Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng quản trị rủi ro tín dụng.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (379.96 KB, 75 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Xu hướng tự do hóa trong lĩnh vực tài chính đã tạo ra cơ hội cho các nhà
ngân hàng thương mại mở rộng hoạt động về mặt địa lý, giúp cho các nhân hàng
hạn chế được những tổn thương do những thay đổi điều kiện kinh tế trong nước.
Tuy nhiên, cạnh tranh giữa các tổ chức tài chính trên phạm vi toàn cầu cũng tạo
ra một thị trường tài chính rủi ro hơn. Trong bối cảnh đó, không một ngân hàng
hay một tổ chức tài chính nào có thể tồn tại lâu dài mà không có hệ thống quản
lý rủi ro hữu hiệu. Việc xây dựng một hệ thống quản lý rủi ro nói chung và quản
lý rủi ro tín dụng nói riêng có vai trò sống còn đối với hoạt động ngân hàng. Chủ
tịch tập đoàn tài chính Citicorp Walter Wriston đã nói lên vai trò quan trọng của
hoạt động quản lý rủi ro như sau: “toàn bộ cuộc sống trong hoạt động ngân hàng
là quản lý rủi ro”.
Xuất phát từ nhận thức trên, nhận thấy được tầm quan trọng của vấn đề
cùng với việc nghiên cứu tình hình quản trị rủi ro tín dụng thực tế tại NHTMCP
Sài Gòn, em xin chọn đề tài “ Nâng cao chất lượng quản trị rủi ro tín dụng”
cho luận văn tốt nghiệp của mình.
Luận văn tốt nghiệp nghiệp có kết cấu làm 3 chương:
Chương I: Quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng.
Chương II: Thực trạng quản trị rủi ro tín dụng tại NHTMCP Sài Gòn.
Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng
quản trị rủi ro tín dụng.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy giáo hướng dẫn và
ban lãnh đạo NHTMCP Sài Gòn đã tạo điều kiện giúp đỡ em hoàn thành đề tài
này.

CHƯƠNG 1
QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. RỦI RO TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1. Rủi ro
1.1.1.1. Khái niệm rủi ro
Trong cuộc sống hàng ngày, trong lao động sản xuất kinh doanh có những


sự cố bất ngờ, ngẫu nhiên xảy ra không thể báo trước được, những tình huống
bất ngờ như vậy gọi là rủi ro. Khi nói đến rủi ro người ta thường nghĩ đến điều
không tốt lành hoặc một thiệt hại, tổn thất nào đó về vật chất hữu hình hoặc vô
hình bất ngờ mang đến do những nguyên nhân khách quan hoặc chủ quan gây
nên.
Như vậy: Rủi ro là sự việc xảy ra ngoài ý muốn chủ quan của con người,
đem lại những hậu quả mà người ta không thể dự đoán được.
Tuy khó tìm được một định nghĩa rủi ro hoàn hảo song có thể biết được
rằng rủi ro thường có hai đặc tính sau:
-Thứ nhất là biên độ rủi ro: là sự thiệt hại từ rủi ro gây ra ở mức nào.
-Thứ hai là tần số xuất hiện của rui ro là nhiều hay ít.
Là một doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, ngân hàng thương mại cũng gánh chịu
các rủi ro do các tác động của môi trường vi mô và vĩ mô gây nên như các
doanh nghiệp khác.
1.1.1.2. Rủi ro trong hoạt động ngân hàng
*Khái niệm rủi ro ngân hàng: Rủi ro ngân hàng là những biến cố không
mong đợi xảy ra, gây mất mát thiệt hại tài sản, thu nhập của ngân hàng trong quá
trình hoạt động.
*Phân loại rủi ro ngân hàng:
Phân chia rủi ro theo các loại tài sản có:
- Rủi ro trong quản lí và kinh doanh ngân quỹ.
- Rủi ro tín dụng.
2
- Rủi ro trong quản lí và kinh doanh chứng khoán.
- Rủi ro trong cho thuê.
- Rủi ro đối với các tài sản khác của ngân hàng.
Phân chia rủi ro theo nguyên nhân và các yếu tố tác động có:
- Rủi ro tín dụng.
- Rủi ro lãi suất.
- Rủ ro hối đoái.

- Rủi ro do thanh khoản.
- Rủi ro tồn đọng vốn.
- Các loại rủi ro khác.
1.1.2. Rủi ro tín dụng
1.1.2.1. Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại
Hoạt động tín dụng (hay hoạt động cho vay) là hoạt động chính tạo ta phần
lớn lợi nhuận cho ngân hàng. Theo khoản 8 điều 20 Luật các TCTD thì hoạt
động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy
động để cấp tín dụng. Cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thỏa thuận để khách
hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho
vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác
(theo khoản 10 điều 20 Luật các TCTD).
Hoạt động cho vay có thể phân chia làm nhiều loại khác nhau theo tính chất
và đối tượng của hoạt động tín dụng. Tuy nhiên, hoạt động cho vay phải đảm
bảo một số điều kiện cơ bản. Ba điều kiện cơ bản của một hợp đồng cho vay là:
* Thời hạn, lãi suất và hạn mức hoàn trả hay thời gian đáo hạn của hợp
đồng.
* Vốn vay phải đảm bảo sử dụng đúng mục đích.
* Về nguyên tắc, vốn vay phải được đảm bảo bằng tài sản tương đương.
Hoạt động tín dụng có thể được phân loại theo nhiều tiêu chí, trong đó có
một số tiêu chí chủ yếu sau:
* Phân loại tín dụng dựa theo tiêu chí thời gian:
- Cho vay ngắn hạn: Từ 12 tháng trở xuống tài trợ cho tài sản lưu động.
3
- Cho vay trung hạn: Từ trên 1 năm đến 5 năm tài trợ cho các tài sản cố định
như phương tiện vận tải, một số cây trồng vật nuôi, trang thiết bị chóng hao
mòn.
- Tín dụng dài hạn: Trên 5 năm tài trợ cho công trình xây dựng như nhà,
cầu, sân bay, đường,máy móc thiết bị có giá trị lớn, thường có thời gian sử dụng
lâu.

* Phân loại tín dụng dựa trên hình thức tài trợ:
- Cho vay: Là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách
hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định. Đây là tài sản
lớn nhất trong khoản mục tín dụng.
- Chiết khấu thương phiếu: Là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách
hàng tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân hàng
để sở hữu một thương phiếu chưa đến hạn (hoặc một giấy nợ).
- Cho thuê: là việc ngân hàng bỏ tiền ra mua tài sản để cho khách hàng thuê
theo những thỏa thuận nhất định. Sau thời gian nhất định khách hàng phải trả cả
gốc và lãi cho ngân hàng.
- Bảo lãnh: Là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính hộ
khách hàng của mình.
* Phân loại tín dụng dựa trên tài sản đảm bảo:
- Tín dụng không cần tài sản đảm bảo: là hình thức cấp tín dụng không dựa
trên cam kết yêu cầu ngân hàng và khách hàng phải kí hợp đồng bảo đảm.
- Tín dụng có tài sản đảm bảo: Là hình thức cấp tín dụng dựa trên cam kết
đảm bảo yêu cầu ngân hàng và khách hàng pahỉ kí hợp đồng bảo đảm.
* Phân loại tín dụng dựa trên rủi ro:
- Tín dụng lành mạnh: Các khoản tín dụng có khả năng thu hồi cao.
- Tín dụng có vấn đề: Các khoản tín dụng có dấu hiệu không lành mạnh như
khách hàng chậm tiêu thụ, tiến độ thực hiện kế hoạch bị chậm…
- Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: Các khoản nợ đã quá hạn với thời gian ngắn
và khách hàng có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản đảm bảo có giá trị lớn…
- Nợ khó đòi: Nợ quá hạn quá lâu, khả năng trả nợ rất kém, tài sản thế chấp
4
quá nhỏ hoặc bị giảm giá…
* Phân loại khác:
- Theo ngành kinh tế ( công, nông nghiệp…)
- Theo đối tượng tín dụng ( tài sản lưu động, tài sản cố định)
- Theo mục đích ( sản xuất, tiêu dùng…)

1.1.2.2. Khái niệm rủi ro tín dụng
A.Saunders và H.Lange định nghĩa: “ Rủi ro tín dụng là khoản lỗ tiềm
tàng khi ngân hàng cấp tín dụng cho một khách hàng, nghĩa là khả năng các
luồng thu nhập dự tính mang lại từ khoản cho vay của ngân hàng không thể
được thực hiện đầy đủ về cả số lượng và thời hạn.”. Timothy W.Koch cho sằng:
“Rủi ro tín dụng là sự thay đổi tiềm ẩn của thu nhập thuần và thị giá của vốn
xuất phát từ việc vốn vay không được thanh toán hay thanh toán trễ hạn.
Rủi ro tín dụng trong hoạt động Ngân hàng của tổ chức tín dụng, theo
quy định tại Điều 2 Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để
xử lý rủi ro tín dụng ban hành theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày
22/4/2005 của Thống đốc NHNN, “Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất
trong hoạt động Ngân hàng của tổ chức tín dụng do khách hàng không thực hiện
hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết”.
Vậy rủi ro tín dụng là những thiệt hại kinh tế mà ngân hàng thương mại
phải gánh chịu do khách hàng vay vốn sai hẹn trong thực hiện nghĩa vụ trả nợ
vốn gốc và nợ lãi hoặc không hoàn trả được nợ vay của ngân hang do các
nguyên nhân chủ quan hoặc khách quan. Rủi ro tín dụng gây tổn thất về tài
chính cho NHTM, đó là làm giảm thu nhập ròng và giảm giá trị thị trường của
vốn; trong trường hợp nghiêm trọng có thể dẫn đến thua lỗ, hoặc ở mức độ cao
hơn có thể dẫn đến phá sản.
1.1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng
* Các nhân tố thuộc về ngân hàng:
- Trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp của cán bộ tín dụng: Chất
lượng cán bộ tín dụng bao gồm trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp.
Đây là những nhân tố đầu tiên, có ảnh hưởng trực tiếp đến công tác quản lý rủi
5
ro tín dụng của NHTM.
- Các công cụ quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng:
+ Quy trình tín dụng: Quy trình tín dụng có ý nghĩa rất quan trọng trong
việc hạn chế sai sót khi cho vay và giảm thiểu khả năng xảy ra rủi ro tín dụng.

Quy trình tín dụng sẽ quy định rõ từng khâu công việc và trách nhiệm cụ thể của
các cán bộ có liên quan.
+ Chính sách tín dụng: Kinh nghiệm cho thấy, sự hoạt động của một ngân
hàng dựa trên cơ sở chính sách tín dụng thống nhất, hợp lý.. có hiệu quả nhiều
hơn là dựa trên cơ sở kinh nghiệm và trao quyền quyết định cho một cá nhân
điều hành. Vì vậy, mục tiêu, định hướng phát triển trong chính sách tín dụng của
ngân hàng cũng là một nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản trị rủi ro tín dụng
của NHTM.
+ Mô hình đánh giá rủi ro tín dụng: Mỗi ngân hàng phải hình thành và đưa
vào sử dụng một mô hình đánh giá rủi ro cụ thể để có thể quản lý rủi ro tín dụng
một cách thống nhất và hiệu quả. Mô hình này phải phù hợp với tính chất, quy
mô và độ phức tạp của các hoạt động thuộc ngân hàng đó.
* Các nhân tố thuộc về khách hàng: Khi khách hàng sử dụng vốn vay ngân
hàng không đúng mục đích đã đưa ra trong đơn xin vay vốn như: sử dụng vốn
vay vào kinh doanh không đúng đối tượng; sử dụng vốn ngắn hạn để đầu tư
trung dài hạn, đầu tư vào tài sản cố định;... đều có thể ảnh hưởng đến việc quản
trị rủi ro tín dụng của NHTM. Ngoải ra, rủi ro tín dụng còn có thể phát sinh từ
sự yếu kém về năng lực lãnh đạo và kinh nghiệm quản lý của người điều hành
doanh nghiệp; khả năng cạnh tranh của khách hàng; đối tác, bạn hàng làm ảnh
hưởng đến kế hoạch sản xuất kinh doanh của khách hàng. Rủi ro tín dụng cũng
do nguyên nhân thiếu thiện chí trả nợ vay ngân hàng ngay từ khi xin vay vốn....
* Các nhân tố thuộc về môi trường:
- Môi trường kinh tế xã hội: Môi trường kinh tế xã hội là tổng hoà các mối
quan hệ về kinh tế và xã hội tác động đến hoạt động của các doanh nghiệp trong
nền kinh tế. Xét một cách tổng thể, môi trường kinh tế xã hội ảnh hưởng đến
việc quản trị rủi ro tín dụng từ cả phía ngân hàng và phía khách hàng.
6
- Môi trường pháp lý: Môi trường pháp lý bao gồm hệ thống pháp luật điều
chỉnh hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và những biện pháp để thực thi
pháp luật. Trong nền kinh tế thị trường, mọi thành phần kinh tế đều có quyền tự

chủ về hoạt động kinh doanh của mình nhưng phải nằm trong khuôn khổ pháp
luật quy định. Hoạt động của ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói
riêng cũng không nằm ngoài vòng kiểm soát đó. Nó cũng phải tuân theo những
quy định có liên quan của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước ban hành.
+ Chính sách tiền tệ nới lỏng có thể mang lại lợi ích ngắn hạn cho các
NHTM, nhưng nới lỏng quá mức sẽ dẫn đến tình trạng gia tăng lạm phát và tăng
giá bất động sản một cách giả tạo, ảnh hưởng xấu đến hệ thống ngân hàng trong
tương lai
+ Chính sách tỉ giá có tác động khác nhau đến từng ngành và hoạt động
xuất nhập khẩu, tác động gián tiếp đến khả năng sinh lời và hoạt động kinh
doanh ngoại hối của ngân hàng. Thay đổi lớn về tỉ giá hay biên độ dao động quá
lớn thường ảnh hưởng tiêu cực đến tình hình tài chính của khách hàng vay vốn
và tăng nợ khó đòi, tác động đến ngân hàng sẽ lớn hơn nếu không có qui chế
thích hợp về quản lý trạng thái ngoại hối của các ngân hàng. Trong nền kinh tế
bị đô la hóa với qui mô lớn, rủi ro tỉ giá thường không cao nhưng rủi ro tín dụng
rất lớn và bộc lộ rõ nét khi đồng bản tệ bị mất giá, làm giảm khả năng trả nợ các
khoản vay ngoại tệ.
+ Chính sách tài khóa : do chính sách thuế thường có thiên hướng tăng
thu ngân sách, những thay đổi đột ngột trong hệ thống thuế cũng có thể tác động
tới giá tài sản và khả năng trả nợ của bên vay
+ Chính sách bảo hộ cũng ảnh hưởng đến hệ thống ngân hàng, trong đó các
NHTMNN vẫn là kênh chủ yếu cấp vốn cho khu vực doanh nghiệp nhà nước và
cho vay với mức lãi suất ưu đãi, nhưng ngân sách nhà nước không cấp bù kịp
thời ảnh hưởng đến nguồn vốn ngân hàng, tỉ lệ nợ xấu tại các NHTMNN ở mức
cao.
1.1.2.4. Tác động của rủi ro tín dụng
Rủi ro luôn tồn tại song song với các hoạt động kinh doanh NHTM, vì vậy
7
việc hạn chế rủi ro đến mức tối thiểu có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với
ngân hàng. Tín dụng là một nội dung quan trọng, chiếm khoảng 60-80% trong

toàn bộ hoạt động kinh doanh ngân hàng. Các rủi ro tín dụng vì thế có ảnh
hưởng rất lớn tới ngân hàng, thông thường các rủi ro tín dụng vào khoảng 90%
các rủi ro cơ bản. Quản trị rủi ro tín dụng là một trong những vấn đề trọng tâm
hiện nay, đang được sự quan tâm chú ý đặc biệt của hệ thống ngân hàng trên
toàn thế giới. Khi ngân hàng không kiểm soát được rủi ro tín dụng sẽ gây nên
nhiều bất lợi mà chủ yếu là các vấn đề như:
Đối với ngân hàng.
* Giảm lợi nhuận: Khi rủi ro tín dụng xảy ra sẽ phát sinh các khoản nợ khó
thu hồi. Ảnh hưởng trước mắt của nó đến hoạt động ngân hàng là sự ứ đọng vốn
dẫn đến làm giảm vòng quay vốn của ngân hàng. Mặt khác, khi có quá nhiều các
khoản nợ khó hoặc không thu hồi được sẽ lại phát sinh các khoản chi phí quản
lý, giám sát, thu nợ... Các chi phí này còn cao hơn khoản thu nhập từ việc tăng
lãi suất các khoản nợ quá hạn bởi vì thực ra đây chỉ là những khoản thu nhập ảo,
thực tế ngân hàng rất khó có khả năng thu hồi đầy đủ được chúng. Bên cạnh đó,
ngân hàng vẫn phải trả lãi cho các khoản tiền huy động được trong khi một bộ
phận tài sản của ngân hàng không thu được lãi cũng như không chuyển được
thành tiền để cho người khác vay và thu lãi. Kết quả là lợi nhuận của ngân hàng
sẽ bị giảm sút.
* Giảm khả năng thanh toán: Ngân hàng thường lập kế hoạch cân đối dòng
tiền ra (trả lãi và gốc tiền gửi, cho vay, đầu tư mới...) và dòng tiền vào (tiền nhận
gửi, tiền thu nợ gốc và lãi cho vay..) tại các thời điểm trong tương lai. Khi các
món vay không được thanh toán đầy đủ và đúng hạn sẽ dẫn đến sự không cân
đối giữa hai dòng tiền. Các khoản tiền gửi, tiền tiết kiệm của khách hàng vẫn
phải thanh toán đúng kỳ hạn trong khi các khoản tiền vay của khách hàng lại
không được hoàn trả đúng hẹn. Nếu ngân hàng không đi vay hoặc bán các tài
sản của mình thì khả năng chi trả của ngân hàng sẽ bị suy yếu và hạn chế, ngân
hàng sẽ gặp khó khăn trong khâu thanh toán.
* Giảm uy tín: Nếu tình trạng mất khả năng chi trả tái diễn nhiều lần hay
8
những thông tin về rủi ro tín dụng của ngân hàng bị tiết lộ ra công chúng, uy tín

của ngân hàng trên thị trường tài chính sẽ bị giảm sút.
* Phá sản ngân hàng: Nếu doanh nghiệp vay vốn ngân hàng gặp khó khăn
trong việc hoàn trả, nhất là những món vay lớn thì có thể dẫn đến khủng hoảng
trong hoạt động của chính ngân hàng. Ngân hàng nếu không chuẩn bị kịp thời
cho những tình huống như vậy, mà thậm chí dù có cũng không đủ khả năng đáp
ứng nhu cầu rút tiền quá lớn, sẽ nhanh chóng mất khả năng thanh toán, dẫn đến
sự sụp đổ của ngân hàng nếu Ngân hàng Trung Ương không can thiệp kịp thời
hoặc không thể can thiệp.
Đối với khách hàng
Lãi vay ngân hàng được hạch toán vào chi phí sản xuất của doanh nghiệp.
Khi để phát sinh nợ quá hạn với lãi suất lớn hơn (=150%) lãi suất trong hạn thì
chi phí của doanh nghiệp sẽ tăng lên. Doanh nghiệp đã đang gặp khó khăn trong
tình hình tài chính, giờ lại càng thêm khó khăn gấp bội. Nguy cơ không có đủ
tiền để trả nợ cho ngân hàng là điều không thể tránh khỏi, dẫn đến việc phát mại
tài sản thế chấp, đôi khi dẫn đến tình trạng phá sản cho khách hàng.
Đối với nền kinh tế.
Khi ngân hàng gặp khó khăn thì việc cung cấp vốn cho doanh nghiệp, nền
kinh tế bị ngừng trệ. Do một lượng vốn lớn nằm tồn đọng trong các khoản nợ
quá hạn, nợ khó đòi, ngân hàng không có đủ vốn để cho vay các dự án có hiệu
quả, mở rộng và phát triển sản xuất. Trong khi đó, tiền cho vay của ngân hàng
lại hoạt động không có hiệu quả mà ngân hàng lại không thể kiểm soát nổi. Kết
quả là sản xuất đình đốn, nền kinh tế không phát triển, xã hội bị rối loạn.
Như vậy, rủi ro tín dụng xảy ra dù ở mức độ nào cũng gây ảnh hưởng đến
sự phát triển của ngân hàng nói riêng và sự tăng trưởng của nền kinh tế nói
chung. Vì vậy, quản trị rủi ro tín dụng không chỉ là trách nhiệm của riêng ngân
hàng mà là của toàn nền kinh tế.
1.2. QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
9
1.2.1. Bản chất của quản trị rủi ro trong kinh doanh của NHTM
Quản trị rủi ro của NHTM có thể hiểu là quá trình tác động có tổ chức, có

hướng đích của các nhà quản trị NH lên các đổi tượng quản trị và khác thể kinh
doanh nhằm mục tiêu phòng ngừa, hạn chế và giảm thiểu rủi ro trong kinh
doanh từ đó nâng cao mức độ an toàn, khả năng sinh lời và đạt được các mục
tiêu tăng trưởng trong ngắn hạn và dài hạn của mỗi NHTM.
Nhiều nhà nghiên cứu và hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh ngân hàng
cho rằng: đối với các NHTM quản trị kinh doanh cũng chính là quản trị rủi ro,
hay nói cách khác, quản trị rủi ro chính là trung tâm của hoạt động quản trị điều
hành của mỗi NHTM. Hiểu một cách đơn giản thì quản trị rủi ro chính là quá
trình các NHTM áp dụng các nguyên lí, các phương pháp và kinh nghiệm quản
trị kinh doanh của NHTM ở các quốc gia phát triển vào hoạt động kinh doanh
của mình để giám sát, phòng ngừa , hạn chế và giảm thấp rủi ro trong hoạt động
tín dụng, đầu tư và các hoạt động kinh doanh khác đẻ giảm thiểu tổn thất thiệt
hại cho ngân hàng, đồng thời không ngừng nâng cao sức manh và uy tín của NH
trên thương trường.
1.2.2. Khái niệm quản trị rủi ro tín dụng
Đối với rủi ro tín dụng, trước hết, nên coi đó là một hiện tượng có thể xảy ra
ngoài mong muốn của ngân hàng khi thực hiện cho vay đối với khách hàng. Với
quan niệm như vậy, mỗi khi bắt đầu xem xét một khoản tín dụng, ngân hàng cần
lường trước những rủi ro có thể xảy ra. Đây cũng chính là xuất phát điểm hình
thành nên ý tưởng quản trị rủi ro tín dụng của NHTM. Mặc dù rủi ro tín dụng là
một hiện tượng tiềm ẩn và không phải bao giờ cũng xảy ra khi ngân hàng cho
khách hàng vay vốn nhưng trong nhiều trường hợp do tính lặp lại của rủi ro nên
người ta có thể nhận biết được tính quy luật của nó. Chính vì điều này mà ngân
hàng có thể tìm ra những biện pháp quản lý nhằm hạn chế khả năng xảy ra rủi ro
tín dụng và giảm thiểu tổn thất do rủi ro tín dụng gây ra.
Như vậy, “quản lý rủi ro tín dụng là một trong những nội dung quản lý của
NHTM bao gồm: nhận biết và đánh giá mức độ rủi ro, thực thi các biện pháp hạn
chế khả năng xảy ra rủi ro và giảm thiểu tổn thất khi rủi ro tín dụng xảy ra.”
10
1.2.3 Công cụ quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại.

1.2.3.1. Các nguyên tắc chung của ủy ban Giám sát Ngân hàng Basel trong
Quản trị rủi ro tín dụng
Hiệp định Basel II ra đời thay thế cho Hiệp định vốn ngân hàng quốc tế
(Basel I) được thực hiện từ năm 1988 (thường được biết đến với tỷ số Cook) do
Ủy ban Giám sát ngân hàng Basel xây dựng nhằm hỗ trợ các ngân hàng quản lý
rủi ro hiệu quả hơn. Các nguyên tắc trong quản trị rủi ro tín dụng của hiệp định
bao gồm:
* Thiết lập một môi trường tín dụng thích hợp:
- Nguyên tắc 1: Phê duyệt và xem xét Chiến lược rủi ro tín dụng theo định
kỳ, xem xét những vấn đề như: mức độ rủi ro có thể chấp nhận được, mức độ
khả năng sinh lời.
- Nguyên tắc 2: Thực hiện Chiến lược chính sách tín dụng. Xây dựng các
chính sách tín dụng. Xây dựng các quy trình thủ tục cho các khoản vay riêng lẻ
và toàn bộ danh mục tín dụng nhằm xác định, đánh giá, quản lý và kiểm soát rủi
ro tín dụng.
- Nguyên tắc 3: Xác định và quản lý rủi ro tín dụng trong tất cả các sản phẩm
và các hoạt động. Đảm bảo rằng các sản phẩm và hoạt động mới đều trải qua
đầy đủ các thủ tục, các quy trình kiểm soát thích hợp và được phê duyệt đầy đủ.
* Hoạt động theo một quy trình cấp tín dụng hợp lý:
- Nguyên tắc 4: Tiêu chuẩn cấp tín dụng đầy đủ gồm có: Những hiểu biết về
người vay, mục tiêu và cơ cấu tín dụng, nguồn thanh toán.
- Nguyên tắc 5: Thiết lập hạn mức tín dụng tổng quát cho: từng khách hàng
riêng lẻ, nhóm những khách hàng vay có liên quan tới nhau, trong và ngoài bảng
cân đối kế toán.
- Nguyên tắc 6: Có các quy trình rõ ràng được thiết lập cho việc phê duyệt
các khoản tín dụng mới, gia hạn các khoản tín dụng hiện có.
- Nguyên tắc 7: Việc cấp tín dụng cần phải dựa trên: Cơ sở giao dịch thương
mại thông thường, quản lý chặt chẽ các khoản vay đối với các doanh nghiệp và
cá nhân có liên quan, làm giảm bớt rủi ro cho vay đối với các bên có liên quan.
11

* Duy trì một quy trình quản lý, đánh giá và kiểm soát tín dụng có hiệu quả:
- Nguyên tắc 8: Áp dụng quy trình quản lý tín dụng có hiệu quả và đầy đủ
đối với các danh mục tín dụng.
- Nguyên tắc 9: Có hệ thống kiểm soát đối với các điều kiện liên quan đến
từng khoản tín dụng riêng lẻ, đánh giá tính đầy đủ của các khoản dự phòng rủi
ro tín dụng.
- Nguyên tắc 10: Xây dựng và sử dụng hệ thống đánh giá rủi ro nội bộ. Hệ
thống đánh giá cần phải nhất quán với các hoạt động của ngân hàng.
- Nguyên tắc 11: Hệ thống thông tin và kỹ thuật phân tích: giúp Ban quản lý
đánh giá rủi ro tín dụng cho các hoạt động trong và ngoài bảng cân đối kế toán,
cung cấp thông tin về cơ cấu và thành phần danh mục tín dụng, bao gồm cả việc
phát hiện các tập trung rủi ro.
- Nguyên tắc 12: Có hệ thống nhằm kiểm soát đối với: Cơ cấu tổng thể của
danh mục tín dụng, chất lượng danh mục tín dụng.
- Nguyên tắc 13: Xem xét ảnh hưởng của những thay đổi về điều kiện kinh
tế có thể xảy ra trong tương lai trong những tình trạng khó khăn khi đánh giá
danh mục tín dụng.
* Đảm bảo quy trình kiểm soát đầy đủ đối với rủi ro tín dụng:
- Nguyên tắc 14: Thiết lập hệ thống xem xét tín dụng độc lập và liên tục, và
cần thông báo kết quả đánh giá cho Hội đồng quản trị và ban quản lý cấp cao.
- Nguyên tắc 15: Quy trình cấp tín dụng cần phải được theo dõi đầy đủ, cụ
thể: Việc cấp tín dụng phải tuân thủ với các tiêu chuẩn thận trọng, thiết lập và áp
dụng kiểm soát nội bộ, những vi phạm về các chính sách, thủ tục và hạn mức tín
dụng cần được báo cáo kịp thời.
- Nguyên tắc 16: Có hệ thống quản lý đối với các khoản tín dụng có vấn đề
1.2.3.2. Các công cụ quản trị rủi ro tín dụng
Để quản trị rủi ro tín dụng, mỗi ngân hàng phải nghiên cứu và đưa ra
những công cụ quản lý phù hợp với quy mô và tính chất hoạt động của ngân
hàng đó. Sau đây là các công cụ chính để quản lý rủi ro trong hoạt động tín dụng
của một NHTM.

12
* Quy trình tín dụng: Để chuẩn hoá quá trình tiếp xúc, phân tích, cho vay
và thu nợ đối với khách hàng, các ngân hàng thường đặt ra quy trình tín dụng.
Đó chính là các bước (hoặc nội dung công việc) mà các bộ tín dụng, các phòng,
ban liên quan trong ngân hàng phải thực hiện khi tiến hành tài trợ cho khách
hàng. Về cơ bản, một quy trình tín dụng được chia làm ba giai đoạn: trước, trong
và sau khi cho vay.
- Giai đoạn trước khi cho vay: Trong giai đoạn này, sau khi tiếp nhận hồ sơ
xin vay cũng như tiến hành điều tra, thu thập, tổng hợp các thông tin về khách
hàng và phương án vay vốn; cán bộ tín dụng sẽ tiến hành phân tích thẩm định
khách hàng và phương án xin vay. Nội dung phân tích bao gồm: năng lực pháp
lý của khách hàng, tình hình tài chính của khách hàng, phương án sử dụng vốn
vay và phương án trả nợ, khả năng đảm bảo tiền vay và các biện pháp quản lý,
kiểm soát của ngân hàng.
- Giai đoạn trong khi cho vay: Sau khi hợp đồng tín dụng được ký kết và
vốn vay được giải ngân, ngân hàng sẽ tiến hành kiểm soát khách hàng theo các
nội dung chính như: khách hàng sử dụng tiền vay có đúng mục đích, tiến độ hay
không, quá trình sản xuất kinh doanh có những thay đổi bất lợi gì, có dấu hiệu
lừa đảo hoặc làm ăn thua lỗ hay không.... Công việc này cho phép ngân hàng thu
thập thêm các thông tin về khách hàng. Nếu các thông tin phản ánh chiều hướng
tốt, điều đó cho thấy chất lượng tín dụng đang được bảo đảm.
- Giai đoạn sau khi cho vay: Quan hệ tín dụng sẽ kết thúc khi ngân hàng thu
hồi hết gốc và lãi của khoản vay. Các khoản tín dụng đảm bảo hoàn trả đầy đủ
và đúng hạn là các khoản tín dụng an toàn. Trong một số trường hợp, người vay
không hoàn trả nợ hoặc hoàn trả không đầy đủ và đúng hạn. Điều đó có nghĩa là
rủi ro tín dụng đã xảy ra. Lúc này cán bộ tín dụng cần xem xét, tìm ra nguyên
nhân dẫn đến việc khách hàng không thanh toán nợ cho ngân hàng như đã cam
kết trong hợp đồng tín dụng.
Như vậy, để đảm bảo hiệu quả trong công tác quản trị rủi ro tín dụng, các
ngân hàng phải xây dựng một quy trình tín dụng cụ thể và thống nhất. Quy trình

này phải được ban lãnh đạo của ngân hàng thông qua và phổ biến rộng rãi đến
13
các phòng, ban có liên quan cũng như toàn bộ cán bộ tín dụng trong ngân hàng.
* Chính sách tín dụng: Chính sách tín dụng bao gồm các quy định về cho
vay của ngân hàng. Chính sách này được xây dựng nhằm thực hiện mục tiêu,
chiến lược kinh doanh của ngân hàng, đồng thời hình thành cơ chế để đảm bảo
nâng cao lợi nhuận và hạn chế rủi ro. Chính sách tín dụng bao gồm các nội dung
chính sau:
- Chính sách khách hàng
- Chính sách quy mô và giới hạn tín dụng
- Lãi suất và phí suất tín dụng
- Thời hạn tín dụng và kỳ hạn nợ
- Các loại bảo đảm tiền vay
- Điều kiện giải ngân và điều kiện thanh toán
- Chính sách đối với các khoản nợ xấu
* Mô hình đánh giá rủi ro tín dụng: Để xác định chính xác mức độ rủi ro
của mỗi khoản vay, các ngân hàng thường áp dụng một số mô hình cụ thể để
đánh giá rủi ro tín dụng. Các mô hình này rất đa dạng, bao gồm cả mô hình phản
ánh về mặt định tính và mô hình phản ánh về mặt định lượng. Đặc điểm của các
mô hình này là không loại trừ lẫn nhau nên một ngân hàng có thể sử dụng cùng
một lúc nhiều mô hình khác nhau để hỗ trợ, bổ sung trong việc phân tích và
đánh giá mức độ rủi ro của các khoản vay.
- Mô hình định tính: Hệ thống tiêu chuẩn thường được các ngân hàng sử
dụng trong mô hình định tính là : Tiêu chuẩn 5C
+ Character (Tư cách của người vay): Tiêu chuẩn này thể hiện tinh thần
trách nhiệm, tính trung thực, mục đích rõ ràng và thiện chí trả nợ của người vay.
Khi quyết định cho vay, cán bộ tín dụng phải chắc chắn tin rằng người xin vay
có mục đích tín dụng rõ ràng và có thiện chí nghiêm chỉnh trả nợ khi đến hạn.
+ Capacity (Năng lực của người vay): Cán bộ tín dụng phải chắc chắn rằng
người xin vay phải có đủ năng lực hành vi và năng lực pháp lý để ký kết hợp

đồng tín dụng. Tương tự, cán bộ tín dụng phải chắc chắn rằng người đại diện
cho công ty ký kết hợp đồng tín dụng phải là người được uỷ quyền hợp pháp của
14
công ty. Một hợp đồng tín dụng được ký kết bởi người không được uỷ quyền có
thể sẽ không thu hồi được nợ, tiềm ẩn rủi ro cho ngân hàng.
+ Cash (Thu nhập của người vay): Tiêu chuẩn thu nhập của người vay tập
trung vào câu hỏi: Người vay có khả năng tạo ra đủ tiền để trả nợ hay không?
Nhìn chung, người vay có ba khả năng để tạo ra tiền, đó là: dòng tiền ròng từ
doanh thu bán hàng, dòng tiền từ phát hành chứng khoán và dòng tiền từ bán
thanh lý tài sản. Bất cứ nguồn thu nào từ ba khả năng trên đều có thể sử dụng để
trả nợ vay cho ngân hàng.
+ Collateral (Tài sản đảm bảo): Một khoản tín dụng nếu được đảm bảo bằng
tài sản cầm cố hay tài sản thế chấp sẽ gắn chặt hơn trách nhiệm và nghĩa vụ trả
nợ của người vay. Nếu xảy ra những rủi ro khách quan, người đi vay không trả
được nợ thì tài sản cầm cố, thế chấp sẽ trở thành nguồn thu nợ thứ hai của ngân
hàng. Tất nhiên tài sản cầm cố thế chấp cũng phải đáp ứng những yêu cầu và
điều kiện nhất định theo quy định của ngân hàng.
+ Conditions (Các điều kiện): Để đánh giá xu hướng ngành và điều kiện
kinh tế có ảnh hưởng như thế nào đến hoạt động kinh doanh của khách hàng,
cán bộ tín dụng cần phải biết được thực trạng về ngành nghề và công việc kinh
doanh của khách hàng, cũng như khi các điều kiện kinh tế thay đổi sẽ ảnh hưởng
như thế nào đến hoạt động của người vay.
- Mô hình điểm số Z (Z - Credit scoring model): Đây là mô hình do
E.I.Altman xây dựng dùng để cho điểm tín dụng đối với các doanh nghiệp vay
vốn. Đại lượng Z dùng làm thước đo tổng hợp để phân loại rủi ro tín dụng đối
với người vay và phụ thuộc vào trị số của các chỉ số tài chính của người vay.
Tầm quan trọng của các chỉ số này trong việc xác định xác suất vỡ nợ của người
vay trong quá khứ. Từ đó Altman đã xây dựng mô hình tính điểm như sau:
Z = 1,2 X1 + 1,4 X2 + 3,3 X3 + 0,6 X4 + 1,0 X5
Trong đó: X1 = Hệ số vốn lưu động / tổng tài sản

X2 = Hệ số lãi chưa phân phối / tổng tài sản
X3 = Hệ số lợi nhuận trước thuế và lãi / tổng tài sản
15
X4 = Hệ số giá trị thị trường của tổng vốn sở hữu / giá trị hạch
toán của tổng nợ
X5 = Hệ số doanh thu / tổng tài sản
Trị số Z càng cao, người vay có xác suất vỡ nợ càng thấp. Vậy khi
trị số Z thấp hoặc là một số âm sẽ là căn cứ xếp khách hàng vào nhóm có nguy
cơ vỡ nợ cao. Theo mô hình cho điểm Z của Altman, bất cứ công ty nào có điểm
số thấp hơn 1,81 phải được xếp vào nhóm có nguy cơ rủi ro tín dụng cao.
- Mô hình cho điểm theo chỉ tiêu: Mô hình này bao gồm một hệ thống các
chỉ tiêu liên quan đến từng đối tượng khách hàng (doanh nghiệp hay cá nhân),
mỗi chỉ tiêu có điểm số khác nhau phụ thuộc vào tính chất và tầm quan trọng
của chúng. Căn cứ vào tình trạng của khách hàng và thang điểm của ngân hàng,
cán bộ tín dụng sẽ quyết định số điểm tương ứng cho từng chỉ tiêu, sau đó cộng
tổng số điểm. Khi có tổng số điểm, căn cứ vào bảng chuẩn, cán bộ tín dụng có
thể đệ trình quyết định cho vay hoặc từ chối yêu cầu xin vay. Với tổng số điểm
cao hơn mức điểm chuẩn thì khách hàng đó được vay và thấp hơn mức điểm
chuẩn thì ngân hàng từ chối.
Như vậy, các công cụ tín dụng có thể nói là rất quan trọng trong hoạt động tín
dụng của NHTM. Mục tiêu cuối cùng của các công cụ này là phục vụ khách
hàng trên cơ sở an toàn, giảm thiểu rủi ro tín dụng và nâng cao khả năng sinh lời
của NHTM.
1.2.4. Nội dung của quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại
1.2.4.1. Nhận biết rủi ro tín dụng
Ngân hàng cần có phương pháp nhận ra những dấu hiệu rủi ro tín dụng để
từ chối cho vay (trong trường hợp trước khi cho vay) hoặc để ngăn ngừa xử lý
kịp thời (trong trường hợp đã cho vay). Có thể sắp xếp các dấu hiệu của rủi ro
tín dụng theo các nhóm sau:
* Nhóm các dấu hiệu liên quan đến mối quan hệ với ngân hàng:

- Trong quá trình hạch toán của khách hàng, xu hướng của các tài khoản
của khách hàng qua một quá trình sẽ cung cấp cho ngân hàng một số dấu hiệu
16
quan trọng gồm: Phát hành séc quá bảo chứng hoặc bị từ chối; khó khăn trong
thanh toán lương; sự dao động của các tài khoản mà đặc biệt là giảm sút số dư
tài khoản tiền gửi…
- Các hoạt động vay: Mức độ vay thường xuyên gia tăng; thanh toán chậm
các khoản nợ gốc và lãi; thường xuyên yêu cầu ngân hàng cho đáo hạn; yêu cầu
các khoản vay vượt quá nhu cầu dự kiến.
- Phương thức tài chính: Sử dụng nhiều các khoản tài trợ thương mại cho
các hoạt động phát triển dài hạn; chấp nhận sử dụng các nguồn tài trợ đắt nhất,
ví dụ: thường xuyên sử dụng nghiệp vụ chiết khấu các khoản phải trả
(factoring); giảm các khoản phải trả và tăng các khoản phải thu; các hệ số thanh
toán phát triển theo chiều hướng xấu; có biểu hiện giảm vốn điều lệ.
* Nhóm các dấu hiệu liên quan đến phương pháp quản lý của khách
hàng:
- Thay đổi thường xuyên cơ cấu của hệ thống quản trị hoặc ban điều hành.
- Hệ thống quản trị hoặc ban điều hành luôn bất đồng về mục đích, quản trị,
điều hành độc đoán hoặc ngược lại quá phân tán.
- Cách thức hoạch định của khách hàng có biểu hiện: Được hoạch định bởi
HĐQT hoặc Giám đốc điều hành ít hay không có kinh nghiệm; HĐQT hoặc
Giám đốc điều hành các doanh nghiệp lớn tham gia quá sâu vào vấn đề thường
nhật; Thiếu quan tâm đến lợi ích của cổ đông, chủ nợ; Thuyên chuyển nhân viên
diễn ra thường xuyên; lập kế hoạch xác định mục tiêu kém, xuất hiện các hành
động nhất thời, không có khả năng đối phó với những thay đổi.
- Quản lý có tính gia đình: có biểu hiện thiếu tin tưởng vào những người
quản lý không thuộc gia đình; cho thành viên của gia đình chưa được đào tạo,
huấn luyện đầy đủ đảm đương cương vị then chốt.
- Có tranh chấp trong quá trình quản lý.
- Có các chi phí quản lý bất hợp lý: Tập trung quá nhiều chi phí để gây ấn

tượng như thiết bị văn phòng quá hiện đại, phương tiện giao thông đắt tiền, Ban
Giám đốc có cuộc sống xa hoa, lẫn lộn giữa chi phí kinh doanh và tài chính cá
nhân.
17
* Nhóm các dấu hiệu liên quan tới các ưu tiên trong kinh doanh:
- Dấu hiệu hội chứng hợp đồng lớn: Doanh nghiệp bị ám ảnh bởi một khách
hàng có tên tuổi mà sau này có thể trở nên lệ thuộc; Ban Giám đốc cắt giảm lợi
nhuận nhằm có được những hợp đồng lớn.
- Dấu hiệu hội chứng sản phẩm đẹp: Bị ám ảnh bởi một sản phẩm mà không
chú ý đến các yếu tố khác.
- Sự cấp bách không thích hợp như: Do áp lực nội bộ dẫn tới việc tung ra sản
phẩm dịch vụ quá sớm, các hạn mức thời gian kinh doanh đưa ra không thực tế,
tạo mong đợi trên thị trường không đúng lúc...
* Nhóm các dấu hiệu thuộc vấn đề kỹ thuật thương mại:
- Thay đổi trên thị trường: tỷ giá, lãi suất; thay đổi thị hiếu; cập nhật kỹ thuật
mới; mất nhà cung ứng hoặc khách hàng lớn; thêm đối thủ cạnh tranh.
- Sản phẩm của khách hàng mang tính thời vụ cao.
- Có biểu hiện cắt giảm các chi phí sửa chữa, thay thế.
* Nhóm các dấu hiệu về xử lý thông tin tài chính, kế toán:
- Chuẩn bị không đầy đủ số liệu tài chính hoặc chậm trễ, trì hoãn nộp các
báo cáo tài chính.
- Những kết luận về phân tích tài chính cho thấy: Sự gia tăng không cân đối
về tỷ lệ nợ thường xuyên; khả năng tiền mặt giảm;tăng doanh số bán nhưng lãi
giảm hoặc không có.số khách hàng nợ tăng nhanh và thời hạn thanh toán của các
con nợ được kéo dài; hoạt động lỗ…
- Những dấu hiệu phi tài chính khác: Những vấn đề về đạo đức, dáng vẻ của
nhà kinh doanh; sự xuống cấp trông thấy của nơi kinh doanh; kho lưu trữ hàng
hoá quá nhiều, hư hỏng và lạc hậu.
1.2.4.2. Đo lường rủi ro tín dụng
* Một số khái niệm cơ bản: Trước hết cần phải tìm hiểu một số khái niệm

về nợ và nợ quá hạn được quy định trong Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN:
- "Nợ" bao gồm: Các khoản cho vay, ứng trước, thấu chi và cho thuê tài
chính; các khoản chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác;
các khoản bao thanh toán; các hình thức tín dụng khác.Tổ chức tín dụng thực
18
hiện phân loại nợ như sau:
+ Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm: các khoản nợ trong hạn mà tổ chức
tín dụng đánh giá là có đủ khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng thời hạn;
các khoản nợ được trả đầy đủ gốc và lãi theo kỳ hạn đã được cơ cấu lại tối thiểu
trong vòng một năm đối với các khoản nợ trung dài hạn và ba tháng đối với các
khoản nợ ngắn hạn và được tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng trả đầy đủ
gốc và lãi đúng hạn theo thời hạn đã được cơ cấu lại.
+ Nhóm 2 (Nợ cần chú ý) bao gồm: Các khoản nợ quá hạn dưới 90 ngày;
các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trong hạn theo thời hạn nợ đã cơ cấu lại;
các khoản nợ khác theo quy định: do khách hàng có một trong nhiều khoản nợ
với TCTD bị chuyển sang nhóm nợ rủi ro cao hơn nên các khoản nợ khác cũng
phải chuyển sang nhóm nợ rủi ro cao hơn tương ứng; các khoản nợ mà TCTD có
đủ khả cơ sở để đánh giá là khả năng trả nợ của khách hàng bị suy giảm và chủ
động phân loại thành các nhóm nợ rủi ro cao hơn.
+ Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm: Các khoản nợ quá hạn từ 90 đến
180 ngày; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày theo
thời hạn đã cơ cấu lại; các khoản nợ khác theo quy định.
+ Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm: Các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360
ngày; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày
theo thời hạn đã cơ cấu lại; các khoản nợ khác theo quy định.
+ Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm: Các khoản nợ quá hạn trên
360 ngày; các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý; các khoản nợ đã cơ cấu lại
thời hạn trả nợ quá hạn trên 180 ngày theo thời hạn đã được cơ cấu lại; các
khoản nợ khác theo quy định.
- "Nợ quá hạn" là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi

đã quá hạn.
- "Nợ xấu" (NPL) là các khoản nợ thuộc các nhóm 3, 4 và 5 theo quy định
trên. Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ là tỷ lệ để đánh giá chất lượng tín dụng của tổ
chức tín dụng.
- "Nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ" là khoản nợ mà tổ chức tín dụng chấp thuận
19
điều chỉnh kỳ hạn trả nợ hoặc gia hạn nợ cho khách hàng do tổ chức tín dụng
đánh giá khách hàng suy giảm khả năng trả nợ gốc hoặc lãi đúng thời hạn ghi
trong hợp đồng tín dụng nhưng tổ chức tín dụng có đủ cơ sở để đánh giá khách
hàng có khả năng trả đầy đủ nợ gốc và lãi theo thời hạn trả nợ đã cơ cấu lại.
* Các chỉ tiêu đo lường rủi ro tín dụng:
Tuy rủi ro tín dụng là khách quan song ngân hàng phải quản lí rủi ro tín
dụng nhằm hạn chế đến mức thấp nhất các tổn thất có thể xảy ra. Từ những
nguyên nhân nảy sinh rủi ro tín dụng, ngân hàng cụ thể hóa thành những dấu
hiệu chính phát sinh trong hoạt động tín dụng, phản ánh rủi ro tín dụng:
* Nợ quá hạn:
- Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ: Nợ quá hạn là khoản nợ mà
khách hàng không trả được khi đã đến hạn thỏa thuận ghi trên hợp đồng tín
dụng.
- Nợ khó đòi và tỷ lệ nợ khó đòi trên tổng dư nợ: Nợ khó đòi là khoản nợ quá
hạn đã qua một thời kì gia hạn nợ.
Các chỉ tiêu này có liên quan chặt chẽ với nhau và phản ánh các mức độ rủi
ro tín dụng khác nhau. Các quan điểm khác nhau, các tính toán khác nhau về kì
hạn nợ và nợ quá hạn có thể làm các chỉ tiêu này bị biến dạng.
+ Thứ nhất, do kì hạn nợ không đúng: Nhiều cán bộ ngân hàng khi cho vay
không quan tâm thích đáng đến chu kì kinh doanh của người vay, hoặc do nguồn
ngắn hạn là chủ yếu, họ đặt kì hạn nợ ngắn để hạn chế rủi ro. Kì hạn nợ không
phù hợp với chu kì thu nhập của người vay. Khi đến hạn người vay dĩ nhiên sẽ
không thể trả nợ được, gây nợ quá hạn. Khoản nợ này trở thành mối đe dọa tài
chính đối với người vay, buộc họ phải trả thêm khoản “ phụ phí ” để được gia

hạn nợ, hoặc phải chịu lãi suất phạt.
+ Thứ hai, do đảo nợ hoặc giãn nợ: Nhiều khoản nợ người vay không có khả
năng hoàn trả có thể được đảo nợ để làm giảm nợ quá hạn so với thực tế. Để che
giấu với ngân hàng cấp trên, hoặc để không phải chịu lãi phạt, khách hàng và
nhân viên ngân hàng thỏa thuận vay khoản mới để trả khoản nợ cũ. Nhân viên
20
ngân hàng cũng có thể thực hiện giãn nợ đối với các khoản nợ mà chắc chắn
người vay không trả được. Những hành vi này làm chỉ tiêu nợ quá hạn và nợ
khó đòi không phản ánh đầy đủ rủi ro tín dụng.
+ Thứ ba, do chính sách cho vay: Rất nhiều các khoản vay khó đòi không
thể thu hồi bằng phát mại tài sản ( doanh nghiệp nhà nước, người nghèo, tài sản
không rõ ràng…). Những khoản cho vay này hầu hết là cho vay theo chỉ thị của
chính phủ. Khi chính phủ chưa có biện pháp giải quyết, chúng vẫn tồn tại trên
bảng cân đối của ngân hàng, trở thành tài sản ảo.Việc xử lí các khoản nợ này là
rất phức tạp. Nhiều ngân hàng loại chúng ra khỏi chỉ tiêu nợ quá hạn và nợ khó
đòi, xếp vào nợ khoanh ( khi được chính phủ đồng ý). Tuy nhiên chúng thực sự
đe dọa thu nhập của các ngân hàng nếu chính phủ không tìm được nguồn bù
đắp.
* Các chỉ tiêu khác: Bên cạnh nợ quá hạn, nhà quản lí ngân hàng còn sử
dụng các hình thức đo rủi ro tín dụng khác, gắn liền với chiến lược đa dạng hóa
tài sản, lập hồ sơ khách hàng, trích lập quỹ dự phòng, đặt giá đối với các khoản
cho vay…
- Các khoản cho vay có vấn đề: Mặc dù chưa đến hạn và chưa được coi là
nợ quá hạn song trong quá trình theo dõi, nhân viên ngân hàng nhận thấy nhiều
khoản tài trợ đang có dấu hiệu kém lành mạnh, có nguy cơ trở thành nợ quá hạn.
Khoản cho vay có vẫn đề được xây dựng dựa trên quy định của ngân hàng.
- Điểm của khách hàng: Thông qua phân tích tình hình tài chính, năng lực
sản xuất kinh doanh, hiệu quả dự án, mối quan hệ và tính sòng phẳng… ngân
hàng lập hồ sơ về khách hàng, xếp loại và cho điểm. Khách hàng loại A hoặc
điểm cao, rủi ro tín dụng thấp; khách hàng loại C hoặc điểm thấp, rủi ro cao. Chỉ

tiêu này được xây dựng dựa trên các dấu hiệu rủi ro mà ngân hàng xây dựng.
Điểm của ngân hàng cho thấy rủi ro tiềm ẩn.
- Mất tính ổn định vĩ mô: Chính sách thường xuyên thay đổi, lạm phát cao,
tình hình chính trị mất ổn định, vùng hay bị thiên tai… đều tạo nên mất ổn định
vĩ mô, tác động xấu đến người vay. Do mất ổn định vĩ mô được ngân hàng xem
là một nội dung quan trọng phản ánh rủi ro tín dụng.
21
- Tính kém đa dạng của tín dụng: Đa dạng hóa là biện pháp hạn chế rủi ro.
Những thay đổi trong chu kì của người vay là khó tránh khỏi. Nếu ngân hàng tập
trung tài trợ cho một nhóm khách hàng, của một ngành, hoặc một vùng hẹp thì
rủi ro sẽ cao hơn so với đa dạng hóa.
Tóm lại, trong nền kinh tế thị trường, mọi hoạt động kinh doanh bao giờ
cũng gắn liền với rủi ro. Trong các loại rủi ro, rủi ro tín dụng có tác động lớn
nhất đến hoạt động của ngân hàng. Rủi ro tín dụng thường xuyên xảy ra và khi
xảy ra nó không chỉ ảnh hưởng xấu đến kết quả kinh doanh của ngân hàng mà
còn làm giảm uy tín của ngân hàng trên thị trường. Vì vậy, các NHTM cần phải
thực hiện công tác quản trị rủi ro tín dụng trên cơ sở phân tích các nguyên nhân
và đưa ra các biện pháp phù hợp. Để tìm hiểu trên thực tế một NHTM quản trị
rủi ro tín dụng như thế nào, chương 2 của chuyên đề sẽ xem xét thực trạng quản
trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
22
Chương 2
THỰC TRẠNG QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NHTMCP
SÀI GÒN
2.1. KHÁI QUÁT VỀ NHTMCP SÀI GÒN
2.1.1.Khái quát về NHTMCP Sài Gòn
Xuất thân từ Ngân hàng TMCP Quế Đô được thành lập năm 1992, sau 5
năm đổi tên thương hiệu và phát triển, từ 8/4/2003 đến nay, Ngân hàng TMCP
Sài Gòn – SCB đã khẳng định vị trí của mình trên thị trường tài chính Việt Nam,
thể hiện qua sự tăng trưởng không ngừng về lợi nhuận hàng năm, chất lượng sản

phẩm dịch vụ ngày càng được nâng cao cũng như sự định hình rõ nét thương
hiệu SCB trong cộng đồng . Hiện SCB đang đứng hàng thứ 4 về tổng tài sản và
đứng hàng thứ 3 về dư nợ tín dụng so với các ngân hàng TMCP khu vực
TPHCM. Mạng lưới hoạt động trải dài từ Nam chí Bắc, đến nay là hơn 40 điểm
tại khu vực phía Bắc, miền Trung, TPHCM, khu vực Đông Nam bộ và Đồng
bằng sông Cửu Long
Hiện tại vốn điều lệ và các quỹ của SCB đạt hơn 2.000 tỷ đồng. Sau khi
được sự chấp thuận của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Ủy ban chứng khoán
Việt Nam, tháng 12/2007, SCB phát hành trái phiếu chuyển đổi với tổng mệnh
giá phát hành là 1.399.999.500.000 đồng. Theo đó thì đến đầu năm 2009 vốn
điều lệ SCB sẽ đạt hơn 3.000 tỷ đồng. Như vậy SCB đạt trước hạn mức vốn điều
lệ tối thiểu cho một ngân hàng theo quy định của nhà nước.
Ngoài ra, SCB còn tạo dựng thế mạnh của mình bằng việc liên minh,
liên kết với các ngân hàng NH quốc doanh. Cụ thể, SCB ký thỏa thuận hợp tác
toàn diện với NH Đầu tư và Phát triển VN (BIDV), NH Ngoại thương
(Vietcombank) và NH Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn VN (Agribank).
Nhờ đó, SCB đã có được thế chủ động cần thiết trong kinh doanh, góp phần
nâng cao năng lực tài chính trong giai đoạn cạnh tranh và phát triển.
Gia nhập WTO mở ra cơ hội cho các ngân hàng trong nước tăng cường
học hỏi kinh nghiệm, nâng cao trình độ công nghệ và quản trị ngân hàng. Với
23
nhận thức đó, SCB đang từng bước thực hiện đổi mới công nghệ và hiện đại hoá
ngân hàng. Bên cạnh việc ra mắt dịch vụ Ngân hàng hiện đại SCB-Ebanking
nhằm tiết kiệm thời gian và gia tăng tiện ích cho khách hàng, SCB xúc tiến trang
bị hệ thống ngân hàng lõi (Core Banking System) tiên tiến với công nghệ
Temenos T24 và hợp tác với tập đoàn IBM nhằm cập nhật và ứng dụng các công
nghệ tiên phong trong các dự án công nghệ thông tin.
Với phương châm “ SCB luôn hướng đến sự hoàn thiện vì khách hàng ”,
cùng với khát khao vươn lên của tập thể SCB, chúng ta hoàn toàn có thể tin
tưởng SCB sẽ trở thành một trong những ngân hàng TMCP hiện đại đa năng tại

VN, tiến lên khẳng định uy tín và vị thế cạnh tranh trong tiến trình hội nhập với
thị trường tài chính trong nước và quốc tế.
2.1.2. Khái quát về khối quản trị rủi ro của NHTMCP Sài Gòn
Khối quản trị rủi ro của NHTMCP Sài Gòn gồm:
- Phòng quản lý rủi ro tín dụng
+Tham mưu trong ban điều hành trong viếc ra quyết định tín dụng đối với
các khoản vay vượt mức phán quyết của các chi nhánh.
+Quản lý và kiểm soát rủi ro tín dụng của toàn ngân hàng.
+Xây dựng, quản lý và kiểm soát danh mục cho vay trong việc nhận dạng,
quản lý và kiểm soát rủi ro tín dụng.
+Trung tâm thông tin tín dụng của SCB.
-Phòng quản lý rủi ro thị trường: chịu trách nhiệm quản lý rủi ro thị
trường của ngân hàng và tham mưu cho các cấp phê duyệt, ra quyết định kinh
doanh đúng đắn, an toàn hiệu quả.
-Phòng quản lý rủi ro vận hành: chịu trách nhiệm quản lý rủi ro vận hành
của ngân hàng và tham mưu cho các cấp phê duyệt ra quyết định đảm bảo hoạt
động kinh doanh an toàn ,hiệu quả và tuân thủ.
2.1.3. Tình hình tín dụng tại NHTMCP Sài Gòn
Trong các năm gần đây, kinh tế Việt Nam liên tục tăng trưởng với tốc độ cao.
24
Sự kiện Việt Nam gia nhập WTO là một cơ hội tạo đà đưa nền kinh tế Việt Nam
phát triển nhanh. Trong điều kiện nền kinh tế phát triển nhanh như vậy thì nhu
cầu vốn cho nền kinh tế cũng tăng mạnh là một tất yếu.
Để đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế, NHTMCP Sài Gòn đã không ngừng
nâng cao năng lực, tái cơ cấu và chấn chỉnh lại bộ máy hoạt động, hoàn thiện
quy trình nghiệp vụ cũng như quy trình quản lý. Bằng cách tung ra các sản
phẩm tác dụng hấp dẫn, linh hoạt, phù hợp với từng vùng, từng nhóm đối tượng
cụ thể, SCB đã cải thiện tình hình, nâng cao hiệu quả kinh doanh với tốc độ
nhanh.
Nét nổi bật của hoạt động đầu tư tín dụng của SCB là có sự tăng trưởng cao,

tiếp tục duy trì các khách hàng truyền thống, đồng thời mở rộng đối tượng khách
hàng vay mới. Các sản phẩm của SCB đáp ứng nhu cầu đa dạng của các thành
phần kinh tế, đặc biệt là kinh tế ngoài quốc doanh.
SCB áp dụng chính sách sử dụng vốn một cách hiệu quả và phân tán rủi ro.
Tổng dư nợ cho vay thường chiếm tỷ lệ trên 80% tổng số vốn huy động. Ngoài
hoạt động tín dụng, vốn còn được gửi vào các tổ chức tín dụng khác hoặc góp
vốn liên doanh, mua cổ phần tại các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế. Các hoạt
động này nhằm đa dạng hóa danh mục đầu tư, phân tán rủi ro trong sử dụng vốn,
tiến tới tối đa hóa lợi nhuận.
*Tình hình sử dụng vốn và chất lượng tín dụng trong 3 năm
Tình hình sử dụng vốn
Bảng 1: Tình hình sử dụng vốn
ĐVT: tỷ đồng
Sử dụng vốn 2005 2006 30/9/2007
Cho vay
Cho vay ngắn hạn 2,511 6,557 13,182
Cho vay trung, dài hạn 846 1,650 2,508
Đầu tư vào chứng khoán 33 544 1,582
Góp vốn mua cổ phần 29 39 51
Tổng 3,419 8,790 17,323
25

×