Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Chuyên đề sinh học:Sinh lí máu hồng cầu và nhóm máu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (511.89 KB, 38 trang )

SINH LÝ MÁU
Máu là một loại mô liên kết đặc biệt gồm hai thành phần là huyết tương
và huyết cầu. Huyết tương là thành phần của dịch ngoại bào nằm trong lòng
mạch (xem chương 2). Huyết cầu là các tế bào máu được sản sinh từ tế bào
“mẹ” trong tủy xương. Quá trình này bắt đầu từ tế bào gốc vạn năng, biệt hóa
thành các các dòng hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu. Máu có các chức năng
chính là hô hấp, dinh dưỡng, đào thải, bảo vệ và điều hòa hoạt động cơ thể.

SINH LÝ HỒNG CẦU VÀ NHÓM MÁU
Mục tiêu:
1. Phân tích được quá trình sản sinh hồng cầu.
2. Trình bày được các đặc điểm chung và chức năng của hồng cầu.
3. Phân loại được nhóm máu hệ ABO và hệ Rh.
4. Trình bày được các ứng dụng xác định nhóm máu hệ ABO và truyền máu.

1. QUÁ TRÌNH SẢN SINH HỒNG CẦU
Quá trình sản sinh hồng cầu là quá trình tăng sinh và chín của dòng
hồng cầu từ các tế bào máu gốc vạn năng.
1.1. Các giai đoạn sản sinh hồng cầu
Trong những tuần đầu của thời kỳ bào thai, hồng cầu được sinh ra từ lá
thai giữa. Từ tháng thứ ba, quá trình sản sinh hồng cầu được thực hiện ở gan
và lách. Từ tháng thứ năm cho đến lúc sinh ra, tủy xương là nơi duy nhất tạo
hồng cầu. Có hai loại tủy xương, tủy đỏ và tủy vàng, chỉ có tủy đỏ mới có
chức năng tạo máu. Ở trẻ sơ sinh, toàn bộ các xương đều chứa tủy đỏ. Sau đó,
ở các xương dài, tủy dần dần bị nhiễm mỡ trở thành tủy vàng. Sau 20 tuổi, tủy
đỏ chỉ khu trú ở các xương dẹt như xương sống, xương ức, xương sườn,
xương sọ, xương chậu và một phần nhỏ xương dài (đầu trên xương đùi và
xương cánh tay).
Quá trình sản sinh hồng cầu bắt đầu từ tế bào máu gốc vạn năng biệt
hóa thành tế bào dòng tủy → tế bào định hướng dòng hồng cầu. Từ đây sẽ
1


hình thành tiền nguyên hồng cầu → nguyên hồng cầu ưa base → nguyên hồng
cầu đa sắc → nguyên hồng cầu ưa acid → hồng cầu lưới → hồng cầu. Trong
quá trình sản sinh, kích thước hồng cầu giảm dần, nhân đông đặc và bị đẩy ra
ngoài, hình thành hemoglobin.
1.2. Các chất cần thiết cho sản sinh hồng cầu
1.2.1. Vitamin B
12
- Vai trò: vitamin B
12
cần thiết để biến đổi ribonucleotid thành
deoxyribonucleotid, một trong những giai đoạn quan trọng trong sự tạo thành
AND duy trì sự trưởng thành bình thường của hồng cầu.
- Chuyển hóa: vitamin B
12
là một vitamin tan trong nước có nhiều trong
thức ăn có nguồn gốc động vật như thịt, trứng, sữa, không có trong thức có
nguồn gốc thực vật. Lượng B
12
cần thiết mỗi ngày là <1µg, trong khi đó gan
có khả năng dự trữ một lượng B
12
khoảng 1000 lần nhiều hơn. Sau khi ăn vào,
B
12
sẽ kết hợp với yếu tố nội tại của dạ dày để tạo thành hợp chất thích ứng
cho sự hấp thu. Vitamin B
12
được hấp thu ở ruột mà chủ yếu là hồi tràng.
- Bệnh lý liên quan: thiếu B
12

sẽ ngăn chặn sự phân chia tế bào và sự
trưởng thành của nhân dẫn đến ngưng biệt hóa dòng hồng cầu, kích thước
hồng cầu to nhưng giảm số lượng. Các tế bào nguyên hồng cầu của tủy xương
lớn hơn bình thường được gọi là đại hồng cầu sẽ vào máu tuần hoàn. Chúng
vẫn có khả năng chuyên chở O
2
, nhưng dễ bị vỡ gây thiếu máu ác tính,
thường gặp trong trường hợp bệnh nhân bị teo niêm mạc dạ dày hoặc cắt bỏ
dạ dày toàn bộ mà không tiêm B
12
thường xuyên.
1.2.2. Acid folic
- Vai trò: acid folic cần thiết cho sự trưởng thành các hồng cầu do tăng
sự methyl hóa trong quá trình thành lập ADN.
- Chuyển hóa: acid folic là một vitamin tan trong nước có nhiều trong
rau cải xanh và mô động vật như não, gan, thịt. Nhu cầu hàng ngày cần 50-
100µg. Acid folic được hấp thu ở ruột mà chủ yếu là hỗng tràng dưới thể
monoglutamat.
- Bệnh lý liên quan: thiếu acid folic sẽ gây ra thiếu máu với các nguyên
hồng cầu khổng lồ giống như thiếu máu do thiếu vitamin B
12
, chủ yếu do chế
độ ăn không đủ, kém hấp thu, tiêu chảy kéo dài.
1.2.3. Chất sắt
2
- Vai trò: sắt là một chất quan trọng trong sự thành lập hemoglobin do
sắt tham gia vào thành phần hem.
- Chuyển hóa: sắt có nhiều trong thực phẩm có nguồn gốc động vật như
thịt đỏ, phủ tạng và các loại thực vật có màu xanh đậm. Nhu cầu sắt mỗi ngày
khoảng 0,6mg. Ở phụ nữ do mất máu trong chu kỳ kinh nguyệt nên nhu cầu

chất sắt cao hơn (khoảng 1,3mg/ngày). Sắt được hấp thu dưới dạng Fe
++
(ferrous) hơn là dạng Fe
+++
(ferric) chủ yếu ở tá tràng bằng cơ chế chủ động.
HCl của dạ dày và vitamin C có vai trò chuyển Fe
+++
thành Fe
++
tạo điều kiện
thuận lợi cho sự hấp thu. Sau khi hấp thu từ ruột, sắt nhanh chóng kết hợp với
β-globulin để tạo thành transferrin. Dưới dạng này, sắt kết hợp một cách lỏng
lẻo với phân tử globulin, và kết quả là nó dễ dàng phóng thích khi các mô cần.
Chất sắt thừa trong máu sẽ được dự trữ ở hầu hết các tế bào của cơ thể, đặc
biệt trong tế bào gan (60%). Tại gan, sắt kết hợp với apoferritin để tạo thành
ferritin. Khi lượng sắt trong huyết tương giảm thấp, sắt sẽ được giải phóng
khỏi ferritin.
- Bệnh lý liên quan: thiếu sắt sẽ gây thiếu máu nhược sắc, hồng cầu
nhỏ. Nguyên nhân thường do thiếu cung cấp, kém hấp thu, tăng nhu cầu (ví
dụ phụ nữ có thai) và chảy máu rỉ rả kéo dài.
1.2.4. Các chất khác
Ngoài các chất trên, quá trình sản sinh hồng cầu còn có sự tham gia của
các amino acid, các vitamin nhóm B khác và các yếu tố vi lượng như mangan,
cobalt…
1.3. Điều hòa sản sinh hồng cầu
Điều hòa sản sinh hồng cầu chủ yếu bằng cơ chế thể dịch:
- Erythropoietin:
+ Nguồn gốc: erythropoietin có nguồn gốc chủ yếu từ tế bào biểu mô
ống thận, phần nhỏ còn lại là từ gan.
+ Bản chất: glycoprotein.

+ Tác dụng: kích thích sự biệt hóa của các tế bào tiền thân dòng hồng
cầu và làm tăng quá trình tổng hợp hemoglobin trong các tế bào đã biệt hóa.
+ Điều hòa bài tiết: khi nồng độ oxy ở mô giảm như trong trường hợp
thiếu máu, lưu lượng máu thấp hoặc một bệnh lý hô hấp, sẽ kích thích thận
sản sinh erythropoietin do đó tăng tạo hồng cầu; và ngược lại khi oxy mô
tăng, ức chế tạo erythropoietin, do đó giảm tạo hồng cầu.
3
Hình 4.1.

Điều hòa bài tiết erythropoietin
- Một số hormon khác cũng tham gia vào quá trình tạo hồng cầu:
+ Testosteron của tinh hoàn: có thể làm tăng tạo erythropoietin hoặc
kích thích trực tiếp tế bào gốc biệt hóa thành tế bào dòng hồng cầu.
+ GH của tuyến yên: gián tiếp làm tăng tạo erythropoietin qua
somatomedin của gan.
+ LH của tuyến yên: làm tăng tạo hồng cầu vì tăng tiết testosteron và
tăng tạo erythropoietin.
+ Thyroxin của tuyến giáp: cũng làm tăng tạo erythropoietin.
2. ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA HỒNG CẦU
2.1 Hình dạng
Hồng cầu là những tế bào hình đĩa, lõm hai mặt. Đường kính của hồng
cầu khoảng 7-8µm, chiều dày ở trung tâm là 1µm và ở ngoại vi là 2-3µm. Đặc
điểm hình đĩa lõm hai mặt thích hợp với khả năng vận chuyển khí của hồng
cầu vì:
- Làm tăng diện tích tiếp xúc của hồng cầu.
- Làm tăng tốc độ khuếch tán khí.
- Làm cho hồng cầu có thể biến dạng dễ dàng khi xuyên qua các mao
mạch có đường kính rất nhỏ.
2.2. Thành phần cấu tạo
Hồng cầu là một tế bào nên về mặt cấu tạo cũng gồm hai thành phần:

màng hồng cầu và bào tương. Tuy nhiên, hồng cầu không có nhân, rất ít bào
quan nên bào tương chủ yếu chỉ chứa hemoglobin.
2.2.1. Màng hồng cầu
4
Màng hồng cầu có một số tính chất quan trọng sau:
- Màng hồng cầu là một màng bán thấm có nhiều lỗ nhỏ đường kính
khoảng 3-4A
0
: màng không cho các chất keo thấm qua (protein, lipid). Trong
khi tính thấm với các ion, muối khoáng cũng không đồng đều: các ion H
+
,
OH
-
, HCO
3
-
và một số ion hữu cơ thấm qua dễ dàng; các ion K
+
, Na
+
, Ca
++
thấm qua rất ít và chậm, hoặc không qua được (Ca
++
, Mg
++
).
+ Do tính thấm này, hồng cầu không thay đổi hình dạng khi đặt trong
dung dịch đẳng trương. Trong dung dịch ưu trương, nước trong hồng cầu

thấm ra ngoài, làm hồng cầu teo lại. Trong dung dịch nhược trương, nước từ
ngoài thấm vào hồng cầu làm hồng cầu trương to lên và cuối cùng vỡ ra gây
tan máu.
Hồng cầu bắt đầu vỡ Hồng cầu vỡ hoàn toàn
(sức bền tối thiểu) (sức bền tối đa)
Máu toàn phần NaCl 4,6
o
/
oo
NaCl 3,4
o
/
oo
Hồng cầu rửa NaCl 4,8
o
/
oo
NaCl 3,6
o
/
oo
Hồng cầu trong máu động mạch có độ bền cao hơn trong máu tĩnh
mạch.
+ Trong trường hợp số lỗ trên màng tăng (hồng cầu hình liềm), quá
trình trao đổi chất sẽ tăng, làm hồng cầu mất nhiều năng lượng nên dễ bị vỡ.
- Lớp áo glycocalyx của hồng cầu được bao bởi nhiều acid sialic: các
phân tử acid sialic tạo một lớp điện tích âm bên ngoài hồng cầu, đẩy các hồng
cầu làm chúng không dính vào nhau. Trong xét nghiệm đo tốc độ lắng máu,
hiện tượng này làm các hồng cầu lắng chậm. Tốc độ máu lắng bình thường ở
người trưởng thành sau 1 giờ: nam là <15mm, nữ là <20mm. Trong một số

trường hợp bệnh lý về cấu tạo màng, hoặc do dùng một số thuốc có khả năng
kết hợp với acid sialic, làm mất điện tích âm của một số hồng cầu nên các
hồng cầu dễ dính vào nhau; hoặc trong các trường hợp viêm, hàm lượng
protein thay đổi làm cho cân bằng điện tích protein thay đổi, nên điện tích
màng hồng cầu biến đổi theo, hồng cầu dễ bị kết dính lại với nhau hơn nên
tốc độ lắng máu sẽ tăng.
- Màng hồng cầu có rất nhiều kháng nguyên: kháng nguyên màng hồng
cầu chính là những phân tử protein xuyên màng, thường ở dưới dạng
glycoprotein. Người ta đã tìm thấy khoảng 30 loại kháng nguyên thường gặp
và hàng trăm kháng nguyên hiếm gặp khác. Các kháng nguyên màng hồng
5
cầu tạo thành nhóm máu thực hiện chức năng tương tác miễn dịch với các
kháng thể. Khi các kháng nguyên và kháng thể tương ứng gặp nhau sẽ gây ra
hiện tượng ngưng kết hồng cầu. Tuy nhiên, phần lớn kháng nguyên có tính
miễn dịch yếu nên không gây tai biến khi truyền máu, chúng thường được
dùng để nghiên cứu di truyền gen nhằm xác định huyết thống. Hai nhóm
kháng nguyên quan trọng có thể gây các phản ứng trong truyền máu là hệ
thống ABO và hệ thống Rh.
- Lớp trong cùng màng hồng cầu có nhiều protein ngoại vi bám dính:
đó là những sợi vi thể, những ống vi thể và những phân tử calmodulin, protein
gắn hemoglobin, các enzym. Các phân tử calmodulin điều hòa hoạt động các
enzym ở màng. Hệ thống enzym màng hồng cầu vô cùng phong phú và thực
hiện nhiều chức năng quan trọng khác nhau.
+ Các enzym tham gia chuyển hóa glucose tạo năng lượng cho hồng
cầu hoạt động như G6PD (glucose 6 phosphat dehydrogenase) và nhiều
enzym khác: hồng cầu là một tế bào chứa oxy nên các cấu trúc của nó thường
xuyên có nguy cơ bị oxy hóa, năng lượng sinh ra sẽ giúp bảo vệ hồng cầu. Do
vậy, giảm hoạt tính các enzym này sẽ dẫn đến giảm khả năng chống oxy hóa
và dập gốc tự do của hồng cầu.
+ Các enzym tham gia chuyển hóa 2,3-DPG (2,3 diphospho glycerat)

như pyruvate kinase, diphosphoglycerat mutase…: 2,3-DPG có ảnh hưởng
quan trọng đến ái lực của hemoglobin với oxy, do vậy giảm hoạt tính của các
enzym này sẽ dẫn đến thay đổi ái lực của hemoglobin với oxy.
+ Enzym tham gia vào quá trình vận chuyển CO
2
là CA (carbonic
anhydrase): CA trong hồng cầu làm tăng hàng nghìn lần vận tốc của phản ứng
giữa CO
2
và H
2
O tạo ra H
2
CO
3
. Nhờ đó, CO
2
được vận chuyển dưới dạng ion
bicarbonat (HCO
3
-
) từ các mô về phổi.
2.2.2. Hemoglobin
Hemoglobin (Hb) là một protein màu nên còn gọi là huyết sắc tố, trọng
lượng phân tử 68.000, có khả năng chuyên chở chất khí. Hemoglobin chiếm
khoảng 32-34% trọng lượng tươi và trên 90% trọng lượng khô của hồng cầu.
Nồng độ hemoglobin bình thường trung bình từ 14-16g/100mL máu. Mỗi
hồng cầu có chứa khoảng 34-36µg hemoglobin.
* Cấu tạo và phân loại hemoglobin:
Hemoglobin được cấu tạo gồm hai thành phần là 1 phân tử globin và 4

6
nhân hem.
- Hem: là một sắc tố đỏ giống nhau ở tất cả các loài.
- Phân tử globin: là một protein không màu khác nhau tùy theo loài.
Mỗi phân tử globin gồm 4 chuỗi polypeptid giống nhau thành từng cặp. Ở
người có 4 loại chuỗi polypeptid được ký hiệu là α, β, γ, δ; sự tổ hợp của các
chuỗi polypeptid này tạo ra các loại hemoglobin khác nhau. Bình thường,
hemoglobin chủ yếu ở người trưởng thành là HbA và hemoglobin ở bào thai
là HbF. Khi đứa trẻ ra đời HbF được thay thế dần thành HbA, tỷ lệ các loại
hemoglobin ở người trưởng thành bình thường: 95% HbA
1
(2 chuỗi α, 2 chuỗi
β), 2% HbA
2
(2 chuỗi α, 2 chuỗi δ), 2% HbF (2 chuỗi α, 2 chuỗi γ). Thứ tự
các acid amin trong chuỗi polypeptid của phân tử hemoglobin đã được xác
định trong mã gen di truyền.
Khi đột biến xảy ra trên các gen qui định trình tự các acid amin trong
chuỗi polypeptid của phân tử hemoglobin sẽ xảy ra sự sản xuất các
hemoglobin không bình thường, ví dụ HbS, HbC, HbE, HbJ… Có những loại
phân tử Hb bất thường nhưng không gây nguy hiểm, tuy nhiên có một số loại
gây ra các trường hợp bệnh lý, ví dụ: bệnh thiếu máu hồng cầu hình liềm do
trong máu có HbS, bệnh thalassemia do đột biến làm giảm tổng hợp chuỗi α
hoặc β.
* Sự tổng hợp hemoglobin:
Tổng hợp hemoglobin bắt đầu từ giai đoạn tiền nguyên hồng cầu đến
giai đoạn hồng cầu lưới. Quá trình tổng hợp diễn ra theo những bước sau:
- Acid acetic được biến đổi trong chu trình Krebs thành succinyl CoA.
- 2 succinyl CoA kết hợp với 2 phân tử glycin để thành lập hợp chất
pyrrol.

- 4 phân tử pyrrol sẽ kết hợp lại thành protoporphyrin IX.
- 1 phân tử protoporphyrin IX kết hợp với sắt để tạo thành phân tử
hem.
- 1 heme kết hợp với một chuỗi polypeptid của globin để tạo chuỗi
hemoglobin.
- 4 chuỗi hemoglobin kết hợp với nhau tạo thành hemoglobin.
* Sự thoái biến hemoglobin:
Đời sống trung bình của hồng cầu trong máu ngoại vi khoảng 120 ngày.
Các hồng cầu già sẽ bị phá vỡ trong hệ thống võng nội mô như gan, lách. Khi
7
đó hemoglobin được tách ra thành globin và hem.
- Globin được chuyển hóa như các protein khác trong cơ thể.
- Hem được phân hủy như sau: đầu tiên, sắt được tách ra và giải phóng
vào huyết tương, transferrin sẽ vận chuyển sắt đến tủy xương để tạo hồng cầu
mới, hoặc đến gan và các tổ chức khác để dự trữ dưới dạng ferritin. Phần còn
lại của heme biến thành bilirubin có màu vàng. Bilirubin vào máu và được
đưa đến gan. Tại gan, bilirubin kết hợp với acid glucuronic rồi bài tiết qua
mật ra ngoài.
2.3. Số lượng hồng cầu và các chỉ số hồng cầu
- Số lượng hồng cầu trong máu ngoại vi ở người Việt Nam trưởng
thành bình thường:
Nam : 5,11 M ± 0,3/mm
3
máu
Nữ : 4,6 M ± 0,25/mm
3
máu
Số lượng hồng cầu phụ thuộc vào lượng oxy đến mô, mức độ hoạt
động, lứa tuổi…Bình thường tủy xương sản xuất mỗi ngày từ 0,5-1% hồng
cầu, để thay thế 1% hồng cầu chết mỗi ngày. Khi có nhu cầu, tủy xương có

thể tăng sản xuất gấp 7-8 lần so với bình thường. Tình trạng tăng sinh đáp
ứng này được biểu hiện bằng số lượng tế bào dòng hồng cầu trong tủy tăng,
thời gian trưởng thành rút ngắn, đưa ra máu ngoại vi sớm những hồng cầu có
kích thước lớn, đôi khi còn đa sắc, kiềm (hồng cầu còn nhân). Số lượng hồng
cầu thay đổi trong các trường hợp bệnh lý:
+ Tăng trong bệnh đa hồng cầu, ngạt, mất nước nhiều. Ngoài ra, trong
nhiều bệnh lý của hệ tuần hoàn gây thiếu oxy ở mô, sẽ dẫn đến tăng sản xuất
hồng cầu để đảm bảo chức năng hô hấp.
+ Giảm trong thiếu máu do tán huyết, xuất huyết; suy thận; suy tủy…
- Tỷ lệ hồng cầu lưới: tỷ lệ này thường tăng trong thiếu máu tán huyết.
- Các chỉ số hồng cầu:
+ MCV (thể tích trung bình hồng cầu): là chỉ số đánh giá thể tích hồng
cầu, MCV thấp là hồng cầu nhỏ, MCV cao là hồng cầu to.
MCV(femtolit)=(hematocrit x 1000)/số lượng hồng cầu (triệu/mm
3
).
+ MCH (lượng Hb trung bình hồng cầu): là chỉ số đánh giá lượng Hb
bên trong hồng cầu. MCH thấp là nhược sắc, MCH cao có thể là ưu sắc.
MCH(pg)=[Hb (g/100mL) x 10]/số lượng hồng cầu (triệu/mm
3
)
+ MCHC (nồng độ Hb trung bình hồng cầu): là tỷ lệ giữa Hb và Hct.
8
MCHC thấp là nhược sắc, MCHC cao có thể là hồng cầu nhỏ.
MCHC(g/100mL)=Hb (g/100mL)/Hct
3. CHỨC NĂNG CỦA HỒNG CẦU
3.1 Chức năng hô hấp của hồng cầu
Chức năng hô hấp là chức năng chính của hồng cầu, được thực hiện
nhờ hemoglobin.
3.1.1. Hemoglobin vận chuyển oxy từ phổi đến các mô

- Sự tạo thành oxyhemoglobin ở phổi: sau khi hít vào, oxy được gắn
với Fe
++
trong thành phần hem, khi đó hemoglobin trở thành oxyhemoglobin
(HbO
2
). Phản ứng tạo thành oxyhemoglobin xảy ra rất nhanh trong hồng cầu
và tùy thuộc vào phân áp oxy.
Một phân tử Hb có thể gắn với 4 phân tử O
2
, sự gắn với một phân tử O
2
đầu tiên vào Hb làm tăng ái lực của Hb với phân tử O
2
tiếp theo. Lưu ý: đây là
phản ứng kết hợp O
2
vào nguyên tử Fe, không phải là phản ứng oxy hóa, nên
Fe vẫn có hóa trị 2 (Fe
++
).
Vì một phân tử Hb gắn tối đa 4 phân tử O
2
nên 1 gam Hb gắn được
1,34mL O
2
. Như vậy, trung bình 100mL máu, có 14-16g Hb, gắn được tối đa
khoảng 20mL O
2
.

- Sự phân ly oxyhemoglobin ở mô: khi đến mô, hemoglobin sẽ nhả oxy
cho mô. Phản ứng phân ly oxyhemoglobin xảy ra phụ thuộc ái lực của Hb với
O
2
. Các yếu tố làm giảm ái lực, tăng phân ly oxyhemoglobin để cung cấp O
2
cho mô:
+ Phân áp O
2
giảm.
+ CO
2
tăng, pH giảm.
+ Nhiệt độ tăng.
+ Chất 2,3-DPG (2,3-diphosphoglycerate) tăng trong hồng cầu (2,3-
DPG tăng khi lên vùng cao, khi hoạt động).
+ Hợp chất phosphat thải ra lúc hoạt động.
- Liên hệ bệnh lý:
+ Trong trường hợp máu tiếp xúc với nhiều loại thuốc khác nhau, và
nhiều tác nhân oxy hoá khác nhau, ion Fe
++
trở thành Fe
+++
, khi đó Hb sẽ
chuyển thành metHb không có khả năng vận chuyển O
2
nữa. MetHb có màu
sậm và chất này có nhiều trong tuần hoàn sẽ gây ra triệu chứng xanh tím
(cyanosis).
9

+ Khí CO (oxide carbon), một sản phẩm của sự cháy không hoàn toàn
carbon, có trong khói của những vụ cháy nổ, các động cơ nổ, than đốt có ái
lực rất mạnh với hemoglobin (gấp 250-350 lần so với oxy), rất dễ kết hợp với
hemoglobin trong máu để thành HbCO (carboxyhemoglobin) gây nên hội
chứng thiếu oxy ở máu, máu có màu đỏ anh đào. Tùy theo nồng độ khí CO
trong không khí mà nồng độ HbCO được hình thành trong máu sẽ tăng cao và
các triệu chứng nhiễm độc sẽ nặng dần lên.
3.1.2. Hemoglobin vận chuyển CO
2
từ mô về phổi
Một phần nhỏ, khoảng 20% CO
2
trong máu được kết hợp Hb để tạo
carbaminhemoglobin. CO
2
kết hợp vào Hb qua các nhóm amin (NH
2
) của
globin. Đây là phản ứng thuận nghịch còn gọi là phản ứng carbamin.
Hb + CO
2
⇔ HbCO
2
(R – NH
2
+ CO
2
⇔ R – NH – COOH)
Phản ứng thuận nghịch này xảy ra theo chiều nào tùy thuộc vào phân
áp CO

2
. Ở các mô, phân áp CO
2
cao, phản ứng xảy ra theo chiều thuận.
Ngược lại, ở phổi phân áp CO
2
thấp, HbCO
2
sẽ phân ly và CO
2
được thải ra
khỏi cơ thể qua các động tác hô hấp.
3.2. Chức năng miễn dịch hồng cầu
Hồng cầu có vai trò miễn dịch do:
- Giữ lấy các phức hợp kháng nguyên - kháng thể - bổ thể tạo thuận lợi
cho quá trình thực bào.
- Các kháng nguyên màng hồng cầu là đặc trưng của các nhóm máu.
3.3. Chức năng điều hòa thăng bằng toan kiềm
Hb trong hồng cầu là một hệ thống đệm quan trọng. Ngoài ra, hồng cầu
còn tạo ra HCO
3
-
trong quá trình vận chuyển CO
2
, do vậy đã góp phần tạo ra
hệ đệm bicarbonat.
3.4. Chức năng tạo áp suất keo
Những thành phần cấu tạo của hồng cầu chủ yếu là protein nên góp
phần tạo áp suất keo của máu.
4. NHÓM MÁU

4.1. Định nghĩa
Năm 1900, Landsteiner nhận thấy có sự ngưng kết hồng cầu khi trộn
máu của các cá thể trong cùng một loài với nhau. Từ đó ông đã phát hiện ra
có kháng nguyên trên màng hồng cầu và kháng thể trong huyết thanh và ông
10
đã phân loại nhóm hồng cầu trên người. Trong y học, người thường gọi nhóm
hồng cầu là nhóm máu.
Như vậy, nhóm máu là kháng nguyên nằm trên màng hồng cầu. Các
loại máu được phân nhóm dựa theo sự hiện diện của các kháng nguyên đó.
Các kháng nguyên thường có bản chất là glycoprotein.
Các kháng thể nhóm máu có thể là kháng thể tự nhiên (IgM) nhưng
cũng có thể là kháng thể miễn dịch (IgG). Các kháng thể miễn dịch khác với
kháng thể tự nhiên ở chỗ chỉ hình thành khi có tiếp xúc với kháng nguyên; có
khả năng khuếch tán mạnh, qua được màng nhau thai nên có thể từ mẹ sang
thai nhi; có hoạt tính mạnh ở 37
o
C với cường độ, hiệu giá và độ nhạy cao hơn
kháng thể tự nhiên, nếu bị kích thích lập lại (tiếp xúc kháng nguyên) thì hoạt
tính sẽ càng cao, nhưng nếu không lặp lại thì sẽ giảm dần đến mất hẳn.
4.2. Phân loại nhóm máu
Sau này, ngoài những kháng nguyên mà Landsteiner đã tìm ra, người ta
còn tìm thấy nhiều kháng nguyên khác có trên màng hồng cầu và từ đó phân
ra nhiều hệ thống nhóm máu: ABO, Rh, MNSs, Kell, Kidd, Duffy, Lewis…
Trong đó, hai hệ thống nhóm máu có nhiều ứng dụng trên lâm sàng là ABO
và Rh.
4.2.1. Các nhóm máu hệ ABO
* Các kháng nguyên của nhóm máu hệ ABO:
Các kháng nguyên nhóm hồng cầu hệ ABO là các chất
mucopolysaccharid gồm kháng nguyên A và B. Các kháng nguyên này là sự
thể hiện của các gen A và B trên bề mặt hồng cầu. Kháng nguyên A và B có

thể phát hiện được từ lúc bào thai 5-6 tuần. Trong suốt thời kỳ bào thai lượng
kháng nguyên tăng không đáng kể. Sau khi sinh, lượng kháng nguyên tăng
dần và đạt đến mức ổn định sau 2-4 năm và tồn tại hằng định suốt đời.
Dựa vào sự có mặt hay không có mặt của các kháng nguyên A và B
trên màng hồng cầu, Landsteiner phân loại thành 4 nhóm máu: A, B, AB và O
(bảng 4.1). Ở người Việt Nam, khoảng 48% là nhóm máu O, 28% nhóm máu
B, 20% nhóm máu A và 4% nhóm máu AB.
Các nhóm phụ của hệ ABO: nhóm máu A có thể chia làm 2 nhóm phụ
là A
1
và A
2
. Hồng cầu A
1
phản ứng mạnh với anti-A, còn hồng cầu A
2
phản
ứng yếu hơn. 80% nhóm máu A hay AB là thuộc loại A
1
và 20% là A
2
. Tương
tự, nhóm máu B cũng có các dưới nhóm. Tuy nhiên, việc xác định các các
11
nhóm phụ cũng ít có giá trị trong thực hành lâm sàng.
Bảng 4.1. Thành phần và genotype của nhóm máu hệ ABO
Nhóm
máu
Kháng nguyên trên
màng hồng cầu

Kháng thể trong
huyết thanh
Genotype
A A
Anti-B (
β
)
OA, AA
B B
Anti-A (
α
)
OB, BB
AB A, B Không có anti-A và
anti-B
AB
O Không có A và B Anti-A và anti-B OO
* Các kháng thể của nhóm máu hệ ABO:
Ở trẻ sơ sinh hầu như không tìm thấy sự có mặt các kháng thể nhóm
máu. 2-8 tháng sau, cơ thể trẻ bắt đầu sản xuất các kháng thể trong huyết
thanh với nồng độ tăng dần và đạt tối đa vào khoảng 8-10 tuổi. Sau đó, giảm
dần theo tuổi.
Hình 4.2. Nồng độ anti-A và anti-B trong huyết thanh người
(Nguồn: Guyton A.C. (2006), Textbook of Medical Physiology).
Các kháng thể anti-A, anti-B thường là kháng thể tự nhiên (IgM) nhưng
cũng có thể là kháng thể miễn dịch (IgG). Các kháng thể miễn dịch anti-A,
anti-B, mà đặc biệt là anti-A, có thể gặp ở một số người nhóm máu O, vì vậy
những người này được gọi là người có nhóm máu O nguy hiểm, không dùng
để truyền phổ thông như các nhóm máu O thông thường. Các kháng thể miễn
dịch cũng có thể gặp ở những người nhóm máu A hoặc B nhưng hiếm hơn.

12
* Phương pháp định nhóm máu hệ ABO:
- Nghiệm pháp hồng cầu (định nhóm xuôi): đây là nghiệm pháp trực
tiếp nhằm xác định kháng nguyên hệ ABO trên hồng cầu (Nghiệm pháp Beth-
Vincent). Nguyên tắc phương pháp này là sử dụng những kháng huyết thanh
đã chuẩn hóa, chứa kháng thể anti-A, anti-B và anti-A, B trộn với máu cần
thử, dựa trên phản ứng ngưng kết với hồng cầu để định nhóm máu người thử.
- Nghiệm pháp huyết thanh (định nhóm ngược): nguyên tắc là sử dụng
những hồng cầu chứa kháng nguyên đã biết, đem làm phản ứng ngưng kết với
huyết thanh của người cần định nhóm máu, nhằm xác định sự có mặt hay
không có mặt của kháng thể anti-A, anti-B trong huyết thanh. Từ đó suy ra
được nhóm máu người thử.
Để đảm bảo chính xác khi định nhóm máu ABO nên:
- Tiến hành đồng thời cả 2 nghiệm pháp nói trên và kết quả phải khớp
nhau, nếu không phải dùng thêm kỹ thuật cao hơn để xác định.
- Huyết thanh mẫu phải đủ anti-A, anti-B, anti-A, B. Hồng cầu mẫu
phải đủ hồng cầu A, B, O.
- Huyết thanh mẫu phải đạt đủ độ nhạy, độ mạnh và hiệu giá. Hồng cầu
mẫu phải là hồng cầu mới, đã rửa sạch 3 lần bằng nước muối sinh lý (NaCl
9‰) rồi pha thành huyền dịch 5-10‰.
Bảng 4.2. Bảng kết quả định nhóm máu hệ ABO
Nghiệm pháp hồng cầu
(dùng huyết thanh mẫu)
Nghiệm pháp huyết thanh
(dùng hồng cầu mẫu)
Nhóm
máu
Anti-A Anti-B Anti-A,B HC A HC B HC O ABO
+ - + - + - A
- + + + - - B

+ + + - - - AB
- - - + + - O
4.2.2. Hệ Rhesus
Năm 1904, Landstainer tìm thấy một loại kháng nguyên ở hồng cầu khỉ
Maccacus Rhesus, ông đặt tên cho kháng nguyên này là yếu tố Rh. Sau đó,
người ta nhận thấy ở một số người hồng cầu chứa đựng yếu tố Rh, và ở một
số người khác thì không. Người ta qui ước, máu người nào hồng cầu có chứa
yếu tố Rh gọi là Rh
+
, còn không thì gọi là Rh
-
. Yếu tố Rh là một hệ thống gồm
13 kháng nguyên trong đó yếu tố D là mạnh nhất, có ý nghĩa quan trọng trong
truyền máu. Người Việt Nam hầu hết là Rh
+
(99,96%).
13
Các kháng thể hệ Rh không có sẵn trong máu, chỉ xuất hiện khi có sự
tiếp xúc với kháng nguyên. Vì vậy, người ta gọi kháng thể hệ Rh là kháng thể
miễn dịch. Trong các kháng thể của hệ Rh, anti-D là kháng thể quan trọng
nhất còn các kháng thể khác yếu hơn nhiều và mức độ gây phản ứng cũng rất
thấp. Anti-D là một loại IgG.
Những phản ứng ngưng kết do Rh thường xảy ra trong hai trường hợp:
- Người có máu Rh
-
nhận nhiều lần liên tục máu Rh
+
.
- Mẹ có nhóm máu Rh
-

nhiều lần mang thai có máu Rh
+
.
4.2.3. Các hệ thống nhóm máu khác
Nhiều loại protein khác trên màng hồng cầu tạo các kháng nguyên
ngoài A, B, O, Rh dẫn đến hình thành các nhóm máu như: MN, Kell, Lewis,
Duffy, Kidd, Doego, Lutheran… Những yếu tố kháng nguyên này không có
tính nguyên cao, tức là gây ra phản ứng truyền máu rất yếu, chậm hoặc thậm
chí không có phản ứng.
4.3. Ứng dụng nhóm máu trong truyền máu
4.3.1. Chỉ định
Chỉ định truyền máu trong những trường hợp: giảm thể tích máu, điều
trị thiếu máu, cung cấp các thành phần của máu…
4.3.2. Nguyên tắc truyền máu
Từ những hiểu biết về nhóm máu trong hệ thống nhóm máu, người ta
đã đề ra những nguyên tắc để tránh xảy ra những tai biến trong truyền máu:
- Phải truyền máu cùng nhóm tức là không để cho kháng nguyên và
kháng thể tương ứng gặp nhau trong máu người nhận. Ví dụ, A truyền cho
A, B truyền cho B…
- Nhưng nhiều khi không có máu cùng nhóm để truyền, nên người ta có
thể cho truyền khác nhóm theo nguyên tắc: kháng nguyên trên màng hồng
cầu người cho không bị ngưng kết bởi kháng thể tương ứng trong huyết
tương người nhận. Như vậy, có 2 trường hợp đáng lưu ý:
+ Nhóm O không có kháng nguyên trên màng hồng cầu, nên không bị
kháng thể trong huyết tương người nhận làm ngưng kết. Do đó nhóm O có thể
truyền cho cả 3 nhóm và cho chính nó.
+ Nhóm AB không có kháng thể trong huyết tương, nên không thể
ngưng kết bất kỳ hồng cầu người cho nào. Do đó nhóm AB có thể nhận máu
của cả 3 nhóm và của chính nó.
14





Hình 4.3. Sơ đồ truyền máu
Khi truyền máu khác nhóm, nguyên tắc không đề cặp đến vấn đề kháng
thể trong huyết tương người cho gây ngưng kết hồng cầu người nhận. Nguyên
nhân là vì kháng thể được truyền vào với lượng rất nhỏ, nên bị pha loãng
ngay trong máu người nhận, không đủ ngưng kết hồng cầu người nhận. Ngoài
ra, kháng thể còn có thể bị trung hòa bởi những kháng nguyên có trong các tế
bào và các dịch của cơ thể. Tuy nhiên, cần lưu ý khi truyền máu khác nhóm,
mỗi lần truyền không được vượt quá 250mL và phải truyền thật chậm.
4.3.3. Phản ứng chéo
Phản ứng chéo là một kỹ thuật rất cần thiết áp dụng trước khi truyền
máu dù đã thử nhóm máu hệ ABO và Rh. Kỹ thuật như sau:
- Lấy một giọt hồng cầu hoặc máu người cho và một ít huyết thanh của
máu người nhận trộn đều với nhau, quan sát kỹ xem hiện tượng ngưng kết xảy
ra không.
- Rồi trộn lẫn dịch hồng cầu của người nhận với huyết thanh người cho,
quan sát xem có hiện tượng ngưng kết không.
Nếu không có hiện tượng ngưng kết xảy ra, có thể xem như hai máu
không tương kỵ và truyền được. Nếu thấy ngưng kết là hai loại máu tương kỵ
nhau không truyền được. Phương pháp này tránh nhầm lẫn khi truyền máu và
phát hiện những kháng thể bất thường.
4.3.4. Phản ứng trong truyền máu
- Những phản ứng không gây tán huyết: sốt, rét run, dị ứng, lây truyền
các mầm bệnh qua máu truyền vào.
- Những phản ứng gây tán huyết: phản ứng gây tán huyết trong truyền
máu có thể do 2 nguyên nhân:
+ Nguyên nhân miễn dịch: không hòa hợp kháng nguyên và kháng thể

thuộc hệ nhóm máu hồng cầu; sẽ gây ra phản ứng kết hợp giữa kháng nguyên
15
O
αβ
AB
o
A
β
B
α
và kháng thể tương ứng trong máu tuần hoàn người nhận, dẫn tới tiêu hủy
hồng cầu (tán huyết).
+ Nguyên nhân ngoài miễn dịch: có thể do điều kiện bảo quản máu
không tốt (nhiệt độ), dung dịch giữ máu không đủ nồng độ đường dextrose,
dung dịch chống đông pha chế không đúng nồng độ và pH quy định. Ngoài
ra, hồng cầu cũng có thể bị vỡ khi truyền với áp lực quá cao. Ví dụ: khi truyền
máu qua một kim quá nhỏ với tốc độ nhanh, hồng cầu có thể bị phá hủy nếu
mắc bệnh thiếu men hoặc những trạng thái có myoglobin máu, myoglobin
niệu từ trước.
SINH LÝ BẠCH CẦU VÀ HỆ THỐNG MIỄN DỊCH
Mục tiêu:
1. Trình bày được quá trình sản sinh bạch cầu.
2. Xác định được số lượng và công thức bạch cầu.
3. Phân biệt được các loại bạch cầu.
4. Phân tích được các đặc tính và chức năng của từng loại bạch cầu.
5. Nắm được khái niệm về miễn dịch và hệ thống miễn dịch.
1. QUÁ TRÌNH SẢN SINH BẠCH CẦU
1.1 Nguồn gốc
Bạch cầu có nguồn gốc từ các tế bào máu gốc vạn năng trong tủy
xương, các tế bào này sẽ biệt hóa thành 2 dòng:

- Dòng tủy: các tế bào tiền thân dòng tủy phát triển thành dòng hồng
cầu, dòng tiểu cầu và ba dòng bạch cầu là dòng hạt-mono để tạo thành bạch
cầu hạt trung tính và bạch cầu mono (sẽ phát triển thành đại thực bào), dòng ái
toan để tạo thành bạch cầu hạt ưa acid, dòng ái kiềm để tạo thành bạch cầu hạt
ưa base.
- Dòng lympho: các tế bào tiền thân dòng lympho phát triển thành hai
dòng là bạch cầu lympho T và bạch cầu lympho B. Hầu hết bạch cầu lympho
rời khỏi tủy xương trước khi chín. Bạch cầu lympho T trưởng thành trong
tuyến ức, trong khi bạch cầu lympho B phát triển và trưởng thành trong các
mô bạch huyết ở ruột, lách và tủy xương.
16
Hình 4.4. Quá trình sản sinh các dòng tế bào máu
1.2. Điều hòa sản sinh bạch cầu
Điều hòa sản sinh bạch cầu được thực hiện bằng cơ chế thể dịch với các
yếu tố do chính bạch cầu lympho, mono và đại thực bào chế tạo ra trong quá
trình tham gia các phản ứng miễn dịch. Các yếu tố này sẽ kiểm soát quá trình
tăng sinh, biệt hóa của các dòng bạch cầu:
+ Các yếu tố phát triển đa dòng như interleukin-3 (IL-3) kích thích sự
phát triển của dòng tủy.
+ Các yếu tố phát triển đơn dòng: G-CSF kích thích sự phát triển của
dòng bạch cầu hạt, M-CSF kích thích sự phát triển của dòng mono, E-CSF
kích thích sự phát triển của dòng bạch cầu hạt ưa acid. Nhiều loại lymphokin
(interleukin) và monokin khác nhau cũng kích thích sự phát triển của các
dòng bạch cầu hạt, mono, lympho.
2. ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA BẠCH CẦU
2.1. Số lượng và đời sống bạch cầu
Số lượng bạch cầu ở người trưởng thành bình thường khoảng 4.000-
10.000/mm
3
máu (4-10 x 10

9
/L).
Ở trẻ em và phụ nữ có thai số lượng bạch cầu cao hơn. Số lượng bạch
cầu tăng trong các bệnh nhiễm khuẩn cấp tính và đặc biệt tăng cao trong bệnh
bạch cầu cấp hoặc mạn tính. Số lượng bạch cầu giảm trong nhiễm độc, nhiễm
xạ, trong bệnh suy tủy.
Đời sống bạch cầu thay đổi theo từng loại. Đối với bạch cầu hạt, sau
khi được phóng thích từ tủy xương sẽ lưu hành trong máu trong 4-8 giờ, sau
17
đó di chuyển vào trong mô và tồn tại thêm khoảng 4-5 ngày. Nếu mô bị nhiễm
khuẩn, bạch cầu hạt sẽ được huy động đến thực hiện chức năng và tự tiêu hủy
sau đó thì đời sống có thể ngắn hơn, thậm chí chỉ còn vài giờ. Bạch cầu mono
cũng có thời gian lưu hành trong máu ngoại vi ngắn khoảng 10-20 giờ, trước
khi đi xuyên mao mạch vào mô. Sau khi vào mô, bạch cầu mono phát triển
thành đại thực bào trong mô, có thể sống nhiều tháng, nhiều năm cho đến khi
tự tiêu hủy trong quá trình thực bào. Tế bào lympho từ các hạch bạch huyết và
các mô lymphoid xâm nhập vào hệ tuần hoàn, sau vài giờ chúng vào mô, tái
xâm nhập bạch huyết rồi trở vào máu, và cứ như thế tế bào lympho liên tục
tuần hoàn đi khắp cơ thể. Đời sống của bạch cầu lympho thay đổi từ nhiều
tuần đến nhiều tháng tùy thuộc vào nhu cầu của cơ thể đối với tế bào này.
2.2. Hình dạng bạch cầu
Căn cứ vào hình dáng, kích thước trung bình, sự bắt màu khác nhau của
nhân và các loại hạt trong bào tương khi nhuộm giemsa để nhận dạng các loại
bạch cầu.
- Ba loại bạch cầu có hạt khi nhuộm: kích thước khoảng 10-15µm
+ Bạch cầu hạt trung tính (Neutrophil): nhân chưa chia múi hoặc chia
nhiều múi màu tím đen. Bạch cầu càng già, nhân càng nhiều múi. Bào tương
có nhiều hạt rất nhỏ, mịn đều nhau, bắt màu hồng tím. Hầu hết các hạt này là
các tiêu thể chứa enzym thuỷ phân. Ngoài ra còn các hạt chứa các chất oxy
hoá mạnh có tác dụng tiêu diệt vi khuẩn.

+ Bạch cầu hạt ưa acid (Eosinophil): nhân thường chia hai múi như
hình mắt kính màu tím. Bào tương có những hạt to, tròn đều nhau bắt màu đỏ
cam. Các hạt này có chứa nhiều enzym peroxidase và phosphatase acid.
+ Bạch cầu hạt ưa kiềm (Basophil): nhân thường có giới hạn không rõ,
đôi khi cho ta hình ảnh như tế bào bị vỡ nát hay hình hoa thị màu tím đen.
Bào tương có những hạt to nhỏ không đều nhau nằm đè cả lên nhân, bắt màu
xanh đen. Các hạt này có chứa nhiều heparin, histamin và một lượng nhỏ
bradykinin, serotonin.
- Hai loại bạch cầu không có hạt khi nhuộm:
+ Bạch cầu mono (Monocyte): là bạch cầu lớn khoảng 20-25µm, nhân
hình hạt đậu nằm lệch về một phía, bào tương bắt màu xám tro, không hạt
hoặc có ít hạt azur.
+ Bạch cầu lympho (Lymphocyte): loại nhỏ (9-12µm) và loại to (12-18
18
µm). Nhân to tròn, màu tím sẫm chiếm gần hết tế bào. Bào tương có màu
xanh lơ bao quanh nhân, không có hạt hoặc có ít hạt azur.
2.3. Công thức bạch cầu
Có nhiều loại công thức bạch cầu khác nhau, tùy theo mục đích thăm
dò nghiên cứu, người ta có thể dùng những tiêu chuẩn khác nhau để phân loại
công thức bạch cầu. Có hai loại công thức bạch cầu thường được sử dụng:
2.3.1. Công thức bạch cầu phổ thông
Công thức bạch cầu phổ thông là tỉ lệ phần trăm các loại bạch cầu trong
máu. Tuy nhiên, công thức này chưa nói lên giá trị tuyệt đối do đó cần được
so sánh với tổng số bạch cầu để suy ra số lượng của từng loại bạch cầu. Ở
người Việt Nam trưởng thành bình thường, công thức bạch cầu phổ thông và
trị số tuyệt đối của từng loại như sau:
Bảng 4.2. Công thức bạch cầu phổ thông và trị số tuyệt đối ở người trưởng
thành bình thường
Loại bạch cầu Công thức Số lượng/mm
3

Bạch cầu hạt trung tính (Neutrophil) 60-66% 1700-7000
Bạch cầu hạt ưa acid (Eosinophil) 9-11% 50-500
Bạch cầu hạt ưa base (Basophil) 0,5-1% 10-50
Bạch cầu mono (Monocyte) 2-2,5% 1000-4000
Bạch cầu lympho (Lymphocyte) 20-25% 100-1000
Công thức bạch cầu phổ thông giúp định hướng nguyên nhân gây bệnh.
Ví dụ:
- Bạch cầu hạt trung tính: tăng trong nhiễm trùng cấp như viêm ruột
thừa, viêm phổi; giảm trong nhiễm độc kim loại nặng như Pb, As, suy tủy,
nhiễm siêu vi (quai bị, cúm, sởi…).
- Bạch cầu hạt ưa acid: tăng trong dị ứng, bệnh ký sinh trùng, các bệnh
ngoài da…; giảm trong kích động, chấn thương tâm lý, dùng thuốc ACTH,
cortisol…
- Bạch cầu hạt ưa base: tăng trong bệnh bạch cầu dòng tủy; giảm trong
dị ứng cấp, dùng thuốc ACTH.
- Bạch cầu mono: tăng trong bễnh nhiễm khuẩn mạn tính như lao.
- Bạch cầu lympho: tăng trong ung thư máu, nhiễm khuẩn máu, ho gà,
sởi, lao…; giảm trong thương hàn nặng, sốt phát ban…
2.3.2. Công thức Arneth
19
Arneth nghiên cứu bạch cầu hạt trung tính nhận thấy bạch cầu càng già
nhân càng chia nhiều múi. Vì vậy công thức này giúp thăm dò tốc độ sinh sản
và phá hủy của bạch cầu.
Công thức Arneth của người Việt Nam trưởng thành bình thường là:
Nhân có 1 múi: 2 – 4,5%
Nhân có 2 múi: 21 – 29%
Nhân có 3 múi: 36 – 42%
Nhân có 4 múi: 21 – 26%
Nhân có 5 múi: 3 – 10%
Giá trị lâm sàng:

Nếu có ít bạch cầu chia múi: bệnh bạch cầu cấp.
Nếu bạch cầu 2 múi tăng nhiều: nhiễm trùng.
Nếu bạch cầu 3 múi nhiều: bình thường.
Nếu bạch cầu 5 múi tăng: thiếu máu ác tính.
2.4. Các đặc tính của bạch cầu
2.4.1. Tính xuyên mạch
Bạch cầu có thể chui qua khe hở giữa các tế bào nội mô của mao mạch
để vào các tổ chức quanh mao mạch, mặc dù những lỗ đó có kích thước nhỏ
hơn bạch cầu nhiều lần. Riêng các bạch cầu mono sau khi xuyên mạch sẽ hợp
bào lại thành đại thực bào.
2.4.2. Tính chuyển động bằng chân giả
Mỗi khi có kích thích tại một nơi nào đó trong cơ thể, bạch cầu chuyển
động bằng cách thò tua bào tương, gọi là chân giả, di chuyển đến tập trung tại
địa điểm bị kích thích. Bạch cầu có thể chuyển động với vận tốc trên
40µm/phút.
2.4.3 Tính hóa ứng động
Một số chất khác nhau do mô tiết ra, có khả năng hấp dẫn bạch cầu di
chuyển gọi là tính hóa ứng động (chemotaxis). Hóa ứng động có thể dương
tính khi hấp dẫn bạch cầu di chuyển tới gần, hay âm tính khi điều khiển bạch
cầu tránh xa. Những sản phẩm huỷ hoại trong mô viêm hoặc độc tố của vi
khuẩn thường là những chất gây hóa ứng động dương.
20
Hình 4.5.

Sự xuyên mạch và hóa ứng động dương của bạch cầu
(Nguồn: Guyton A.C. (2006), Textbook of Medical Physiology, 11
th
ed.,
W.B.Saunders Co, Philadelphia).
2.3.4. Tính nhận biết và loại bỏ vật lạ

Các bạch cầu có nhiệm vụ quan trọng là tham gia đáp ứng miễn dịch
bảo vệ cơ thể, do đó chúng có đặc tính nhận biết vào loại bỏ các vật lạ bằng
nhiều cách khác nhau.
* Thực bào:
Không phải bạch cầu nào cũng có khả năng thực bào. Khả năng thực
bào lớn nhất thuộc về đại thực bào, tiếp theo là bạch cầu hạt trung tính (tiểu
thực bào), bạch cầu hạt ưa acid cũng có khả năng thực bào nhưng yếu hơn.
Quá trình thực bào gồm các giai đoạn:
- Bắt giữ vật lạ: những nơi viêm là nơi tập trung nhiều bạch cầu, tại nơi
đó bạch cầu thò chân giả bắt giữ các vi khuẩn, mảnh tế bào chết và cả các hạt
bụi bằng cơ chế nhập bào. Khả năng bắt giữ vật lạ của bạch cầu sẽ tăng lên
khi vật lạ có bề mặt thô nhám, gồ ghề, tích điện trái dấu hoặc bị opsonin hóa.
Opsonin hóa là hiện tượng vật lạ được bao bằng bổ thể và kháng thể, khi đó
khả năng thực bào có thể tăng lên gấp hàng trăm lần.
21
- Tiêu diệt vi khuẩn: bạch cầu bắt giữ vật lạ trong các túi thực bào.
Trước khi tiêu hóa vật lạ, các tác nhân oxy hóa mạnh như hydrogen peroxid
(H
2
O
2
), superoxid (O
2-
), hydroxyl có trong bạch cầu sẽ thấm vào túi thực bào
và giết chết vi khuẩn bằng cách oxy hóa những chất hữu cơ của vi khuẩn.
- Tiêu hóa vật lạ: túi thực bào sẽ hòa màng với lysosom thành túi tiêu
hóa, các enzym thủy phân trong lysosom sẽ phân cắt các chất được hấp thu,
các chất dinh dưỡng được đưa vào bào tương tế bào, các chất cặn bã được đào
thải bằng cơ chế xuất bào. Tuy nhiên, khả năng tiêu hóa còn phụ thuộc vào
việc vật lạ có cấu trúc phù hợp với hệ enzym của bạch cầu hay không, nói

cách khác không phải tất cả các vật lạ được bắt giữ đều bị tiêu hóa.
* Phản ứng kháng nguyên-kháng thể:
Hoạt động của bạch cầu lympho, bạch cầu hạt ưa kiềm là những ví dụ
điển hình của đặc tính tham gia phản ứng kháng nguyên-kháng thể để chống
lại các vật lạ với nhiều hình thức khác nhau bằng các sản phẩm của bạch cầu.
3. CHỨC NĂNG CỦA BẠCH CẦU
3.1. Chức năng của bạch cầu hạt trung tính
Chức năng chính của bạch cầu hạt trung tính là tham gia đáp ứng miễn
dịch tự nhiên (miễn dịch không đặc hiệu) bằng hoạt động thực bào góp phần
tạo phản ứng viêm cấp.
Từ những giờ đầu của phản ứng viêm, khi các tác nhân như vi khuẩn
gây tổn thương và hủy hoại tổ chức mô, sẽ dẫn đến tình trạng ứ trệ tuần tuần
hoàn tại chỗ tạo điều kiện cho các bạch cầu hạt trung tính xuyên mạch và tập
trung đến vùng bị tổn thương bằng cử động amip. Trong 6-12 giờ đầu, bạch
cầu hạt trung tính giữ vai trò chính để chống đỡ với tác nhân gây bệnh bằng
cách thực bào chúng.
Bạch cầu hạt trung tính vận động và thực bào rất tích cực nhưng không
chọn lọc (không đặc hiệu). Chúng có thể tiêu hóa nhiều loại vi khuẩn, mô tổn
thương và các sản phẩm của mô tổn thương, các sợi fibrin của cục máu đông.
Sau khi thực bào chúng sẽ bị nhiễm độc và chết dần. Mỗi bạch cầu hạt trung
tính có thể thực bào tối đa khoảng 5-20 vi khuẩn.
3.2. Chức năng của bạch cầu hạt ưa acid
- Thực bào: bạch cầu hạt ưa acid thực bào yếu hơn so với bạch cầu hạt
trung tính. Chúng thường được hấp dẫn theo hóa ứng động dương đến những
nơi đã xảy ra phản ứng kháng nguyên - kháng thể để thực bào và tiêu hóa các
22
phức hợp kháng nguyên – kháng thể sau khi quá trình miễn dịch đã hoàn
thành.
- Khử độc các protein lạ trước khi chúng có thể gây hại cho cơ thể:
bạch cầu ưa acid thường tập trung ở niêm mạc đường tiêu hóa và hô hấp nơi

mà các protein lạ thường xâm nhập vào cơ thể. Ngoài ra, bạch cầu hạt ưa acid
cũng tăng trong phản ứng dị ứng vì phản ứng dị ứng có các protein lạ.
- Chống ký sinh trùng: bạch cầu hạt ưa acid gắn vào ký sinh trùng , giải
phóng ra những chất diệt ký sinh trùng như men thủy phân, polypeptid để giết
ấu trùng của ký sinh trùng.
- Làm tan cục máu đông: bạch cầu hạt ưa acid di chuyển đến cục máu
đông, tại đó chúng giải phóng ra chất plasminogen, chất này được hoạt hóa
thành plasmin, làm tiêu các sợi fibrin dẫn đến tan cục máu đông.
3.3. Chức năng của bạch cầu hạt ưa base
Bạch cầu hạt ưa base hiếm gặp trong máu và có cấu trúc rất giống các
dưỡng bào cư trú trong các mô liên kết ngoài mạch máu. Bạch cầu hạt ưa base
và dưỡng bào không có khả năng vận động và thực bào, nhưng chúng có
những chức năng sau:
- Giải phóng heparin vào máu để ngăn ngừa quá trình đông máu trong
lòng mạch.
- Giải phóng histamin và một lượng nhỏ bradykinin, serotonin tham gia
vào các phản ứng dị ứng: globulin miễn dịch gây ra phản ứng dị ứng là IgE có
khuynh hướng gắn trên màng của bạch cầu hạt ưa base và dưỡng bào. Khi có
một kháng nguyên đặc hiệu phản ứng với kháng thể IgE sẽ làm bạch cầu hạt
ưa base và dưỡng bào vỡ ra và giải phóng histamin, bradykinin gây dãn mạch,
tăng tính thấm thành mạch.
3.4. Chức năng của bạch cầu mono-đại thực bào
Sau khi được sinh ra ở tủy xương, bạch cầu mono đi vào máu bằng
hình thức xuyên mạch. Trong máu, bạch cầu mono là những tế bào có kích
thước lớn nhất và chưa trưởng thành nên chúng không có khả năng tấn công
và phá hủy các tác nhân gây bệnh. Bạch cầu mono chỉ tồn tại trong máu
khoảng vài giờ rồi đi vào các mô. Ở mô, nhiều bạch cầu mono nhanh chóng
hợp bào lại thành đại thực bào: tế bào phồng to lên, kích thước có thể tăng
gấp 5 lần, đa nhân, trong bào tương chứa một lượng lớn lysosom, ty lạp thể
làm cho bào tương trông giống một cái túi chứa đầy hạt, tế bào thời kỳ này

23
được gọi là đại thực bào (macrophage) là dạng trưởng thành của mono bào.
Các đại thực bào này sẽ gắn với mô gọi là đại thực bào cố định với những tên
gọi khác nhau như tế bào Kupffer (đại thực bào ở gan), tế bào bụi (đại thực
bào phế nang), hủy cốt bào (đại thực bào ở xương)… Chúng ở tại mô hàng
tháng hoặc hàng năm, cho đến khi có các kích thích thích hợp chúng sẽ tách
khỏi mô để trở thành đại thực bào lưu động, đi đến vùng viêm nhiễm theo cơ
chế hóa ứng động. Chức năng của đại thực bào là tham gia đáp ứng miễn dịch
không đặc hiệu:
- Thực bào: cũng giống như bạch cầu hạt trung tính, đại thực bào có
khả năng thực bào không chọn lọc các tác nhân gây bệnh, hạt bụi, mô tổn
thương và các sản phẩm của mô tổn thương trong phản ứng viêm không đặc
hiệu… Tuy nhiên khả năng thực bào của đại thực bào có những điểm khác
bạch cầu hạt trung tính:
+ Khả năng thực bào lớn hơn rất nhiều so với bạch cầu hạt trung tính.
Đại thực bào có khả năng thực bào khoảng 100 vi khuẩn và kích thước của
những vật bị thực bào cũng lớn hơn rất nhiều như hồng cầu già, bạch cầu hạt
trung tính bị chết, ký sinh trùng sốt rét, các mô hoại tử…
+ Trong vài phút đầu của phản ứng viêm, đại thực bào ở mô đã tấn
công vi khuẩn nhưng số lượng đại thực bào lúc này còn ít. Cùng lúc đó, một
lượng lớn mono bào từ máu vào mô và biến đổi nhanh chóng thành đại thực
bào xâm nhập vào vùng tổn thương. Như vậy, giai đoạn sau của hiện tượng
viêm, từ giờ thứ 10-12, các bạch cầu hạt trung tính không còn hiệu quả thực
bào như các đại thực bào nữa. Đại thực bào cũng đóng vai trò quan trọng
trong những bệnh nhiễm khuẩn mạn tính.
- Khuếch đại phản ứng viêm không đặc hiệu: dưới sự kích thích của các
yếu tố gây viêm, đại thực bào sẽ phóng thích một loạt các cytokin như
interleukin-1 (IL-1), yếu tố hoại tử khối u α (Tumor Necrosis Factor α: TNF
α), IL-6, IL-8, IL-12. Các yếu tố này có tác dụng khuếch đại phản ứng viêm
tại chỗ và toàn thân.

24
- Trình diện kháng nguyên: thực bào là một phần của đáp ứng miễn
dịch không đặc hiệu nhưng đồng thời nó cũng là bước khởi đầu cho đáp ứng
miễn dịch đặc hiệu mà trong đó đại thực bào đóng vai trò quan trọng. Sau khi
bắt giữ và tiêu hóa tác nhân xâm nhập, đại thực bào sẽ xử lý và trình diện
kháng nguyên của tác nhân đó, nói cách khác là nhận diện và truyền các thông
tin về kháng nguyên cho các bạch cầu lympho B và T cư trú tại các hạch bạch
huyết gần khu vực kháng nguyên xâm nhập. Quá trình trình diện kháng
nguyên rất phức tạp, được thực hiện nhờ phức hợp hòa hợp mô lớp II (major
histocompatibility complex class II: MHC II). MCH II của đại thực bào sẽ
gắn với kháng nguyên lạ và đưa nó ra bề mặt đại thực bào để giới thiệu với
các bạch cầu lympho.
3.5. Chức năng của bạch cầu lympho
Bạch cầu lympho là những tế bào tham gia đáp ứng miễn dịch đặc hiệu
với hai loại: lympho B - đáp ứng miễn dịch dịch thể và lympho T - đáp ứng
miễn dịch qua trung gian tế bào.
3.5.1. Chức năng của bạch cầu lympho B
- Quá trình biệt hóa: khi đại thực bào giới thiệu các sản phẩm kháng
nguyên cho các lympho B ở gần, những lympho B mẫn cảm đặc hiệu với các
kháng nguyên này sẽ tăng sinh và chuyển dạng thành nguyên bào lympho.
+ Một số nguyên bào lympho biệt hóa thành nguyên tương bào
(plasmoblast). Nguyên tương bào phân chia rất nhanh và biệt hóa thành tương
bào là những tế bào sản xuất ra kháng thể globulin với tốc độ rất nhanh (2000
phân tử/giây). Kháng thể được bài tiết vào bạch huyết rồi vào máu.
+ Một số nguyên bào lympho phân chia và biệt hóa thành các lympho
mới, đó là các tế bào nhớ, các tế bào này khu trú trong tổ chức bạch huyết ở
dạng không hoạt động cho đến khi chúng bị kích thích bởi lần xâm nhập thứ
hai cùng một kháng nguyên. Khi đó, kháng thể được sản xuất ra nhanh hơn và
mạnh hơn rất nhiều so với lần đầu.
- Đáp ứng miễn dịch dịch thể: các kháng thể được sản xuất ra, vào máu

đến nơi có các kháng nguyên, nó có thể trực tiếp hoặc gián tiếp tấn công các
tác nhân lạ:
+ Tác dụng trực tiếp: kháng thể có thể làm bất hoạt tác nhân xâm nhập
bằng các hình thức: ngưng kết, kết tủa, trung hòa, làm tan kháng nguyên. Tuy
nhiên, tác dụng trực tiếp này không đủ mạnh để bảo vệ cơ thể.
25

×