Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

tiểu luận Mục tiêu và chiến lược phát triển của công tác thông tin đối ngoại ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.37 KB, 26 trang )

MỤC LỤC
Mở đầu 2
1. Tính cấp thiết của đề tài 2
2. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng nghiên cứu 3
3. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu 4
4. Kết cấu của tiểu luận 4
Nội dung 5
Chương 1: Những nội dung cơ bản về thông tin đối ngoại 5
1. Khái niệm 6
2. Tầm quan trọng của công tác thông tin đối ngoại 7
3. Địa bàn hoạt động của thông tin đối ngoại 8
4. Phương châm hoạt động của công tác thông tin đối ngoại 8
5. Những lĩnh vực và vấn đề trọng tâm trong công tác thông tin đối ngoại 9
Chương 2: Vai trò và hoạt động thông tin đối ngoại của các cơ quan 9
1. Đảng Cộng sản Việt Nam 9
1.1. Vai trò 9
1.2. Những hoạt động cơ bản 9
2. Lực lượng công an nhân dân 11
3. Cơ quan truyền thông 13
3.1. Các loại hình truyền thông đại chúng 13
3.2. Vai trò của truyền thông đại chúng trong công tác thông tin đối ngoại 14
3.3. Tình hình hoạt động của cơ quan truyền thông đại chung trong công tác
thông tin đối ngoại 16
Chương 3: Mục tiêu và chiến lược phát triển của công tác thông tin đối
ngoại ở Việt Nam 17
1. Thành tựu 17
2. Mục tiêu và chiến lược phát triển trong công tác thông tin đối ngoại của
Việt Nam 21
Kết luận 25
Danh mục tài liệu tham khảo 26
MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài
Thông tin đối ngoại được hiểu là toàn bộ các hoạt động thông tin truyền
thông nhằm làm cho các nước, người nước ngoài(bao gồm cả người cả người
nước ngoài đang sinh sống, công tác tại Việt Nam), người Việt Nam đang
sinh sống và làm việc ở nước ngoài hiểu biết về đất nước, con người Việt
Nam, đường lối chủ trương, chính sách và thành tựu đổi mới của ta trên cơ sở
đó tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân thế giới, sự đóng góp của cộng đồng
người Việt Nam ở nước ngoài, thu hút sự quan tâm của nhà kinh doanh, tài
chính tiền tệ, chính phủ của các nước trên thế giới. Đối với các doanh nghiệp,
thông tin đối ngoại giúp giới thiệu về mình, tạo dựng uy tín, thương hiệu với
đối tác nước ngoài, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. Thông
tin đối ngoại ra đời do yêu cầu của chính sách đối ngoại, là sự tiếp nối chính
sách đối nội trong điều kiện mới, là bộ phận quan trọng trong đường lối đối
ngoại của mọi quốc gia nói chung và của Việt Nam nói riêng. Đặc biệt khi
Việt Nam đã gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, tham gia sân chơi
mới, có nhiều cơ hội cũng như thách thức đối với sự phát triển của kinh tế thì
vị trí của thông tin đối ngoại càng có tầm quan trọng.
Để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên
của WTO nhiệm vụ của công tác thông tin đối ngoại là góp phần giữ vững
môi trường hoà bình, tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi
mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế-xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất
nước, xây dựng và bảo về Tổ quốc góp phần tích cựu vào cuộc đấu tranh
chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ
xã hội.
Đồng thời, việc thực hiện đường lối ngoại giao nói chung và công tác
thông tin đối ngoại nói riêng được đánh giá là một trong những vấn đề quan
trọng trong công cuộc đổi mới đất nước trong 20 năm qua. Trong những
thành tựu chung của sự nghiệp đổi mới, công tác thông tin đối ngoại đã góp
2
một phần to lớn đưa nước ta thoát khỏi tình trạng bị bao vây và nhanh chóng

hội nhập trong khu vực và trên thế giới.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, Đảng và nhà nước luôn chú
trọng đầu tư phát triển công tác thông tin đối ngoại. Nhiều văn bản về vấn đề
này đã ra đời: Chỉ thị số 11/CT-TW ngày 13-6-1992 về đổi mới và tăng
cường công tác thông tin đối ngoại của Ban Bí thư khoá VII; Thông báo số
188/TB-TW, ngày 29/12/1998 của Thường vụ Bộ Chính trị về công tác thông
tin đối ngoại trong tình hình mới; Chỉ thị số 26/CT-TW, ngày 10/9/2008 về
tiếp tục đổi mới và tăng cường công tác thông tin đối ngoại trong tình hình
mới…Các chỉ thị, Nghị quyết của Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã nêu rõ tầm
quan trọng, hệ quả và yếu kém của công tác thông tin đối ngoại trong thời
gian qua, đồng thời chỉ ra những biện pháp cần khắc phục trong thời gian tới.
Vấn đề tăng cường công tác thông tin đối ngoại đang ngày càng trở lên bức
thiết, cần phải được triển khai, cải cách đồng bộ, thiết thực và có hiệu quả với
sự chỉ đạo của Trung ương và sự tham gia tích cực của các Bộ, Ngành và các
địa phương.
2. Mục đích, nhiệm vụ và đối tượng nghiên cứu
• Mục đích nghiên cứu
Bắt nguồn từ tính cấp thiết của đề tài, tiểu luận nhằm mục đích khái quát
những nội dung cơ bản về thông tin đối ngoại, hiểu được vai trò, nhiệm vụ và
những hoạt động cụ thể của các cơ quan ( Đảng, lực lượng công an nhân dân,
các cơ quan truyền thông)trong công tác thông tin đối ngoại đồng thời nêu lên
những thành tựu mà Việt Nam đạt được nhờ sự hoạt động tích cực của công
tác này từ đó đề ra mục tiêu, chiến lược phát triển.
• Đối tượng nghiên cứu
Tiểu luận tập trung nghiên cứu những thành tựu mà Việt Nam đã đạt
được khi thực hiện những chính sách của Đảng và nhà nước, mục tiêu và
chiến lược phát triển thông tin đối ngoại trong thời kì mới.
• Nhiệm vụ nghiên cứu
3
Từ việc tìm hiểu vai trò của các cơ quan, ngành, phân tích mục tiêu và

chiến lược phát triển của công tác thông tin đối ngoại để từ đó đánh giá được
tầm quan trong của hoạt động này với sự phát triển toàn diện của Việt Nam.
3. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
• Cơ sở nghiên cứu
Tiểu luận được xây dựng trên cơ sở chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ
nghĩa duy vật biện chứng.
• Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu nhiệm vụ nói trên, tiểu luận đã sử dụng phương
pháp khảo sát thống kê, phân tích nghiên cứu tổng hợp, so sánh dựa trên cơ sở
chủ nghĩa Mác-Lênin,…
4. Kết cấu tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
tiểu luận gồm 3 chương, 10 tiết, 5 tiểu tiết.
4
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ THÔNG TIN ĐỐI NGOẠI
1. Khái niệm
Thông tin đối ngoại là những hoạt động chủ động cung cấp thông tin có
định hướng để giới thiệu, phổ biến quảng bá,…về một đối tượng cụ thể(một
đất nước, một tổ chức, nhóm người hoặc một cá nhân …) nhằm mục đích gây
thiện cảm, tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của các nhân tố bên ngoài để đối phó,
phản bác những thông tin sai lệch, gây bất lợi hoặc theo một cách hiểu khác,
thông tin đối ngoại là những sự kiện, tin tức được cung cấp mang tính ngoại
giao và ứng đối với bên ngoài.
Trước bối cảnh toàn cầu hoá vì mục tiêu phát triển và hội nhập của mình
nhiều quốc gia trên thế giới ngày càng quan tâm đến công tác thông tin đối
ngoại, coi đó là vấn đề quan trọng nhằm quảng bá những giá trị tốt đep,
những lợi thế vốn có đồng thời quảng bá, nâng cao vị thế vai trò của quốc gia
trên trường quốc tế.
Ở Việt Nam, công tác thông tin đối ngoại được xác định vừa là bộ phận

của công tác tư tưởng vừa là một bộ phận của công tác đối ngoại với một số
đặc điểm sau:
● Nội dung của công tác thông tin đối ngoại
־Các chủ trương, chính sách lớn của Nhà nước như chính các chính
sách về ngoại về ngoại giao, kinh tế đối ngoại và hội nhập quốc tế của các
quốc gia,các nội dung về lịch sử, văn hoá, con người…
־Chủ động cung cấp thông tin và phản ứng trước những thông tin không
chính xác.
־ Đấu tranh thông tin nhằm phản bác lại những luận điệu tuyên truyền có
ý bôi nhọ, vu cáo của các thế lực thù địch.
● Hình thức của thông tin đối ngoại
Trong bối cảnh các phương tiện thông tin đại chúng ngày càng phát triển,
có tầm ảnh hưởng lớn, có sức lan toả nhanh và rộng lớn với sự trợ giúp của
công nghệ thông tin và truyền thông dẫn đến hình thức chủ yếu của công tác
5
thông tin đối ngoại chính là các phương tiện truyền thông đại chúng như: Báo
chí điện tử, hệ thống truyền hình, truyền thanh, vệ tinh truyền hình và các tờ
báo lớn được xuất bản bằng nhiều thứ tiếng. Tuy nhiên, còn có một hình thức
khác để thực hiện thông tin đối ngoại cũng rất được chú trọng chính là hoạt
động giao lưu, triển lãm quốc tế về văn hóa, nghệ thuật, hội chợ… Ngoài ra,
việc sử dụng chính các phương tiện truyền thông nước ngoài cũng là một biệp
pháp khá hiệu quả trong thực hiện công tác thông tin đối ngoại.
● Lực lượng tham gia thông tin đối ngoại
Lực lượng tham gia thông tin đối ngoại được xác định là rất rộng rãi gồm
từ các cơ quan Trung ương, các Bộ, ngành, địa phương, các nhà xuất bản, các
hội văn học nghệ thuật, các đại sứ quán, các cơ quan đại diện của Việt Nam ở
nước ngoài, các đoàn Việt Nam ra nước ngoài, các cơ sở doanh nghiệp, những
người Việt Nam đi công tác, lao động, học tập, sinh sống ở nước ngoài và
đông đảo quần chúng nhân dân đều phải làm thông tin đối ngoại, đều phải có
trách nhiệm đưa hình ảnh Việt Nam đến bạn bè quốc tế…trong đó là các cơ

quan thông tin truyền thông đối ngoại có vai trò đặc biệt quan trọng, trực tiếp
đến hoạt động thông tin tuyên truyền đối ngoại.
2. Tầm quan trọng của công tác thông tin đối ngoại ở Việt Nam
• Trong lịch sử
־ Nhờ làm tốt công tác thông tin đối ngoại mà thế giới hiểu được về Việt
Nam, về vị trí địa lý, lịch sử, truyền thống tốt đẹp, yêu hoà bình của dân tộc
Việt Nam.
־ Nhân dân thế giới đã đồng tình ủng hộ, giúp đỡ, cổ vũ Việt Nam, góp
phần quan trọng vào những thành quả của Cách mạng Việt Nam.
• Hiện nay
־ Góp phần thực hiện chính sách đối ngoại: bảo vệ và phát triển lợi ích
của mình.
־Sự hội nhập quốc tế và xu thế toàn cầu hóa đòi hỏi tăng cường giao lưu
giữa các dân tộc giúp cho thế giới hiểu chúng ta hơn, chúng ta hiểu thế giới rõ
hơn.
6
־ Giúp xây dựng hỉnh ảnh Việt Nam hoà bình, ổn định, hợp tác, phát
triển
־ Bản chất giai cấp công nhân của Đảng Cộng sản- sứ mệnh lịch sử
mang tính quốc tế của giai cấp công nhân đang góp phần tích cực vào cuộc
đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ,
tiến bộ xã hội
־ Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại, kết hợp nội lực
với sự đồng tình ủng hộ của nhân dân thế giới
־ Đấu tranh bảo vệ chủ quyền quốc gia làm rõ quan điểm của Việt Nam
về các vấn đề toàn cầu như môi trường, dân số, bệnh tật và các vấn đề khác
như tôn giáo, dân chủ, nhân quyền.
־ Làm thất bại những âm mưu của các thế lực phản động trên thế giới
bôi xấu, xuyên tạc các chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước.
Nhìn chung, trong bối cảnh cách mạng khoa học và công nghệ, nhất là

công nghệ thông tin và công nghệ sinh học tiếp tục phát triển mạnh theo chiều
sâu; xu thế hoà bình, hợp tác và phát triển, toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế
quốc tế được đẩy nhanh, tạo ra cơ hội tiếp cận tri thức thông tin đối ngoại cho
nhiều người… Tuy nhiên thế giới ngày nay đang chứa đựng nhiều yếu tố
phức tạp, khó lường; sự cạnh tranh nhau quyết liệt về kinh tế, xung đột cục
bộ… có thể gây mất ổn định, gây nhiều khó khăn mới. Các quốc gia trên thế
giới ngày càng quan tâm đến công tác thông tin đối ngoại, coi đó là vấn đề
quan trọng nâng cao vị thế trên trường quốc tế.
3. Địa bàn thực hiện công tác thông tin đối ngoại
• Các nước láng giềng và trong khu vực ASEAN
־Trung Quốc, Lào, Campuchia
־Bắc Mỹ, Tây Âu, Bắc Âu
־ Nhật Bản, Hàn Quốc, Đông Bắc Á
● Ôtxtrâylia, Châu Đại Dương
● Các nước thuộc Liên Xô, Đông Âu
7
● Các nước Châu Phi, Mỹ La Tinh( hướng vào các tổ chức đoàn kết, hoà
bình, hữu nghị, phi chính phủ, các lực lượng tiến bộ)
4. Phương châm của thông tin đối ngoại
● Tất cả các Bộ, Ngành, các cơ quan Trung ương và địa phương có trách
nhiệm chỉ đạo và tổ chức thực hiện tốt công tác thông tin đối ngoại trong
phạm vi quản lý của mình.
● Công tác thông tin đối ngoại cần được triển khai toàn diện, rộng khắp
song có trọng tâm, trọng điểm.
● Tổ chức, phối hợp và phát huy sức mạnh của nhiều lực lượng làm
công tác thông tin đối ngoại.
־Giữa các lực lượng chuyên trách nòng cốt với các cơ quan đại diện của
ta ở nước ngoài, các đoàn ra nước ngoài, người Việt Nam đang sinh sống và
làm việc ở nước ngoài cũng như bạn bè quốc tế.
־Giữa thông tin đối ngoại và thông tin đối nội

־Giữa các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hoá đối ngoại
־Giữa ngoại giao nhà nước với ngoại giao Đảng, đối ngoại nhà nước
־Giữa các cơ quan Trung ương với các địa phương; giữa các cơ quan
nhà nước với các doanh nghiệp
5. Những lĩnh vực và vấn đề trọng tâm trong công tác thông tin đối
ngoại
־ Trong lĩnh vực chính trị
־ Trong lĩnh vực kinh tế
־Trong lĩnh vực y tế, giáo dục
־Trong lĩnh vực văn hoá
Trong lĩnh vực an ninh quốc phòng ־
־ Trong các lĩnh vực khác
8
CHƯƠNG 2: VAI TRÒ VÀ HOẠT ĐỘNG THÔNG TIN ĐỐI NGOẠI
CỦA CÁC CƠ QUAN
1. Đảng
1.1 Vai trò của Đảng
Trong xã hội đương đại, vị trí, vai trò của các chính đảng ngày càng tăng,
không chỉ trong việc hoạch định và triển khai các chính sách đối nội, mà cả
trong việc hoạch định và triển khai các chính sách đối ngoại mà cụ thể là hoạt
động thông tin đối ngoại. Trên lĩnh vực đối ngoại nói chung và thông tin đối
ngoại nói riêng, các chính đảng không chỉ đại diện cho lợi ích của giai tầng xã
hội, mà còn đại diện cho lợi ích quốc gia, dân tộc. Giữa các chính đảng ở các
nước khác nhau trên thế giới có thể có sự tương đồng về mục tiêu chính trị( vì
đại diện cho giai tầng xã hội), có sự tương đồng về lợi ích trong việc giải
quyết ccác vấn đề quốc tế và khu vực. Chính sự tương đồng này là cơ sở
khách quan cho việc mở rộng quan hệ quốc tế giữa các chính đảng trên thế
giới ngày nay.
Nhận thức rõ vị trí, vai trò ngày càng tăng của các chính đảng trong việc
hình thành và triển khai chính sách đối ngoại của các nước cũng như trong hệ

thống quan hệ quốc tế đương đại, từ khi đi vào đổi mới đến nay, Đảng ta rất
coi trọng việc củng cố, mở rộng và tăng cường các mối quan hệ với các chính
đảng ở các nước khác nhau trên thế giới. Trong hoạt động đối ngoại nói
chung và thông tin đối ngoại nói riêng, Đảng ta thể hiện đồng thời cả hai tư
cách- là một đảng cộng sản và là một đảng duy nhất cầm quyền ở Việt Nam.
1.2 Những hoạt động cơ bản
Qua 20 năm đổi mới các mối quan hệ quốc tế của Đảng ta không ngừng
được mở rộng ( tính đến nay Đảng ta có quan hệ ở các mức độ khác nhau với
222 chính đảng ở 115 nước trên thế giới), nhìn nhận theo hai góc độ khác
nhau: tính chất Đảng và vị thế trên chính trường các nước, có thể thấy thành
phần các Đảng mà Đảng ta có quan hệ cũng hết sức đa dạng và phong phú.
Để đạt được những thành to lớn này Đảng ta đã liên tục đưa ra những chính
sách nhằm củng cố, tăng cường hoạt động thông tin đối ngoại và tinh thần này
9
đã được quán triệt thống nhất và xuyên suốt trong các văn kiện các kỳ đại hội
Đảng và các văn bản chính thức của Đảng Cộng sản Việt Nam, cụ thể như:
Chỉ thị 11-CT/TW của Ban Bí thư khoá VII về đổi mới và tăng cường công
tác tuyên truyền đối ngoại, số 97-BC/BTGTW,8/5/2008, Chỉ thị của Thủ
tướng chính phủ về tăng cường quản lý và đẩy mạnh công tác thông tin đối
ngoại, số 10/2000/CT-TTG, ngày 26/4/2000…
Bên cạnh đó, các đảng bộ, chi bộ đã chỉ đạo những hoạt động đối ngoại
nhân kỷ niệm những ngày lễ lớn của đất nước, của dân tộc như : ngày thành
lập Đảng, ngày Giỗ Tổ Hùng Vương, Ngày sinh nhật Bác, Cách mạng Tháng
8, Quốc khánh 2/9 và gần đây nhất là việc tổ chức thành công Đại lễ kỷ niệm
1000 năm Thăng Long Hà Nội…với nhiều hình thức phong phú, đa dạng như
tổ chức các cuộc tìm hiểu về đất nước, tìm hiểu về Đảng, về Bác Hồ, thi sáng
tác thơ, văn, truyện ngắn, hội diễn văn nghệ, thi đấu thể dục thể thao …thu
hút được đông đảo cán bộ đảng viên, quần chúng, cộng đồng ta và cả nhân
dân các nước tham gia hưởng ứng.
Các đảng bộ, chi bộ ở ngoài nước luôn chú trọng thông tin định hướng,

thường xuyên giáo dục các tổ chức quần chúng, hội nghề nghiệp, cộng đồng
ta có ý thức đoàn kết vì lợi ích cộng đồng, nâng cao lòng tự hào dân tộc, xây
dựng nếp sống văn minh, lành mạnh, tôn trọng pháp luật nước sở tại. Thực
hiện Nghị quyết Trung ương V(khoá VIII)về xây dụng nền văn hoá Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, chú trọng xây dựng môi trường văn hoá
trong cộng đồng và xây dựng hình ảnh người Việt Nam trong mắt của người
dân quốc tế.
Các cấp uỷ đảng trong và ngoài nước đã tổ chức một mạng lưới thông
tin, tuyên truyền rộng khắp tới cán bộ đảng viên, quần chúng, cộng đồng ta
thông qua các phương tiện như tập san, tạp chí, bản tin, sách báo, tranh ảnh…
đồng thời đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền phong trào hướng về quê
hương, đất nước trong cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, đẩy mạnh
công tác quảng bá hình ảnh đất nước ta trên trường quốc tế.
10
2. Lực lượng công an nhân dân
Lực lượng công an nhân dân bộ phận quan trọng giữ vai trò chủ đạo
trong công tác thông tin đối ngoại của nước ta trong lĩnh vực đấu tranh chống
thế lực thù địch.
Sau khi Thủ tướng Chính phủ có Chỉ thị100/2000/CT-TTg ngày
26/4/2000, ngày 15 tháng 8 năm 2000 Bộ Công an đã ban hành Chỉ thị số
09/CT-BCA về tăng cường quản lý và đẩy mạnh công tác thông tin đối ngoại
trong lực lượng công an nhân dân. Tiếp đó, ngày 03 tháng 12 năm 2001, Bộ
trưởng Bộ Công an đã ra quyết định số 11/2001/QĐ.BCA(XII) về việc thành
lập Ban Chỉ đạo công tác thông tin đối ngoại trong lực lượng công an nhân
dân ta đồng chí Thứ trưởng Thường trực làm Trưởng ban. Đến nay, hầu hết
công an các địa phương đã xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện nghiêm túc
Chỉ thị của Bộ Công an.
Nhìn chung cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng công an nhân dân đã nhận
thức đúng đắn vị trí, tầm quan trọng và nhiệm vụ đóng góp của lực lượng
công an trong hoạt động thông tin đối ngoại của Đảng và nhà nước. Trong

những năm qua, công an các đơn vị địa phương theo chức năng đã tham mưu
cho cấp uỷ, chính quyền các cấp và phối hợp với các ngành liên quan thực
hiện có hiệu quả các mặt công tác phục vụ cho hoạt động thông tin đối ngoại.
Chủ động đấu tranh ngăn chặn, truyền bá vào nước ta những quan điểm, tư
tưởng, văn hoá phản động đồi trụy. Trong những năm qua, các thế lực thù
địch đã tiếp tục và tăng cường các hoạt động “diễn biến hoà bình” với nước
ta; các tổ chức phản động lưu vong đã mở nhiều chiến dịch chống Việt Nam;
chúng sử dụng nhiều con đường, nhiều phương tiện để vận chuyển, phát tán
tài liệu vào trong nước…Cơ quan an ninh đã phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn
những chiến dịch lớn chuyển, phát tán tài liệu phản động vào trong nước ta,
riêng năm 2003 chúng đã phát động 8 chiến dịch mới, trong đó đáng chú ý là
chiến dịch “ Treo cờ quốc gia, bài trừ Cộng sản”, “Hùng Vương dựng nước,
Cộng sản bán nước” và “ Mùa xuân khởi nghĩa”…đồng thời phối hợp với các
ngành chức năng(Bưu chính-viễn thông; Văn hoá- thông tin)thu huỷ hàng vạn
11
các văn hoá phẩm độc hại khác từ ngoài vào. Phát hiện và thu giữ phương tiện
chèn sóng Đài Tiếng nói Việt Nam của Tổ chức phản động nước ngoại, đồng
thời tổ chức phá sóng của một số đài phản động. Phối hợp với Bộ Văn hoá –
Thông tin xây dựng quy chế quản lý dịch vụ Internet…
Đã tổ chức cung cấp tài liệu, thông tin cho các cơ quan chức năng phục
vụ các hoạt đông giao lưu văn hoá với các nước. Bộ Công an đã tổ chức cung
cấp cho các đoàn văn hoá của nước ta ra nước ngoài hợp tác biểu diễn những
thông tin cần thiết về mặt an ninh của nước sở tại và phối hợp với cơ quan
chủ quản cùng quản lý chương trình hoạt động của đoàn. Đồng thời, tổ chức
công tác nắm tình hình từ xa để hiểu thực chất mục đích hoạt động của các
đoàn văn hoá- thông tin nước ngoài vào Việt Nam, cung cấp cho cơ quan chủ
quản và đề xuất cách thức tổ chức giao lưu, trao đổi thông tin…nhằm phát
huy hiệu quả thông tin đối ngoại, hạn chế những sơ hở, thiếu sót mà các thế
lực có thể lợi dụng, chống phá ta.
Phối hợp với các ban, ngành chức năng tiến hành nhiều biện pháp theo

quy định của pháp luật nhằm hạn chế tối đa sự rò rỉ thông tin bí mật nhà nước
ra nước ngoài, nhất là những tin tức, tài liệu liên quan đến tình hình an ninh
chính trị trong nước, do một số đối tượng cơ hội chính trị chuyền tải ra ngoài
bất hợp pháp.
Thường xuyên đánh giá âm mưu, phương thức, thủ đoạn hoạt động của
các thế lực thù địch ở nước ngoài lợi dụng các phương tiện truyền thông đại
chúng, tuyên truyền chống phá nhà nước ta, gieo rắc hoài nghi đối với Việt
Nam trên trường quốc tế. Các cơ quan chức năng phối hợp với Bộ Ngoại giao
Việt Nam cung cấp những thông tin có liên quan đến công tác nghiệp vụ, theo
yêu cầu của phóng viên báo chí nước ngoài. Đã tổ chức cho một số phóng
viên nước ngoài xuống một số địa phương, một số trại giam, trại cải tạo nắm
tình hình để họ phản ánh khách quan về vấn đề dân chủ, nhân quyền ở Việt
Nam; tham gia các cuộc đối thoại về nhân quyền và xây dựng cẩm nang nhân
quyền , tổ chức họp báo về đặc xá để tuyên truyền chính sách nhân đạo của
Đảng, nhà nước ta với bên ngoài.
12
Thông tin đối ngoại được thực hiện qua hoạt động đối ngoại của Bộ
Công an. Các hoạt đông thông tin, tuyên truyền đối ngoại của Bộ Công an
ngày một đa dạng hơn, ngoài việc tiếp xúc, trao đổi trực tiếp với các đoàn,
chúng ta còn bố trí bạn đi thăm quan thực tế hoặc thông qua các hoạt động
giao lưu về văn hoá, thể dục thể thao để giới thiệu, tuyên truyền về Việt Nam
và các hoạt động của bộ Công an nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
3. Cơ quan truyền thông
3.1. Các loại hình truyền thông đại chúng
• Sách
־Là loại phương tiện truyền thông đại chúng không định kì, được chế tác-
in ấn và nhằm chuyển tải tri thức của con người trong mọi thời kì lịch sử.
• Báo viết
־Là loại hình mang tính chuyển tải thông tin mang tính thời sự- ấn

phẩm định lỳ và được phát hành rộng rãi trong cả nước( hiện nay có khoảng
40 tạp chí, báo đối ngoại trong tổng số 813 ấn phẩm báo chí cả nước)
• Báo phát thanh
־Là loại hình truyền tải thông tin qua âm thanh. Âm thanh trong phát
thanh gồm lời nói, âm nhạc, các loại tiếng động làm nền hoặc minh hoạ cho
lời nói. Báo nói gồm 2 loại: phát thanh qua làn sóng vô tuyến điện và
truyền thanh qua hệ thống dây dẫn.
• Truyền hình
־ Là loại hình truyền tải thông tin qua âm thanh và hình ảnh hoạt động
sử dụng tổng hợp các loại thông tin có trong báo viết, báo nói hoặc phim ảnh
• Báo điện tử
־Là loại hình chuyển tải thông tin qua mạng internet toàn cầu
־Có thể kết hợp trong mình được tất cả các loại hình thông tin khác: báo
viết, báo hình, báo tiếng- qua mạng internet có thể vừa đọc báo, xem truyền
hình và nghe radio.
• Điện ảnh
13
־ Là loại hình chuyển tải thông tin bằng hình ảnh và âm thanh có thể ghi
lại trên phim nhựa, băng từ, đĩa CD và các thiết bị lưu giữ thông tin khác
dùng để chiếu lên màn ảnh hoặc màn hình đem lại ảo giác giống như cuộc đời
thực cho người xem.
• Khẩu hiệu, biểu ngữ, tranh cổ động chính trị
־ Là loại hình sử dụng tổng hợp ngôn ngữ, hình ảnh, âm thanh, không
gian, thời gian để chuyển tải thông tin đến công chúng.
→ Mỗi loại hình truyền thông đại chúng có những đặc trưng, thế mạnh
riêng, cùng phối hợp và hỗ trợ nhau để đáp ứng nhu cầu thông tin của cộng
đồng xã hội. Thông tin đối ngoại phải huy động sức mạnh của tất cả các loại
hình truyền thông trong hoạt động của mình để mở rộng phạm vi và nâng cao
hiệu quả tác động.
3.2. Vai trò của truyền thông đại chúng trong xã hội và trong công tác

thông tin đối ngoại.
Theo Thứ trưởng Đỗ Quý Doãn, các phương tiện truyền thông đại chúng
luôn được đánh giá là lực lượng quan trọng trong công tác thông tin đối ngoại
nhằm tuyên truyền chính sách, xây dựng hình ảnh đất nước và đấu tranh phản
bác các luận điệu sai trái. Việc đưa thông tin ra nước ngoài bằng báo chí là
phương thức thuận lợi nhất, đặc biệt với các hình thức truyền dẫn không biên
giới như internet, phát thanh- truyền hình. Đồng thời, Thứ trưởng cũng nhấn
mạnh đây là lực lượng rất mạnh mà bất cứ quốc gia nào cũng phải sử dụng,
nếu không ý thức, không nắm bắt được nhu cầu và lợi thế của phương thức
này thì đôi khi đứng về mặt dư luận là thua. Dùng phương tiện thông tin đại
chúng để làm nhiệm vụ thông tin đối ngoại là một trong những vũ khí cực kì
lợi hại của các quốc gia.
Truyền thông nói chung và truyền thông đại chúng nói riêng luôn hướng
tới việc làm thay đổi nhận thức, thái độ và hành vi của con người, cá nhân hay
nhóm xã hội, hoặc cả xã hội.
14
Có thể khái quát vai trò chủ yếu của truyền thông đại chúng trong xã hội
nói chung và trong công tác thông tin đối ngoại nói riêng trên một số luận
điểm sau:
● Thứ nhất, truyền thông đại chúng đưa lạ cho con người, mỗi cá nhân
và cộng động những nhận thức mới hơn và đa chiều hơn về thế giới tự nhiên,
về xã hội và tư duy.
● Thứ hai, từ sự thay đổi về nhận thức mà ý thức, hành vi của cá nhân
hoặc cộng đồng người tiếp nhận thông tin cũng có sự thay đổi theo(có thể
thay đổi theo chiều hướng tích cực hoặc tiêu cực)
● Thứ ba, truyền thông đại chúng thúc đẩy và làm tăng lên quá trình
toàn cầu hóa
● Thứ tư, truyền thông đại chúng trong thời đại công nghệ thông tin góp
phần đẩy mạnh cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, không chỉ nhờ vào
quá trình truyền bá công nghệ mà còn phổ biến khoa học và công nghệ cho

mỗi quốc gia và nhờ chính vào việc sử dụng những thành quả của cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ.
● Thứ năm, riêng trong đời sống xã hội, truyền thông đại chúng tham
gia ngày một thiết thực và có hiệu quả vào việc giải quyết những vấn đề xã
hội( xoá đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, phòng chống tệ nạn xã hội…)
● Thứ sáu, truyền thông đại chúng tham gia ngày một sâu và có hiệu quả
vào đời sống chính trị của xã hội, gây áp lực đối với cơ quan quyền lực phải
điều chỉnh chính sách và hành vi chính trị của nhà nước và các chính sách cho
phù hợp với tiến trình phát triển của xã hội và quá trình dân chủ hóa xã hội.
● Thứ bảy, trong công tác đối ngoại, truyền thông đại chúng có vai trò
to lớn trong việc quảng bá hình ảnh đất nước với thế giới và đem thế giới về
cho đất nước.
● Thứ tám, đối với nước ta, truyền thông đại chúng còn có vai trò đặc
biệt trong cuộc đấu tranh chống chiến lược“diễn biến hoà bình”của các thế
lực thù địch nhằm xuyên tạc, phủ nhận Đảng cộng sản và chủ nghĩa xã hội.
15
3.3. Tình hình hoạt động truyền thông đại chúng trong công tác thông tin
đối ngoại của Việt Nam trong thời kì hiện nay.
Mỗi cơ quan truyền thông đại chúng đều có những hoạt động cụ thể
nhằm góp phần đẩy mạnh công tác thông tin đối ngoại. Song nhìn chung ta có
thể khái quát một số hoạt động chính của cơ quan truyền thông như sau:
● Thực hiện tốt những nội dung chính là làm rõ những nhận định của
Đảng về đặc điểm, những dự báo về các xu thế chủ yếu của thế giới đương
đại; tổ chức thông tin, tuyên truyền đường lối chính sách và hoạt động đối
ngoại của Đảng và nhà nước một cách nghiêm túc, kịp thời và có hệ thống,
góp phần làm rõ quá trình Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực.
● Truyền thông đại chúng là công cụ đắc lực quảng bá hình ảnh Việt
Nam ra với thế giới, thu hút sự quan tâm, giúp đỡ, khai thác các nguồn lực từ
bên ngoài phục vụ công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
● Bên cạnh việc khai thác, chọn lọc và biên tập tin tức từ các bản tin

thời sự trong nước, các biên tập viên của các bản tin tiếng nước ngoài cũng nỗ
lực tự sản xuất các phóng sự nhằm đáp ứng nhu cầu và tính chất của bản tin
nước ngoài.
● Ngoài việc biên tập tin, bài, báo còn tổ chức nhiều cuộc đối thoại trực
tuyến giữa các đồng chí lãnh đạo Đảng, nhà nước với bạn đọc, thường xuyên
trao đổi với nhân dân tìm hiểu về Đảng Cộng sản Việt Nam, tổ chức tuyên
truyền về Đảng, và tổ chức các cuộc vận động quần chúng nhân dân tích cực
tham gia vào công tác thông tin đối ngoại.
16
CHƯƠNG 3: NHỮNG THÀNH TỰU CƠ BẢN, MỤC TIÊU VÀ CHIẾN
LƯỢC PHÁT TRIỂN TRONG CÔNG TÁC THÔNG TIN ĐỐI NGOẠI
CỦA VIỆT NAM
1. Những thành tựu cơ bản
Những năm gần đây, nắm chắc đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà
nước, các cơ quan làm công tác thông tin đối ngoại của ta đã có những bước
chuyển tích cực như theo dõi sát tình hình trong nước, quốc tế, thực hiện nhất
quán phương châm chính xác, kịp thời, linh hoạt, phù hợp với từng đối tượng.
Chúng ta đã tuyên truyền rộng rãi ra ngoài các chủ trương, đường lối đổi mới
của Đảng, chính sách của Nhà nước về đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, hội nhập quốc tế; giới thiệu thành tựu đổi mới của đất nước; quảng bá
hình ảnh đất nước, văn hóa, con người, tiềm năng phát triển và hợp tác của
Việt Nam với cộng đồng quốc tế.
Những sự kiện, vấn đề quan trọng của đất nước được tuyên truyền kịp
thời đến đông đảo nhân dân trong nước và cộng đồng quốc tế như việc Việt
Nam được bầu và hoàn thành xuất sắc vai trò ủy viên không thường trực Hội
đồng bảo an Liên Hợp Quốc nhiệm kỳ 2008-2009. Giới thiệu rộng rãi việc
Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO); kỷ niệm 30 năm
ký Hiệp ước Hữu nghị và hợp tác Việt Nam - Lào; hoàn thành việc phân giới,
cắm mốc biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và Trung Quốc; kỷ niệm 60
năm thiết lập quan hệ Việt Nam - Trung Quốc; Việt Nam - Liên bang Nga,

các nước thuộc Liên Xô và Đông Âu; hoàn thành nhiệm vụ là Chủ tịch
ASEAN, tổ chức thành công Hội nghị cấp cao 17 của ASEAN…v.v.
Những thành tựu mà Việt Nam đạt được trong công tác thông đối ngoại
đóng một vai trò vô cùng quan trọng và ý nghĩa làm cho thế lực của nước ta
lớn mạnh hơn nhiều. Nước ta chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế,
gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) là cơ hội để đổi mới và phát
triển nhanh hơn, có hiệu quả hơn. Đồng thời, việc chỉ đạo công tác thông tin
đối ngoại đã được tăng cường một bước đáng kể, hoạt động đối ngoại được
đẩy mạnh với nội dung ngày càng phong phú, sinh động, phù hợp với từng
17
nhóm đối tượng. Cuộc đấu tranh chống các luận điểm sai trái của các thế lực
thù địch đã được tiến hành chủ động, bài bản hơn. Công tác tuyền truyền về
biển đảo được tiến hành thường xuyên hơn với sự tham gia của nhiều Ban,
Bộ, Ngành, địa phương. Lực lượng tham gia tuyên truyền được mở rộng hơn
trước và đến được nhiều đối tượng. Công tác tuyên truyền phân giới cắm mốc
được tiến hành chủ động, tích cực hơn, môi trường hoà bình tiếp tục được giữ
vững…Nhìn chung, công tác thông tin đối ngoại đã giới thiệu được hình ảnh
đất nước Việt Nam đổi mới, năng động, là điểm đến an toàn và tin cậy của
đầu tư, du lịch nước ngoại, góp phần nâng cao vị thế, vai trò của Việt Nam
trên thế giới. Ta có thể khái quát một số thành tựu nổi bật trong những lĩnh
vực cơ bản dưới đây:
Về các mối quan hệ ngoại giao
Đến nay, Đảng ta có quan hệ ở các mức độ khác nhau với 222 chính
đảng ở 115 nước trên thế giới. Nhìn nhận theo hai góc độ khác nhau: tính chất
Đảng và vị thế trên chính trường các nước, có thể thấy thành phần các Đảng
mà Đảng ta có quan hệ cũng hết sức đa dạng và phong phú.
Nhìn từ góc độ tính chất các đảng, trong 222 chính đảng mà Đảng ta có
quan hệ, có: 93 Đảng Cộng sản và công nhân, 83 Đảng cánh tả, phong trào
độc lập dân tộc, cách mạng, tiến bộ; 27 Đảng xã hội, xã hội dân chủ; 19 Đảng
tư sản, bảo hoàng.

Nhìn từ góc độ vị thế trên chính trương các nước, trong 222 chính đảng
mà Đảng ta có quan hệ, hiện có: 40 Đảng cầm quyền, 44 Đảng tham chính
hoặc tham gia liên minh cầm quyền; 138 Đảng đối lập.
Tính đến thời điểm tháng 10 năm 2007, Việt Nam đã thiết lập quan hệ
ngoại giao với 174 nước; có quan hệ kinh tế, thương mại và đầu tư với trên
200 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Việt Nam hiện là thành viên của 63
tổ chức quốc tế và khu vực.
Về kinh tế
Trong giai đoạn 1993- 2004, Việt Nam đã nhận được cam kết tài trợ hơn
20 tỷ USD từ cộng đồng quốc tế, trong đó 85℅ là vốn vay ưu đãi, còn lại là
18
viện trợ không hoàn lại. Cam kết tài trợ vốn ODA cho Việt Nam trong 3 năm
2005-2007 đều tăng mạnh: năm 2005 là 3,4 tỷ USD; năm 2006 là 3,74 tỷ
USD, năm 2007 là 4,45 tỷ USD.
Với sự ổn định về chính trị- xã hội, truyền thống văn hoá, sự phát triển
năng động và chính sách đối ngoại rộng mở, môi trường đầu tư thông thoáng,
Việt Nam ngày càng trở thành một điểm đến an toàn và hấp dẫn cho hợp tác
và đầu tư quốc tế. Tính đến cuối năm 2006, đã có 8.266 dự án đầu tư nước
ngoài từ 64 nước và vùng lãnh thổ được cấp giấy phép hoạt động tại Việt
Nam với tổng vốn đầu tư đăng ký gần 78,25 tỷ USD, trong đó số vốn thực
hiện đạt gần 37,3 tỷ USD. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã trở
thành một bộ phận quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam.
Theo thông tin mới nhận, trong hoàn cảnh cuộc khủng hoảng kinh tế lan
rộng, việc thu hút đầu tư nước ngoài của nước ta vẫn đạt 21,48 tỷ USD vốn
thực hiện. Năm 2009 có 43 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt
Nam. Cam kết ODA cho Việt Nam đạt 8,063 tỷ USD tăng 3 tỷ USD so với
năm 2008 và là mức cao nhất từ trước tới nay.
Về công tác truyền thông
Thành tựu thông tin đối ngoại thời gian qua đã tuyên truyền về các
chuyến thăm của lãnh đạo cao cấp của Việt Nam và nước ngoài tạo dư luận

thuận lợi, giúp hiểu rõ hơn về Việt Nam. Các cơ quan thông tấn báo chí đã có
những hình thức đổi mới phương thức đưa tin, nâng cao hiệu quả đưa tin về
các hoạt động ngoại giao góp phần nâng cao hiệu quả thông tin đối ngoại. Các
hoạt động ngoại giao chính trị, ngoại giao kinh tế, ngoại giao văn hoá tạo
thành chính sách ngoại giao toàn diện của Việt Nam được tiến hành theo đúng
kế hoạch nhưng linh hoạt, chủ động. Các hoạt động văn hoá, biểu diễn nghệ
thuật, triển lãm tranh, sách, giao lưu âm nhạc, nghệ thuật với các nước trong
khu vực và quốc tế tổ chức tại nhiều nước trên thế giới đã được thông tin,
tuyên truyền quảng bá rộng rãi trên truyền hình, báo viết, báo nói, báo mạng
Việt Nam bằng nhiều thứ tiếng khác nhau.
19
Công tác tuyên truyền về người Việt Nam ở nước ngoài được triển khai
sâu rộng và toàn diện trên tất cả các mặt và cũng đã đạt được nhiều kết quả
quan trọng. Đài truyền hình Việt Nam đã đưa kênh VTV4 vào hệ thống
truyền hình cáp tại một số địa bàn có đông người Việt Nam ở nước ngoài sinh
sống. Các cơ quan báo chí đã chú trọng hơn đến nâng cao chất lượng ấn phẩm
tuyên truyền phục vụ nhu cầu của các cơ quan Việt Nam ở nước ngoài, Việt
kiều và bạn bè quốc tế.
Các cơ quan làm công tác thông tin đối ngoại đã đấu tranh, phản bác
quan điểm, luận điệu sai trái của các phần tử cơ hội, các thế lực thù địch với
Việt Nam; đấu tranh vạch mặt các phần tử chống phá đất nước, có nhiều cố
gắng hoàn thành tốt việc tuyên truyền công tác tôn giáo của Đảng, thông tin
về các vấn đề liên quan đến dân chủ, nhân quyền, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ,
biển đảo… Thông tin đối ngoại đã góp phần xứng đáng vào thắng lợi chung
của công tác đối ngoại.
Về vấn đề biển đảo; phân giới, cắm mốc
Công tác tuyên truyền về biển, đảo được tiến hành thường xuyên, với sự
tham gia của nhiều ban, bộ, ngành, địa phương, lực lượng tham gia tuyên
truyền được mở rộng hơn trước và đến được nhiều đối tượng; công tác tuyên
truyền, phân giới, cắm mốc được tiến hành chủ động, tích cực hơn, có hệ

thống theo đúng Đề án tuyên truyền, theo đó đã thông tin đến cán bộ, nhân
dân, nhiều cơ quan báo chí nước ngoài về những kết quả chính, ý nghĩa lịch
sử việc Việt Nam và Trung Quốc kết thúc phân giới, cắm mốc biên giới trên
đất liền, ký Nghị định thư về cắm mốc biên giới, Hiệp định Quy chế quản lý
biên giới Việt- Trung, Hiệp định về cửa khẩu và quản lý cửa khẩu trên đất
liền Việt Nam - Trung Quốc; cùng với tuyên truyền kết quả phân giới cắm
mốc Việt Nam- Trung Quốc đã đẩy mạnh tuyên truyền quan hệ hữu nghị Việt
Trung theo phương châm 16 chữ "Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn
định lâu dài, hướng tới tương lai" và tinh thần bốn tốt "Láng giềng tốt, bạn bè
tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt"
20
2. Mục tiêu và chiến lược phát triển trong công tác thông tin đối
ngoại của Việt Nam
Ngày nay, đất nước sau hơn 20 năm đổi mới đã giành được những thành
tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, thế và lực, uy tín quốc tế được nâng lên, Đảng
ta bước vào một giai đoạn phát triển mới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hoá, hội nhập quốc tế và những thuận lợi, thời cơ và cả những khó khăn,
thách thức gay gắt. Trên thế giới, quá trình toàn cầu hoá và cách mạng khoa
học- công nghệ diễn ra rất mạnh mẽ, tác động đến mọi mặt đời sống. Hoà
bình hợp tác vẫn là xu thế lớn nhưng cạnh tranh cục bộ, xung đột vũ trang,
xung đột dân tộc, tôn giáo, hoạt động can thiệp lật đổ, khủng bố vẫn diễn ra ở
nhiều nơi với tính chất ngày càng phức tạp, các thế lực thù địch vẫn tăng
cường chống phá Đảng, nhà nước, sự nghiệp đổi mới của nhân dân ta. Để đáp
ứng được yêu cầu của đất nước trong thời kì đổi mới, công tác thông tin đối
ngoại cần phải được đổi mới và tăng cường mạnh mẽ trên mọi lĩnh vực.
Quán triệt tinh thần đó, Nghị quyết Đại hội X của Đảng chỉ rõ: “ Đẩy
mạnh công tác văn hoá- thông tin đối ngoại, góp phần tăng cường sự hợp tác,
tình hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các nước…Phối hợp chặt chẽ
hoạt đông đối ngoại Đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân; chính
trị đối ngoại và kinh tế đối ngoại; đối ngoại, quốc phòng và an ninh; thông tin

đối ngoại và thông tin trong nước”.
Mục tiêu của hoạt động thông tin đối ngoại là góp phần vào thực hiện
thắng lợi đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển.
Thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các
quan hệ quốc tế. Giữ vững môi trường hoà bình, tạo điều kiện quốc tế thuận
lợi cho công cuộc đổi mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế- xã hội, công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần
tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới.
Nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát
triển; Đảng ta chủ trương thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương
hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế trên các lĩnh vực với tinh thần Việt Nam
21
là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vè
hoà bình, độc lập và phát triển.
Phương hướng, nhiệm vụ thông tin đối ngoại hiện nay là tuyên truyền
chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật, chính sách của nhà nước; thành
tựu đổi mới của đất nước; quảng bá hình ảnh đất nước Việt Nam ổn định, an
toàn, con người Việt Nam cần cù, thân thiện, mếm khách, là điểm đến du lịch,
đầu tư hấp dẫn đối với bạn bè quốc tế. Tuyên truyền tranh thủ nhiều hơn nữa
sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế và người Việt Nam sống ở nước ngoài đối
với sự nghiệp đổi mới của đất nước, tạo điều kiện thuận lợi cho việc duy trì
ổn định chính trị -xã hội, phát triển kinh tế.
Kiện toàn bộ máy chỉ đạo công tác thông tin đối ngoại; đặc biệt chú
trọng việc tăng cường sự gắn kết giữa các cơ quan chức năng trong các hoạt
động thu thập thông tin, nghiên cứu phân tích, tổng hợp tình hình thế giới; dự
báo tình hình quốc tế, kịp thời đề xuất những đối sách của Đảng ta.
Tạo bước chuyển biến cơ bản trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
làm công tác thông tin đối ngoại, nâng cao năng lực chuyên môn, bản lĩnh
chính trị và trình độ tác nghiệp của cán bộ thông tin đối ngoại để đáp ứng tốt
những yêu cầu mới đặt ra.

Tích cực triển khai có hiệu quả các “ Đề án tuyên truyền nâng cao nhận
thức về vị trí, vai trò, tầm quan trọng và các định hướng của biển đảo Việt
Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc giai đoạn 2007-2010”. Đẩy
mạnh tuyên truyền kết quả công tác phân giới cắm mốc trên đất liền Việt
Nam- Trung Quốc, Nghị định thư về cửa khẩu và quản lý cửa khẩu trên biên
giới đất liền Việt Nam- Trung Quốc;tuyên truyền “Năm hữu nghị Việt-
Trung”. Tuyên truyền những hoạt động phân giới, cắm mốc với Campuchian
và tăng dày, tôn tạo hệ thống mốc giới với Lào.
Bổ sung nguồn lực, tăng cường tổ chức, bổ sung, nghiên cứu ban hành
các văn bản pháp luật liên quan đến thông tin đối ngoai, đổi mới phương
pháp, cách thức tuyên truyền. Coi trọng công tác tuyên truyền miệng và áp
dụng công nghệ thông tin hiện đại, tận dụng ưu thế của Internet, truyền hình
22
kỹ thuật cao vào các hoạt động thông tin đối ngoại. Đồng thời đổi mới, nâng
cao chất lượng chương trình tuyên truyền đối ngoại trên kênh VTV4 của Đài
Truyền hình Việt Nam; cải tiến, nâng cấp Tạp chí Thông tin đối ngoại và xuất
bản một số ấn phẩm Song ngữ; tăng cường và nâng cao chất lượng các hoạt
động văn hoá đối ngoại; tăng cường đầu tư ngân sách và cơ sở vật chất, nguồn
lực, cán bộ chuyên trách và bán chuyên trách công tác thông tin đối ngoại;
liên tục đổi mới nội dung thông tin đối ngoại cho phù hợp với tình hình mới,
không ngừng đổi mới phương thức thông tin đối ngoại cho phù hợp với sự
phát triển của công nghệ thông tin.
Quan tâm tranh thủ vai trò quan trọng của cơ quan báo chí, truyền thông
nước ngoài, nhất là tờ báo, tạp chí, phát thanh-truyền hình nước ngoài có uy
tín quốc tế về giới thiệu quảng bá tình hình đất nước, văn hoá, con người Việt
Nam, tiềm năng hợp tác phát triển của đất nước.
Tăng cường đấu tranh phản bác các thông tin, quan điểm sai trái, phản
động của các phần tử cơ hội, các thế lực thù địch với Việt Nam đồng thời
nâng cao tính chiến đấu, tính thuyết phục của các bài viết, ấn phẩm văn hoá,
các sản phẩm thông tin đối ngoại. Tăng cường công tác dự báo tình hình,chủ

động đề ra những định hướng chỉ đạo thông tin chính xác và kịp thời, đấu
tranh có hiệu quả với những thông tin sai sự thật, xuyên tạc, giúp cộng đồng
người nước ngoài và cộng động người Việt Nam ở nước ngoài hiểu rõ hơn về
đường lối, chính sách đúng đắn nhất quán của Đảng, chính sách, pháp luật
nhà nươcs về những vấn đề nói trên, góp phần làm thất bại âm mưu “ diễn
biến hoà bình”, bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ của Tổ quốc.
Quán triệt các văn bản khác của Đảng và nhà nước; tiếp tục nâng cao
nhận thức của cấp uỷ, chính quyền các cấp, các tầng lớp nhân dân, doanh
nghiệp về vai trò quan trọng và sự cần thiết phải nhanh chóng nâng cao hiệu
quả của công tác tuyên truyền, thông tin đối ngoại. Khẩn trương sửa đổi, bổ
sung, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến hoạt động
thông tin đối ngoại như Luật báo chí sửa đổi, Luật tiếp cận thông tin, Nghị
định xử phạt hành chính trong lĩnh vực báo chí xuất bản…
23
Tập trung hoàn thành và triển khai các đề án, kế hoạch, chương trình
thông tin đối ngoại liên quan đến các ngày kỷ niệm lớn, các sự kiện quan
trọng của đất nứơc. Tăng cường gắn kết giữa thông tin đối nội và đối ngoại,
đảm bảo sự thống nhất thông tin, hỗ trợ tác động lẫn nhau, làm cho cộng động
quốc tế hiểu đúng và kịp thời về Việt Nam, giữ thế chủ động trong giao lưu,
hợp tác nước ngoài.
Tăng cường đầu tư ngân sách và cơ sở vật chất- kỹ thuật, nguồn lực cán
bộ chuyên trách và bán chuyên trách công tác thông tin đối ngoại. Đẩy mạnh
xã hội hoá một số hoạt động thông tin đối ngoại.
24
KẾT LUẬN
Trong thời đại công nghiệp hoá, hiện đại hoá; sự dân chủ hoá xã hội
ngày càng được mở rộng; hội nhập quốc tế diễn ra mạnh mẽ vai trò quan
trọng của công tác thông tin đối ngoại càng được khẳng định. Công tác tuyên
truyền thông tin đối ngoại góp phần thiết thực vào thành tựu chung của đất
nước, tiếp tục làm cho nhân dân thế giới hiểu rõ hơn về đường lối chính sách

của Đảng, nhà nước Việt Nam. Đồng thời hoạt động thông tin đối ngoại đã
góp phần tích cực trong việc phản bác các quan điểm sai trái, xuyên tạc bịa
đặt với dụng ý xấu, đặc biệt là với những nội dung liên quan đến vấn đề nhạy
cảm như chủ quyền của Việt Nam với biên giới trên bộ, trên biểm, vấn đề
tranh chấp đất đai, vấn đề đấu tranh chống tham nhũng, tự do báo chí, dân
chủ, nhân quyền, vấn đề tôn giáo dân tộc…
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, công tác thông tin đối ngoại của
nước ta vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế như thông tin vẫn chưa chủ động và
chưa kịp thời, nhạy bén, chưa thật phù hợp với từng đối tượng và địa bàn
khác nhau, tính hấp dẫn và thuyết phục chưa cao, năng lực phản bác thông tin
sai trái còn nhiều hạn chế, chậm ứng dụng các thành tựu công nghệ hiện đại
vào hoạt động thông tin đối ngoại; công tác chỉ đạo, phối hợp hoạt động của
các đơn vị làm công tác thông tin đối ngoại còn chưa chặt chẽ.
Trong thời đại ngày nay, để đáp ứng yêu cầu của đất nước trong tình
hình mới, công tác thông tin đối ngoại cần phải được nhanh chóng khắc phục
những hạn chế đồng thời tiếp tục đổi mới và tăng cường mạnh mẽ trên mọi
lĩnh vực.
25

×