong huyện với trung tâm huyện và các trung tâm kinh tế
trong vùng.
- Đường thuỷ: Có 2 hệ thống đường thuỷ quan trọng trong lưu thông
hàng hoá và các lâm đặc sản trong khu vực đó là sông Lô và sông Chảy.
b) Thủy lợi
Toàn huyện hiện có 70 km kênh mương; 14 trạm bơm với công suất tưới

1.400 ha và tiêu 450 ha. Hệ thống mương máng dẫn nước cũng thường xuyên
được đầu tư cải tạo và xây mới. Tổng diện tích đất được tưới có 3.200 ha,
diện tích còn lại vẫn còn phải chờ vào nước mưa nên thường xuyên ở trong
tình trạng khô hạn.Do địa hình của huyện chủ yếu là đồi, các cánh đồng nhỏ
lẻ, phân tán, thung lũng hẹp không bằng phẳng. Vì vậy, vấn đề thuỷ lợi của
huyện chủ yếu là đắp đập, làm mương, phải giữ nước phục vụ việc tưới cho
sản xuất nông nghiệp theo phương thức tự chảy. Đồng thời hiệu quả sử dụng
của các hồ đập còn ở mức thấp, cần tiếp tục đầu tư nâng cấp và khai thác có
hiệu quả hơn nữa các công trình thuỷ lợi nhằm đáp ứng tốt hơn cho sản xuất
nông nghiệp.
c) Hệ thống đĐiện - nước
Hệ thống điện phục vụ đời sống và sản xuất kinh doanh của người dân
trên địa bàn huyện được cung cấp từ đường dây 35KV từ Thác Bà, đường dây
10KV sau trạm trung gian Tây Cốc và trạm trung gian Thanh Ba 10KV. Đến
nay hệ thống lưới điện trên địa bàn huyện khá hoàn chỉnh, tất cả các xã, thị
trấn trong huyện đều có ít nhất là 1 trạm biến áp, 100% số thôn được sử dụng
điện lưới quốc gia (có 98% số hộ và 95% số dân được dùng điện lưới quốc
gia để phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt).
19
Toàn huyện có 5 nhà máy nước phục vụ sinh hoạt cho nhân dân, số hộ
gia đình được dùng nước sạch trên địa bàn huyện mới chỉ đạt khoảng 20%, số
còn lại nước sinh hoạt chủ yếu là giếng đào, một số hộ vùng cao dùng nước
khe, suối để phục vụ sinh hoạt và sản xuất.
d) Giáo dục
Toàn huyện có 4 trường trung học phổ thông với 112 lớp học; 56
trường 56 trường trung học cơ sở và tiểu học với 549 lớp học ; có 29
nhà mẫu giáo với 144 lớp học. Tổng số giáo viên các cấp học là 1.516 người,
trong đó THPT là 116 người, THCS là 544 người, tiểu học là 578 người và
278 giáo viên nhà trẻ mẫu giáo.
e) Y tế

Trên địa bàn huyện có 1 bệnh viện, 28 trạm y tế cấp xã, thị trấn. Toàn
huyện có 174 cán bộ y bác sĩ, 162 giường bệnh, y tế dự phòng đã được chú
trọng. Hàng năm thực hiện tốt các chương trình y tế quốc gia như tiêm chủng
mở rộng, hiến máu nhân đạo Công tác kế hoạch hóa gia đình ngày càng
được quan tâm và đạt được những thành quả khả quan.
f) Văn hoá - thông tin
Hiện nay trên địa bàn huyện có đài phát thanh, truyền hình, 100% các
xã đã được phủ sóng truyền hình. Hệ thống thông tin liên lạc được thông suốt,
tất cả các xã, thị trấn trong huyện đã có điểm bưu điện văn hoá xã. Hàng năm
vào những ngày lễ lớn của đất nước phòng văn hoá đã tổ chức thực hiện tốt
hoạt động thông tin tuyên truyền.
20
21
PHẦN 3
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là cây Bương lông điện biên.
3.3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu về::
- Thí nghiệm nhân giống bằng chiếthom cành chét
- Thí nghiệm nhân giống bằng giâm hom cành
- Thí nghiệm nhân giống bằng hạt
- Thí nghiệm nhân giống bằng hom ốngthân
3.2. Địa điểm và thời gian tiến hành
- Về địa điểm: Đề tài nghiên cứu ở Cầu Hai Đoan Hùng - Phú Thọ
- Thời gian tiến hành từ ngày 19/8/2014 - 30/11/2014
3.3. Nội dung nghiên cứu
3.3.1. Nghiên cứu kỹ thuật nhân giống từchọn cây mẹ và cành chét.
3.3.2. Nghiên cứu kỹ thuật nhân giống bằng hom cành chét (chiết

cành)Nghiên cứu kỹ thuật nhân giống bằng hom gốc.
3.3.3. Nghiên cứu kỹ thuật nhân giống bằng giâm hom thâncành.
3.3.4. Nghiên cứu kỹ thuật nhân giống bằng hom thân Nghiên cứu kỹ thuật
nhân giống bằng hom cành chét.
3.3.5. Đề xuất một số biện pháp nghiên cứu về kỹ thuật nhân giống Bương
lông điện biên.
3.4. Phương pháp nghiên cứu và các chỉ tiêu theo dõi
3.4.1. Phương pháp luận
Ta áp dụng kinh nghiệm địa phương kết hợp với kiến thức bản địaĐề
tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu thông dụng trong lâm nghiệp. Sử
dụng các chất kích thích ra rễ nhằm hỗ trợ quá trình ra rễ, rút ngắn thời gian
22
chiết và giâm hom. Mặt khác, xác định phương pháp nhân giống tiết kiệm và
hiệu quả.
3.4.2. Phương pháp kế thừa
Kế thừa các tài liệu liên quan, báo cáo, đề tài, số liệu, bảng biểu, biểu
đồ, bản đồ, hình ảnh…
Kế thừa có chọn lọc các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước về
tre trúc và Bương lông đĐiện bBiên
Kế thừa tài liệu về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội tại khu vực
nghiên cứu.
Các số liệu, tài liệu, quy trình, quy phạm, tiêu chuẩn có liên quan.
3.4.3. Phương pháp điều tra hiện trường
3.4.3.1. Phương pháp nhân giống từlựa chọn cây mẹ và cành chét
Về tiêu chuẩn cây mẹ chọn để đánhlàm giống: cây để đánh giống là
cây bánh tẻ, thân xanh, khoảng 1 - 2 tuổi, không bị sâu bệnh, không thối mắt
và không ra hoa. Chiều dài phần thân khí sinh để lại thường từ 3 đến 5 đốt
Cành bánh tẻ tuổi 1 – 2, đường kính khoảng 1 cm, thon đều, đùi gà to.
Đề tài thí nghiệm với loại hom cành bánh tẻ và hom cành già. 100 hom
từ cây mẹ 2 tuổi, 100 hom từ cây mẹ 3 tuổi. Hom cành sinh trưởng tốt, không

bị sâu bệnh.
3.4.3.2. Phương pháp tạo hom cành chét
Cành chét là vật liệu chủ yếu trong quá trình tạo cây con Bương lông
điện biên bằng hom cành. Bương lông Điện Biên là loài rất ít cành nhánh để
tạo hom giống, vì vậy cần có các biện pháp kỹ thuật tạo cành chét, đề tài
nghiên cứu đưa ra một số phương pháp tạo cành chét.
• Thí nghiệm đốn ngọn cây mẹ tạo cành chét Bương lông điện biên
Từ cây mẹ Bương lông Điện Biên bằng cách đốn ngọn cây mẹ để lại
phần thân cao 15 m, vị trí đốn ở giữa lóng để không ảnh hưởng đến mắt thân.
• Thí nghiệm ngả thân cây mẹ tạo cành chét Bương lông điện biên
23
Áp dụng phương pháp kỹ thuật tạo giống Luồng theo tiêu chuẩn ngành
04 TCN 21-2000 Quy phạm kỹ thuật trồng và khai thác cây Luồng
(Dendrocalamus membranaceus Munro) có sử dụng phương pháp bập thân
cây mẹ, chặt 2/3 đường kính thân cây mẹ ở vị trí cách gốc 50 - 70 cm, vít cây
nằm ngả và theo dõi cành chét được tạo ra.
3.4.3.3. Thí nghiệm nhân giống bằng chiết cành
Thí nghiệm nhân giống bằng chiết cành được áp dụng đối với cây
Luồng thanh hóa và cây Bát độ rất có hiệu quả. Đề tài ứng dụng phương pháp
chiết cành của 2 loài cây này thử nghiệm đối với Bương lông điện biên có sử
dụng hỗn hợp ruột bầu có sử dụng thuốc kích thích và không sử dụng thuốc
kích thích.
Kỹ thuật nhân giống bằng phương pháp chiết cành gồm 3 bước.
Bước 1: Chuẩn bị vật liệu, dụng cụ
Dao, kéo cắt cành, cưa nhỏ dùng để cưa, túi nilon để bó bầu
Bước 2: Tạo hỗn hợp
Và các vật liệu để bó bầu gồm có rơm và đất bùn. Tỷ lệ hỗn hợp 2 bùn
+ 1 rơm (rơm băm nhỏ khoảng 1 – 2 cm). Hỗn hợp này ta trộn lẫn chúng lại
vào với nhau rồi cho một ít nước sạch vào để có độ ẩm nhất định.
Vật liệu để bó hom sử dụng hỗn hợp bùn ao sạch hoặc bùn ao tự tạo

trộn với rơm băm nhỏ theo tỷ lệ 2 bùn : 1 rơm theo thể tích và bó bằng túi ni
lông.
Bước 3: Tiến hành chiết
Dùng kéo cắt cành cắt bỏ lóng để lại 2 – 3 lóng trên cành. Nơi cành tiếp
giáp thân bỏ bớt những cành nhỏ hai bên và phía dưới cành chiết. Dùng dao,
cưa tách cành chiết 2/3 thân từ trên xuống (chỗ mắt tiếp giáp). Hỗ hợp bầu
gồm rơm băm nhỏ hoặc sơ dừa + đất + bùn + 1% lân.
Đề tài thí nghiệm chiết cành có sử dụng loại thuốc kích thích ra rễ IBA
với các nồng độ 0,25%; 0,5%; 0,75; 1%;
24
Sau khi bó cành chiết khoảng 10 – 15 ngày, kiểm tra thấy cành nào ra
rễ khi chuyển sang màu vàng có lông tơ cắt cành khỏi thân đem cấy vào bầu
đất, dưỡng cây con trong vườn ươm khi cây ra rễ thứ cấp thì đem đi trồng.
Bầu đất gồm 90% đất cát pha + 9% phân chuồng hoai + 1% Supr lân. Đặt bầu
thành luống tưới ẩm thường xuyên.
Phương pháp này vừa lấy được giống vừa sử dụng được cây và không
ảnh hường đến năng xuất ra măng của cả khóm.
3.4.3.2. Phương pháp nhân giống bằng giâm hom gốcchét
Chọn những cành chét đạt tiêu chuẩn, dung dao sắc hoặc cưa tách cành
chét ra khỏi cây mẹ, cắt bớt phần ngọn chét chỉ để lại 2 – 3 lóng, bóc bỏ phần
mo còn tồn tại, vệ sinh sạch sẽ và đem giâm ngay.
Đề tài thí nghiệm chiết cành có sử dụng loại thuốc kích thích ra
rễ IBA với các nồng độ 0,25%; 0,5%; 0,75; 1% để thí nghiệm giâm hom chét.
Làm đất tơi xốp, tạo luống, bón phân chuồng hoai và lân, tưới ẩm.
Chấm thuốc kích thích vào phần đùi gà rồi đem giâm, sau đó làm vòm che
nilon để giữ nhiệt và độ ẩm, hàng ngày tưới phun mù đủ ẩm. Khi cây lên
măng và ra lá thì dỡ bỏ nilon nhưng vẫn che sáng bằng vật liệu lưới đen 50%.
Tạo giống bằng gốc là kinh nghiệm lâu đời của nhân dân. Cách tạo giống
Luồng bằng gốc như sau :
a.Chọn cây làm giống.

Cây Luồng chọn để lấy gốc làm giống phải đạt tiêu chuẩn :
- Cây trong búi sinh trưởng phát triển tốt, không có hiện tượng ra hoa.
- Cây bánh tẻ có tuổi dưới 1 năm, của vụ măng trước, đã đầy đủ lá.
- Cây không bị sâu bệnh hại.
b. Thao tác đánh giống:
- Đánh đúng chỗ tiếp giáp giữa thân ngầm và gốc cây mẹ.
- Xỉa đứt hệ rễ xung quanh cây giống định đánh.
- Dùng dao sắc chặt bớt thân cây làm giống, chừa lại dài 2 - 4m.
25

×