Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Nợ xấu trong hệ thống tổ chức tín dụng Việt Nam hiện nay – Thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (255.03 KB, 30 trang )

Mục lục
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG VÀ HÌNH VẼ
3
LỜI MỞ ĐẦU
Phần 1 TỔNG QUAN VỀ NỢ XẤU CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG
1.1 Các khái niệm về nợ xấu
1.2 Những tác động tiêu cực của nợ xấu
1.3 Sự cần thiết của việc xử lý nợ xấu
Phần 2 THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP XỬ LÝ NỢ XẤU TRONG HỆ
THỐNG TCTD VIỆT NAM
2.1 Thực trạng nợ xấu của hệ thống các TCTD
2.2 Nguyên nhân dẫn đến nợ xấu
2.3 Cần chặn ngay đà tăng của nợ xấu
2.4 Giải pháp xử lý nợ xấu
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt Giải thích
BCTC Báo cáo tài chính
DN Doanh nghiệp
DPRR Dự phòng rủi ro
NH Ngân hàng
NHNN Ngân hàng nhà nước
TCTD Tổ chức tín dụng
DANH MỤC CÁC BẢNG VÀ HÌNH VẼ
Bảng 1 : Tỷ lệ nợ xấu của một số NH tại thời điểm 30/09/2012
Bảng 2 : Tỷ lệ nợ có khả năng mất vốn trên dư nợ cho vay khách hàng của
một số NH tại thời điểm 30/09/2012
LỜI MỞ ĐẦU
Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu


từ năm 2008 đến nay, nền kinh tế nước ta đã chịu tác động tiêu cực và kinh tế vĩ
mô có nhiều yếu tố không thuận lợi. Hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp gặp rất nhiều khó khăn. Vì vậy, nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng
có chiều hướng gia tăng nhanh. Nợ xấu đang được ví von như là “cục máu đông”
làm tắc nghẽn “dòng máu” tín dụng trong cơ thể nền kinh tế Việt Nam hiện nay.
Cần phải xác định được thực trạng, nguyên nhân và các biện pháp xử lý nợ xấu.
Chỉ có xử lý tốt nợ xấu mới làm cho tình hình kinh tế nước ta mới trở nên lành
mạnh và tăng trưởng.
Chính vì lý do đó mà em chọn đề tài: “Nợ xấu trong hệ thống tổ chức tín
dụng Việt Nam hiện nay – Thực trạng và giải pháp”. Trên cơ sở nghiên cứu và
phát triển lý luận chung về ngân hàng thương mại, rủi ro tín dụng, nợ xấu. Em sẽ áp
dụng vào phân tích tình hình tài chính, thực trạng dư nợ tính dụng, nợ xấu để làm rõ
một số tồn tại và có một số kiến nghị, giải pháp góp phần xử lý tình trạng nợ xấu
trong các tổ chức tín dụng hiện nay.
 Mục tiêu đề tài
Đưa ra các giải pháp xử lý tình trạng nợ xấu trong hệ thống các tổ chức tín
dụng.
 Đối tượng nghiên cứu
Bảng báo cáo tài chính, bảng cân đối kế toán của các ngân hang thương mại
giai đoạn từ năm 2008 đến nay.
 Phương pháp nghiên cứu
Thu thập số liệu, thông tin. Phân tích số liệu và thông tin thu thập được,từ đó
rút ra các kết luận về đề tài.
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, bài nghiên cứu được kết cấu thành 2
chương bao gồm :
Phần 1: Tổng quan về nợ xấu của các tổ chức tín dụng
Phần 2: Thực trạng và giải pháp xử lý nợ xấu trong hệ thống tổ chức tín dung
Việt Nam hiện nay
1
Phần 1

TỔNG QUAN VỀ NỢ XẤU CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG
1.1 Các khái niệm về nợ xấu
1.1.1 Rủi ro tín dụng
Tín dụng là quan hệ vay mượn dưới dạng tiền tệ có hoàn trả gốc và lãi giữa
một bên có vốn và một bên thiếu vốn.
Rủi ro tín dụng là tổn thất có thể xảy ra trong hoạt động của TCTD do khách
hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo
cam kết vay. Nguyên nhân là từ những tình huống không phát hiện được khi cho
vay và phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng.
Về bản chất thì rủi ro tín dụng là tình huống mang tính xác suất, không mong
muốn của cả hai phía – người cho vay và người vay, mà khi những tình huống đó
phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng thì sẽ dẫn đến một kết cục tất
yếu là mục tiêu cuối cùng trong giao kết hợp đồng không đạt được như mong muốn.
1.1.2 Phân loại nợ và trích lập dự phòng
Theo Thông tư Số: 15/2010/TT-NHNN thì căn cứ vào thực trạng tài chính của
khách hàng và/hoặc thời hạn thanh toán nợ gốc và lãi vay, TCTD thực hiện phân
loại nợ theo năm nhóm như sau:
a) Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm:
- Các khoản nợ trong hạn;
- Các khoản nợ quá hạn dưới 10 ngày.
b) Nhóm 2 (Nợ cần chú ý) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn từ 10 ngày đến dưới 30 ngày;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu.
c) Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn từ 30 ngày đến dưới 90 ngày;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 30 ngày theo
thời hạn trả nợ đã được cơ cấu lại lần đầu;
2
- Các khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng trả
lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng.

d) Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ mất vốn) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn từ 90 ngày đến dưới 180 ngày;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 30 ngày đến dưới
90 ngày theo thời hạn trả nợ đã được cơ cấu lại lần đầu;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai.
đ) Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn từ 180 ngày trở lên;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên
theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời hạn trả
nợ được cơ cấu lại lần thứ hai;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên, kể cả chưa bị quá
hạn hoặc đã quá hạn.
Tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể đối với các nhóm nợ nêu trên như sau:
a) Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn): 0%;
b) Nhóm 2 (Nợ cần chú ý): 2%;
c) Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn): 25%;
d) Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ mất vốn): 50%;
đ) Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn): 100%.
1.1.3 Nợ xấu
Nợ xấu là các khoản nợ thuộc các nhóm nợ dưới tiêu chuẩn bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn từ 30 ngày đến dưới 90 ngày;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 30 ngày theo
thời hạn trả nợ đã được cơ cấu lại lần đầu;
- Các khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng trả
lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng.
3
Nhóm nợ nghi ngờ mất vốn bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn từ 90 ngày đến dưới 180 ngày;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 30 ngày đến dưới

90 ngày theo thời hạn trả nợ đã được cơ cấu lại lần đầu;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai.
Nhóm nợ có khả năng mất vốn bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn từ 180 ngày trở lên;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên
theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời hạn trả
nợ được cơ cấu lại lần thứ hai;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên, kể cả chưa bị quá
hạn hoặc đã quá hạn.
1.2 Những tác động tiêu cực của nợ xấu
1.2.1 Đối với tình hình kinh tế - xã hội
Tình trạng nợ xấu có thể làm cho cả nền kinh tế rơi vào tình trạng tắc nghẽn, trì
trệ. Dù sức mua suy giảm, hàng tồn kho tăng, lãng phí đầu tư công, tác động của
khủng hoảng trên thế giới là những yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu gây ra khó
khăn cho nền kinh tế nhưng nợ xấu là một trong những nguyên nhân chủ yếu. Đây
là một trong những điểm nghẽn lớn nhất tác động xấu đến tăng trưởng kinh tế, làm
cho sản xuất, kinh doanh và thị trường gặp khó khăn, DN phải thu hẹp sản xuất,
thậm chí nhiều DN bị ngừng hoạt động, phá sản. Nợ xấu nếu không được giải quyết
mà cứ tăng lên mỗi ngày sẽ dần dần gây tê liệt nền kinh tế.
Hơn nữa nợ xấu kéo dài khiến DN giảm qui mô, cắt giảm lao động, kéo theo là
hiện tượng thất nghiệp của công nhân. Nó cũng tạo ra những bất ổn cho xã hội. Nạn
thất nghiệp ra tăng, nhu cầu trợ cấp cũng tăng lên, ảnh hưởng tiêu cực đến tình hình
xã hội.
4
Ngoài tác động đến tình hình kinh tế xã hội trong nước, nợ xấu còn tác động
đến tình hình chính trị, quan hệ ngoại giao với nước ngoài. Nợ xấu làm hệ số tín
nhiệm của một quốc gia giảm xuống. Các tổ chức xếp hạng quốc tế sẽ đánh giá và
xếp loại tín nhiệm NH, tín nhiệm quốc gia. Khi tín nhiệm bị hạ xuống thì tất nhiên
sẽ ảnh hưởng tới mối quan hệ ngoại giao, rất khó để có thể tiếp cận được với các

nguồn hộ trợ vay vốn trong tương lai.
1.2.2 Đối với các TCTD
Nợ xấu tiếp tục trở thành gánh nặng của nền kinh tế, nếu không có biện pháp
xử lý hữu hiệu sẽ rất nguy hiểm không chỉ cho riêng hệ thống NH, mà cho cả nền
kinh tế. Bởi nợ xấu đang là rào cản lớn nhất khiến vốn tín dụng NH không đến được
với DN.
Nợ xấu khiến các TCTD phải gia tăng DPRR. Việc gia tăng nợ xấu sẽ kéo theo
việc NH phải tăng cường trích lập DPRR cho các khoản nợ này. Đặc biệt, khi có
thêm nhiều thông tin về tình hình kinh tế vĩ mô, sản xuất kinh doanh của DN
chuyển biến tiêu cực, những khoản nợ mới đến hạn nhưng DN không có khả năng
trả nợ khiến nợ xấu gia tăng và có xu hướng phải di chuyển lên các nhóm nợ cao
hơn, đồng nghĩa với việc NH sẽ phải trích lập dự phòng nhiều hơn.
Giảm tỷ lệ lợi nhuận trên doanh thu. Rủi ro nợ xấu liên quan trực tiếp tới chỉ
tiêu lợi nhuận của NH. Với tỷ lệ nợ xấu tăng mạnh, việc trích lập dự phòng khiến
lợi nhuận của NH bị suy giảm. Bên cạnh đó, không phải NH nào cũng công bố con
số nợ xấu thực tế của đơn vị mình, nợ xấu tiềm ẩn của NH được đánh giá là khá lớn
so với con số công bố. Theo đó, số liệu tuyệt đối về lợi nhuận có thể tăng nhưng tỷ
lệ lợi nhuận trên doanh thu tại 1 số NH chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng.
Rủi ro thanh khoản, kỳ hạn, rủi ro đổ vỡ hệ thống gia tăng. Nợ xấu sẽ kéo
theo rủi ro vỡ thanh khoản, vỡ cơ cấu kỳ hạn của NH trong trường hợp không
thu hồi được nợ. Ngoài ra, những NH có tỷ lệ nợ xấu cao cũng sẽ bị ảnh hưởng
không nhỏ đến uy tín và danh tiếng, đồng thời, khi những NH này gặp khó khăn
nhất định thì khả năng xảy ra đổ vỡ cũng cao hơn những NH khác. Do những
mối liên hệ trên thị trường tài chính nói chung và thị trường vay mượn tiền giữa
các NH nói riêng, khi bất kỳ một NH nào gặp những rủi ro trên cũng đều có thể
ảnh hưởng tới cả hệ thống.
5
Nợ xấu đã tác động trực tiếp đến tốc độ tăng trưởng tín dụng của các NH. Tăng
trưởng tín dụng sẽ ở mức thấp khi nợ xấu kéo dài. Bên cạnh việc khó xử lý tài sản
đảm bảo nợ vay, điều kiện thị trường đang đối mặt với những khó khăn, hàng tồn

kho tăng, làm cho tình hình tài chính của DN đang yếu dần, không còn khả năng trả
nợ NH. Hầu hết tài sản đảm bảo cho các khoản vay là bất động sản. Do vậy khi thị
trường bất động sản đóng băng sẽ làm ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng xử lý tài
sản đảm bảo. Dẫn đến việc gia tăng nợ xấu và DN khó có thể tiếp cận thêm nguồn
vốn mới, khi nợ cũ chưa xử lý xong Những nhân tố đó tác động trực tiếp lên sự
tăng trưởng của thị trường tín dụng.
1.2.3 Đối với DN
Nợ xấu kéo dài sẽ làm cho tình hình tài chính của DN gặp rất nhiều khó khăn.
DN khó có thể tiếp cận được với các nguồn vốn. Bên cạnh đó thì hàng tồn kho vẫn
tiếp tục ra tăng. Do đó sẽ có rất nhiều DN ngừng họat động và giải thể. Đây là một
vấn đề rất nguy hiểm, dù trong số này có nhiều dạng như DN dừng đầu tư do trái
ngành nghề, ảnh hưởng từ bất ổn kinh tế vĩ mô, phá sản tự nguyện hoặc trốn thuế,
né thuế.
Nợ xấu chính là lý do khiến các NH không dám tiếp tục cho vay, dù nguồn vốn
có thể đáp ứng được. NH phải thận trọng hơn với các khoản vay để tránh các khoản
nợ xấu tiếp theo, dẫn tới hậu quả là các NH có tiền mà không cho vay được, còn
nền kinh tế thì vẫn tiếp tục khát vốn. DN thì kiệt quệ chờ vốn.
1.3 Sự cần thiết của việc xử lý nợ xấu
Vấn đề nợ xấu chính là một nút thắt lớn của nền kinh tế. Giải quyết được vấn
đề này mới có thể khai thông bế tắc cho nền kinh tế, giúp ổn định kinh tế vĩ mô và
thúc đẩy sự phục hồi của tăng trưởng kinh tế. Tất yếu khách quan phải giải quyết
vấn đề này.
Thứ nhất: Việc giải quyết nợ xấu chậm sẽ dẫn đến tình trạng các bảng cân đối
kế toán của các NH vẫn chiếm tỷ lệ nợ xấu cao, đồng nghĩa với việc NH sẽ không
thể cho vay và các DN không tiếp cận được vốn để tiến hành hoạt động sản xuất
kinh doanh. Tình trạng này kéo dài sẽ gây ảnh hưởng xấu tới sự phát triển kinh tế
của đất nước trong những năm tiếp theo.
6
Thứ hai: Khi nợ xấu càng kéo dài thì các chi phí bỏ ra về mặt hữu hình và vô
hình đối với xử lý nợ xấu càng lớn. Về mặt hữu hình là việc các tài sản cầm cố tại

ngân hàng sẽ ngày càng bị hao mòn, hư hỏng, giá trị và giá trị sử dụng sẽ mất dần,
nếu nợ xấu được xử lý nhanh thì các tài sản này sẽ được đem ra sử dụng nhanh
chóng, tạo nên giá trị và giá trị thặng dư cho nền kinh tế. Về mặt vô hình khi quá
trình xử lý nợ xấu kéo dài, dẫn tới hệ số tín nhiệm của quốc gia sẽ khó mà duy trì
được mức tín nhiệm như hiện nay, điều này gây ảnh hưởng không nhỏ tới môi
trường đầu tư.
Thứ ba: Tỷ lệ nợ xấu đối với lĩnh vực cho vay bất động sản thương mại và
bất động sản dân dụng mặc dù trong các báo cáo là không thật sự lớn, tuy nhiên có
thể vì lý do nào đó trong phương án kinh doanh, số tiền cho vay lẽ ra được rót vào
các lĩnh vực sản xuất nhưng kỳ thực lại được rót vào bất động sản hoặc lĩnh vực
phi sản xuất.
Tình trạng bất động sản xuống giá càng làm cho nhu cầu đối với bất động sản
giảm mạnh, hàng tồn kho về bất động sản ngày càng tăng lên, các DN bất động sản
bắt buộc phải liên tục hạ giá bán nhưng vẫn không thể bán được, quá trình này diễn
ra liên tục trong thời gian dài dẫn tới hiện tượng bán tháo, tuột dốc không phanh,
khi đã dẫn tới tình trạng bán tháo mà vẫn không có người mua thì số tiền mà các
DN bất động sản bán được cũng không thể nào trả được hết nợ gốc cho NH.
Thứ tư: Giải quyết nợ xấu nhanh sẽ cải thiện được năng lực tài chính của các
NH, năng lực tài chính của các NH tốt thì việc điều hành chính sách tiền tệ mới dễ
dàng và hoạt động cung cấp tín dụng cho nền kinh tế mới thực sự tốt.

7
Phần 2
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP XỬ LÝ NỢ XẤU TRONG HỆ THỐNG
TCTD VIỆT NAM
2.1 Thực trạng nợ xấu của hệ thống các TCTD
2.1.1 Quy mô nợ xấu của hệ thống các TCTD
Bản chất của nợ xấu NH là do khách hàng vay vốn sử dụng vốn vay không
hiệu quả, và nó thường phát sinh sau một chu kỳ vay vốn, thậm chí sau một thời
gian dài. Nợ xấu hiện nay của các TCTD được tích lũy từ trước đây do môi trường

kinh doanh xấu đi kể từ năm 2008, khách hàng vay gặp nhiều khó khăn trong hoạt
động kinh doanh sản xuất, vì vậy nợ xấu của hệ thống các TCTD có chiều hướng
gia tăng nhanh trong thời gian gần đây. Trong bối cảnh dư nợ tín dụng tăng ở mức
thấp từ đầu năm 2012 trở lại đây cho thấy nợ xấu phát sinh mới chủ yếu là các
khoản tín dụng đã được cấp trước đây, đặc biệt là trong giai đoạn tăng trưởng tín
dụng nhanh.
NHNNcho biết, đến thời điểm cuối tháng 10, nợ xấu của toàn hệ thống chiếm
khoảng 8,8 – 10% trên tổng dư nợ, tương đương khoảng 202.000 tỷ đồng và 85%
các khoản nợ này đều được bảo đảm bằng tài sản và tốc độ tăng nợ xấu đã chậm lại
kể từ sau tháng 6 cho tới nay. Cuối năm 2011, tỷ lệ nợ xấu mới dừng ở mức 3,05%
Còn theo BCTC của các NH thương mại, tỷ lệ nợ xấu của các NH đều tăng
trong 9 tháng qua. Nợ xấu đặc biệt tăng mạnh tại các NH như của BaoVietBank từ
4,56% lên 6,13%; của NaviBank từ 2,92% lên 3,97%; Vietcombank từ 2% lên
3,21%; của ACB từ 0,9% lên 2,1%; của Sacombank từ 0,57% lên 1,4%.
Bên cạnh đó là một số NH đã giữ được mức tăng lệ xấu chậm, như ở
Techcombank từ 2,82% lên 2,94%; của KienLongBank từ 2,77% lên 2,78%. Riêng
NH PGBank giảm được nợ xấu từ 3,06% cuối năm 2011 xuống còn 2,96%.
8
Bảng 1 : Tỷ lệ nợ xấu của một số NH tại thời điểm 30/09/2012
Đơn vị: %
(Nguồn: BCTC của một số NH)
Theo quy định của NHNN thì nợ xấu là nợ thuộc các nhóm 3, nhóm 4, nhóm 5,
trong đó nợ nhóm 5 là nợ được đánh giá không còn khả năng thu hồi, mất vốn.
Theo công bố thì trong số 202.000 tỷ đồng nợ xấu, có 117.700 tỷ đồng bị phân vào
nhóm 5. Đáng lưu ý trong bức tranh nợ xấu của các NH thời gian qua là nhóm nợ có
khả năng mất vốn (nợ nhóm 5) mà NH phải trích DPRR 100%. Theo báo cáo tài
chính, hiện nay tỷ lệ nợ có khả năng mất vốn trên dư nợ cho vay khách hàng của
BaoVietBank đang ở mức cao nhất với 2,93%, tiếp đến là của NaviBank với 2,5%;
LienVietPostBank với 1,46%; của Vietcombank là 1,42%; của KienLongBank là
1,36%; của BIDV là 1,22%; của MB là 1,07%.

Nợ có khả năng mất vốn của các NH khác trong khi đó cũng xấp xỉ mức 1%
trên dư nợ cho vay khách hàng như của Techcombank 0,99%; Vietinbank là 0,86%;
PGBank 0,83%; của ACB là 0,81%;
9
Bảng 2 Tỷ lệ nợ có khả năng mất vốn trên dư nợ cho vay khách hàng của một
số NH tại thời điểm 30/09/2012
Đơn vị: %
(Nguồn: BCTC của một số NH)
Về con số cụ thể, NH BIDV có khoản nợ có khả năng mất vốn cao nhất, lên tới
3.984,4 tỷ đồng tại thời điểm cuối tháng 9 năm 2012; của Vietcombank cũng hơn
3.200 tỷ; của Vietinbank là 2.578 tỷ đồng. NH ACB hiện có 829,1 tỷ đồng nợ có
khả năng mất vốn; MB có 629,4 tỷ; Techcombank là 610,8 tỷ…
10
So với thời điểm cuối năm 2011, nợ có khả năng mất vốn của các NH đặc biệt
tăng rất mạnh, ngoại trừ KienLongBank giảm gần 4%. Có thể kể đến một số cái tên
như LienVietPostBank tăng đến 53 lần so với cuối 2011 (từ 4,48 tỷ VND lên 243,8
tỷ); của BaoVietBank tăng hơn 6 lần từ 23,5 tỷ VND lên hơn 170 tỷ VND. Một số
khác cũng có mức tăng nợ nhóm 5 khá mạnh như tại Vietinbank 1,82 lần; của ACB
gần 1,8 lần; Techcombank là 1,7 lần; Sacombank hơn 1,5 lần. NH Navibank tăng
nợ nhóm 5 thêm 79%; Vietcombank tăng nợ nhóm 5 thêm 41%; của MB tăng
33,5%. Tuy nhiên, triển vọng nợ có khả năng mất vốn của các NH sẽ tăng chậm lại
trong quý 4 năm nay khi ngay từ quý 3 vừa qua, các NH đã bắt đầu đẩy mạnh tự xử
lý nợ xấu bằng cách tăng đòi nợ, giãn nợ, khoanh nợ cho các đối tượng khách hàng.
2.1.2 Chưa có sự thống nhất về con số nợ xấu
Mặc dù, quy định hiện hành của Việt Nam về phân loại nợ về cơ bản là phù
hợp với nguyên tắc phân loại nợ của nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Tuy
nhiên, một số tổ chức quốc tế đánh giá nợ xấu của Việt Nam trên 10% tổng dư nợ
tín dụng. Chẳng hạn, Tổ chức xếp hạng tín nhiệm Fitch Ratings cho rằng nợ xấu
của các TCTD Việt Nam là khoảng 13% tổng dư nợ tín dụng. Các tổ chức quốc tế
đưa ra kết quả ước đoán nợ xấu toàn hệ thống TCTD có thể dựa vào hệ thống tiêu

chí phân loại nợ riêng có hoặc trên kết quả đánh giá của một số NH được chọn mẫu
hoặc ngoại suy có tính đến xếp loại tín nhiệm quốc gia.
Trên thực tế không có chuẩn mực quốc tế về phân loại nợ. Việc sử dụng các
hệ thống tiêu chí phân loại nợ khác nhau sẽ cho kết quả nợ xấu không giống nhau.
Do có sự khác biệt giữa các hệ thống phân loại nợ và trích lập DPRR, vì vậy khi xác
định, đo lường, phân tích, đánh giá nợ xấu phải xem xét, hiểu được hệ thống phân
loại nợ và trích lập DPRR được sử dụng. Việc so sánh số liệu nợ xấu dựa trên các
tiêu chí phân loại nợ khác nhau không có nhiều ý nghĩa và có thể dẫn đến nhận định
không hợp lý. Mọi sự so sánh nợ xấu phải bảo đảm tính đồng nhất về hệ thống tiêu
chí phân loại nợ. Sự khác nhau về phương pháp phân loại nợ và trích lập DPRR làm
cho việc so sánh mức độ yếu kém hay mức độ lành mạnh giữa các NH hay các hệ
thống NH trở lên khó khăn hơn.
Theo công bố của NHNN, nợ xấu cuối năm 2010 là 2,16%, cuối năm 2011 là
3,1%, và đến ngày 30-6-2012 là 4,47%. Đó là số liệu tổng hợp từ báo cáo của các
TCTD. Trong khi đó, theo tính toán của NHNN, nợ xấu vào thời điểm cuối tháng 9
năm 2012 lên tới 8,8% -10%, tương đương 202.000 tỉ đồng.
11
Những con số của NHNN mới công bố một lần nữa lại cách rất xa so với con
số mà các TCTD đưa ra trong BCTC. Chẳng hạn, theo BCTC của NH Á Châu
(ACB), nợ xấu của NH này vào ngày 30-9 là 2.124 tỉ đồng, tương đương 2,08%;
của Sacombank (STB) là 1.214 tỉ đồng, tương đương 1,43%. Hai NH khác là
Vietcombank và Techcombank, tỷ lệ nợ xấu cũng chỉ ở mức 3,17% và 3,09%.
Một số NH khác cũng có tỷ lệ nợ xấu tính đến ngày 30-9 ở mức thấp. Chẳng
hạn, BIDV có có tỷ lệ nợ xấu là 3,29%, còn Vietinbank (CTG) là 2,45%. Số liệu
tính toán cho thấy tỷ lệ nợ xấu trung bình của tám NH lớn là 2,64%. Tỷ lệ này thấp
hơn rất nhiều so với con số 8-10% mà NHNN mới công bố.
Do không có chuẩn mực quốc tế về phân loại nợ và trích lập DPRR, vì vậy các
cơ quan quản lý, giám sát NH thường ban hành quy định khung về phân loại nợ và
trích lập DPRR phù hợp với đặc điểm cụ thể của quốc gia.
Tình trạng tồn tại nhiều con số về nợ xấu không phải là vấn đề riêng có ở Việt

Nam vì những nguyên nhân nói trên. Tuy nhiên, số liệu nợ xấu chính thức của toàn
hệ thống NH do cơ quan quản lý, giám sát NH công bố và được chấp nhận do được
giải thích rõ ràng và pháp luật quy định cụ thể về phương pháp phân loại nợ.
Để các TCTD thực hiện đúng quy định phân loại nợ và báo cáo cho NHNN
số liệu nợ xấu chính xác hơn, hiện nay NHNN đang triển khai các giải pháp tăng
cường hiệu quả công tác thanh tra, giám sát hoạt động cấp tín dụng và phát triển
mạnh cơ sở dữ liệu chung về khách hàng có quan hệ tín dụng với các TCTD, đồng
thời có biện pháp yêu cầu TCTD điều chỉnh số liệu nợ xấu phù hợp với số liệu nợ
xấu và bằng chứng qua thanh tra, giám sát.
2.1.3 Một số yếu tố giảm thiểu rủi ro tín dụng cho các TCTD
Mặc dù các TCTD Việt Nam có tỷ lệ nợ xấu/tổng dư nợ tín dụng khá lớn (8,8%
- 10% theo số liệu của NHNN) và đang có chiều hướng tăng nhưng vẫn còn thấp hơn
so với nhiều nước (Albania:18,8%; Latvia:17,5%; Lithuania:16,4%;
Montenegro:15,5%; Romania:14,1%; Serbia:18,8%; Kazakhstan: 30,8%; Tajikistan:
14,9%; Ukraine: 14,7%; Pakistan: 16,2%). Tỷ lệ nợ xấu của Việt Nam thấp hơn một
số nước trong khu vực và quốc tế tại thời điểm Chính phủ phải xử lý. Bản chất nợ
xấu hiện nay của các TCTD có nhiều yếu tố góp phần làm giảm thiểu tổn thất, cụ thể:
Thứ nhất, đến cuối tháng 5/2012 các TCTD đã trích lập DPRR được 67,3 ngàn
tỷ đồng, chiếm 57,18% nợ xấu.
12
Thứ hai, phần lớn nợ xấu được bảo đảm bằng tài sản, nhờ đó TCTD có thể thu
hồi được một phần hoặc toàn bộ khoản nợ xấu từ việc bán/ xử lý tài sản bảo đảm.
Tính đến cuối tháng 3/2012, trong tổng nợ xấu của các TCTD có 84,16% được
bảo đảm bằng tài sản và 15,84% không được bảo đảm bằng tài sản. Tổng giá trị tài
sản bảo đảm bằng 134,8% tổng nợ xấu.
Tỷ lệ nợ xấu là một chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng và an toàn hoạt động
tín dụng. Điều quan trọng nhất là nợ xấu phải được phân loại, ghi nhận và trích lập
DPRR đầy đủ theo mức độ rủi ro, đồng thời có biện pháp bảo đảm tiền vay (tài sản
cầm cố, thế chấp, bảo lãnh,…). Không nên tuyệt đối hoá tỷ lệ nợ xấu cao hay thấp
hoặc chỉ dựa vào mức DPRR đã trích lập trong quá trình đánh giá chất lượng tín

dụng và xác định khả năng tổn thất tín dụng. Tỷ lệ nợ xấu thấp nhưng không được
trích lập DPRR đầy đủ và thiếu tài sản bảo đảm thì có thể nguy hiểm hơn là tỷ lệ nợ
xấu cao hơn nhưng được trích lập DPRR và có tài sản bảo đảm đầy đủ.
2.2 Nguyên nhân dẫn đến nợ xấu
2.2.1 Nguyên nhân thuộc môi trường kinh doanh
Căn nguyên lớn nhất gây ra nợ xấu là khủng hoảng kinh tế. Kể từ cuối năm
2008, nền kinh tế chịu tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính và suy
thoái kinh tế toàn cầu, sau đó là vấn đề lạm phát cao và hiện nay là suy giảm tốc độ
tăng trưởng kinh tế trong nước, do đó môi trường kinh doanh và hoạt động NH gặp
nhiều khó khăn làm cho chất lượng tín dụng suy giảm và nợ xấu tăng nhanh hơn tốc
độ tăng trưởng tín dụng. Trong giai đoạn 2008-2011, tốc độ tăng trưởng dư nợ tín
dụng bình quân 26,56% nhưng tốc độ tăng trưởng nợ xấu bình quân 51%. Tốc độ
tăng trưởng dư nợ tín dụng từ năm 2011 chậm lại đáng kể, đặc biệt là 5 tháng đầu
năm 2012 dư nợ tín dụng không tăng nhưng nợ xấu tăng tới 45,5% do tình hình
kinh doanh và tài chính của các DN suy giảm mạnh.
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế và tổng cầu chậm lại từ năm 2011: Năm 2011,
tăng trưởng kinh tế 5,89%. Trong 6 tháng đầu năm 2012, tăng trưởng kinh tế ước
chỉ đạt 4,38% so với cùng kỳ năm 2011 (cùng kỳ năm 2011 tăng 5,57%).
13
- Chỉ số sản xuất công nghiệp tăng chậm, thấp hơn so với cùng kỳ các năm
trước: Chỉ số sản xuất công nghiệp năm 2011 tăng 6,8% so với năm 2010. Tính
chung 06 tháng đầu năm 2012, chỉ số sản xuất công nghiệp chỉ tăng 4,5% so với
cùng kỳ năm trước, chỉ bằng 45% mức tăng 6 tháng đầu năm 2011 (9,7%). Giá trị
sản xuất xây dựng trong 6 tháng đầu năm 2012 theo giá so sánh năm 1994 chỉ bằng
99,6% so với cùng kỳ năm 2011. Ngành xây dựng gặp nhiều khó khăn do hoạt động
đầu tư tăng chậm, thị trường bất động sản trầm lắng kéo dài. Nhiều công trình, dự
án xây dựng giãn tiến độ hoặc dừng khởi công làm cho nhu cầu nguyên vật liệu xây
dựng không tăng cao, nhiều sản phẩm tiêu thụ khó khăn (như xi măng, sắt thép,…).
- Chỉ số tiêu thụ của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng thấp: Chỉ số tiêu
thụ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo năm 2011 tăng 6,2% so với năm 2010.

Trong 5 tháng đầu năm 2012, chỉ số tiêu thụ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo
chỉ tăng 3,6% so với cùng kỳ năm trước.
- Tiêu dùng cá nhân tăng chậm: Tổng mức hàng hoá bán lẻ và doanh thu dịch
vụ năm 2011 tăng 24,2% so với năm 2010 và chỉ tăng 4,7% nếu loại trừ đi yếu tố
giá. Tính chung 06 tháng đầu năm 2012, tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu
dịch vụ tiêu dùng ước tính tăng 19,5% so với cùng kỳ năm trước, nếu loại trừ yếu tố
giá thì chỉ tăng 6,5%, thấp hơn nhiều so với cùng kỳ các năm trước.
- Chỉ số tồn kho tăng mạnh và ở mức cao so với cùng kỳ các năm trước. Cuối
năm 2011, chỉ số tồn kho của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 23% so với
cùng kỳ năm 2010. Tại thời điểm 01/6/2012, chỉ số hàng tồn kho của ngành công
nghiệp chế biến tăng 26% so với cùng kỳ năm trước. Điều này phản ánh khả năng
tiêu thụ sản phẩm cũng như sức cầu tiêu dùng của nền kinh tế đang ở mức rất yếu
dẫn đến đọng vốn trong sản xuất kinh doanh và làm tăng nợ xấu của các TCTD.
2.2.2 Nguyên nhân từ các TCTD
14
Ở nguyên nhân chủ quan, công tác quản trị, điều hành hoạt động tín dụng của
một số TCTD còn bất cập. Như việc thẩm định, quyết định cho vay, kiểm tra sử
dụng vốn vay, giám sát tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng chưa tuân thủ
đúng quy định. Công tác phân tích, đánh giá, phân loại khách hàng, lĩnh vực kinh
doanh chưa sát với thị trường để có biện pháp ứng xử kịp thời. Việc đánh giá tài sản
đảm bảo cao hơn giá trị thực tế, nhận tài sản đảm bảo không đầy đủ tính pháp lý, có
tranh chấp dẫn tới tình trạng khó xử lý, phát mại hoặc phát mại được thì giá trị thu
hồi thấp. Một số TCTD áp dụng chiến lược tăng trưởng tín dụng nhanh trong khi
năng lực quản trị rủi ro còn nhiều hạn chế và chậm được cải thiện, đặc biệt là các
NH thương mại cổ phần chuyển đổi từ nông thôn lên đô thị dẫn đến nợ xấu tăng
nhanh hơn dư nợ tín dụng Một bộ phận không nhỏ vốn tín dụng và nhiều TCTD
tập trung đầu tư vào các lĩnh vực tiềm ẩn nhiều rủi ro, chẳng hạn bất động sản,
chứng khoán. Khi các lĩnh vực này, đặc biệt là thị trường bất động sản đóng băng và
giá bất động sản giảm sâu kéo theo nợ xấu cho vay lĩnh vực này tăng nhanh.
Nguyên nhân tiếp theo được nhìn nhận là trong những năm gần đây, các

TCTD, nhất là các TCTD cổ phần liên tục tăng vốn điều lệ dẫn đến sức ép tăng
trưởng tín dụng để đảm bảo hiệu quả kinh doanh. Nhiều TCTD có tốc độ tăng
trưởng tín dụng hàng năm quá cao (trên 50%), trong khi khả năng về quản trị rủi ro,
giám sát vốn vay còn bất cập.
Bên cạnh đó, năng lực thanh tra, giám sát của NHNNtrong một thời gian dài
còn hạn chế, chưa phát huy hiệu lực, hiệu quả trong việc phát hiện, ngăn chặn và xử
lý kịp thời các vi phạm và rủi ro trong hoạt động tín dụng của các TCTD, nhất là
các vi phạm quy định về hạn chế cấp tín dụng và việc đầu tư quá mức vào một số
lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro cao.
15
NH cũng có trách nhiệm trong vấn đề xem xét hồ sơ của đối tượng vay… Bởi
mấy năm trước NH đã từng rất dễ dàng khi cho vay và bỏ qua rất nhiều điều kiện và
các tiêu chí căn bản trong việc cho vay. Phía DN cũng đương nhiên phải có trách
nhiệm. Tuy nhiên, ngoài NH, DN có trách nhiệm cho nợ xấu mà NHNN(NHNN)
cũng đâu đó tác động vào nợ xấu trong điều hành chính sách tiền tệ để lãi suất có
lúc tăng lên 20% nâng chi phí vốn vượt ngoài khả năng chi trả của nhiều DN. Ngay
cả người dân và các DN cũng có đóng góp vào nợ xấu khi gửi lãi suất cao, vượt trần
lên đến 18%, 19%. Và khi NH chiều lòng khách hàng huy động cao thì khi cho vay
cũng phải cho vay cao. Có thể nói hầu như tất cả các thành phần trong nền kinh tế
đều có trách nhiệm trong vấn đề nợ xấu.
2.2.3 Nguyên nhân từ phía DN
Các DN có tình hình tài chính suy giảm, kém lành mạnh hoặc kinh doanh thua
lỗ. Kéo theo là các khoản vay đến hạn chưa thể trả hoặc không có khả năng trả. Đây
cũng chính là một nguyên nhân của tình hình nợ xấu. Sản xuất kinh doanh phải đối
mặt với vấn đề chi phí cao, lãi suất NH cao, thiếu vốn, đồng thời tiêu thụ hàng hoá
khó khăn đã ảnh hưởng lớn đến điều kiện tài chính, kết quả kinh doanh và khả năng
trả nợ vay NH của DN. Nhiều DN hiện nay có năng lực tài chính yếu, chủ yếu dựa
vào vốn vay NH, vốn chủ sở hữu nhỏ và khả năng ứng phó với sự thay đổi môi
trường kinh doanh hạn chế. Vì vậy, khi môi trường kinh doanh xấu đi, chính sách
kinh tế vĩ mô thắt chặt, lãi suất tăng thì các DN dễ gặp khó khăn về khả năng trả nợ.

Theo kết quả giám sát của Cơ quan Thanh tra, giám sát NH, đến cuối tháng 9/2012
trong hơn 1 triệu khách hàng được chọn mẫu khảo sát tại 57 TCTD của Việt Nam
có 10.782 khách hàng có hệ số nợ/vốn chủ sở hữu từ 3 lần trở lên. Theo báo cáo của
Bộ Kế hoạch và Đầu tư, số lượng DN giải thể, tạm ngừng hoạt động tăng nhanh:
Năm 2011 có 79.014 DN và tính từ đầu năm đến ngày 21/6/2012 có khoảng 25.250
DN, tăng 8,1% so với cùng kỳ năm 2011 (23.358 DN bị phá sản trong 6 tháng đầu
năm 2011). DN ngừng hoạt động, phá sản kéo theo là những khoản nợ xấu, những
khoản nợ phải mất của các TCTD.
2.2.4 Cơ chế pháp lý nhà nước
Một số các quy định của pháp luật hiện hành thiếu cụ thể, rõ rang, đã dẫn
đến những vướng mắc trong việc xác định hiệu lực của giao dịch bảo đảm, gây
rủi ro cho bên nhận bảo đảm. Từ đó cũng tác động mạnh tới việc gia tăng nợ xấu
như hiện nay.
16
Pháp luật hiện hành thiếu các quy định cần thiết nhằm hỗ trợ và thúc đẩy bên
nhận bảo đảm thực thi quyền thu giữ tài sản bảo đảm để xử lý. Về nguyên lý chung,
trong trường hợp bên bảo đảm không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ
đã giao kết, bên nhận bảo đảm có quyền truy đòi, thu giữ tài sản bảo đảm để xử lý.
Tuy nhiên, do việc chuyển giao tài sản bảo đảm cho bên nhận bảo đảm để xử lý
đồng nghĩa với việc bên bảo đảm bị mất tài sản đó, nên bên bảo đảm thường có thái
độ bất hợp tác, chây ì và tìm cách trì hoãn việc chuyển giao tài sản bảo đảm. Thực
tiễn cũng cho thấy, bên nhận bảo đảm không chỉ có nhu cầu chính quyền giữ gìn an
ninh trật tự trong trường hợp bên giữ tài sản bảo đảm có dấu hiệu chống đối, cản
trở, gây mất an ninh, trật tự nơi công cộng hoặc có hành vi vi phạm pháp luật khác
mà quan trọng hơn là hỗ trợ thực hiện quyền thu giữ tài sản bảo đảm. Vậy, cơ quan
nào có thể giúp bên nhận bảo đảm thực hiện quyền năng này? Theo quy định của
pháp luật hiện hành, bên nhận bảo đảm chỉ có cách khởi kiện ra Tòa án đòi tài sản
và cơ quan thi hành án sẽ thực hiện công việc này sau khi bản án đã tuyên của Tòa
án có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, quá trình này thường mất rất nhiều thời gian và
chi phí của bên nhận bảo đảm.

Hoạt động xử lý tài sản bảo đảm chưa có được sự hỗ trợ cần thiết và đầy đủ từ
các các quy định của pháp luật khác có liên quan (pháp luật về tố tụng, hành chính,
định giá tài sản bảo đảm, bán đấu giá tài sản…) Một trong các phương thức xử lý tài
sản bảo đảm là bán đấu giá tài sản. Thực tiễn cho thấy, hoạt động xử lý tài sản bảo
đảm rất cần sự hỗ trợ từ chính các quy định và sự hoạt động chuyên nghiệp của tổ
chức đấu giá và tổ chức định giá bán tài sản. Tuy nhiên, trong bối cảnh nước ta hiện
nay, hoạt động định giá chưa mang tính phổ biến và chuyên nghiệp nên việc xác
định giá bán tài sản bảo đảm gặp nhiều khó khăn, thậm chí phát sinh nhiều tranh
chấp, ảnh hưởng đến tiến độ xử lý tài sản bảo đảm.
17
Cơ chế, thủ tục xử lý tài sản bảo đảm còn rườm rà, phức tạp và phụ thuộc quá
nhiều vào ý chí của bên bảo đảm (bên có nghĩa vụ thanh toán nợ). Việc chuyển dịch
quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản bảo đảm từ bên bảo đảm sang người mua,
người nhận chuyển nhượng tài sản bảo đảm bị xử lý được xem là khâu cuối cùng,
đồng thời là kết quả của quá trình xử lý tài sản. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, mặc
dù pháp luật cho phép bên nhận bảo đảm có quyền xử lý tài sản bảo đảm trong
trường hợp bên bảo đảm không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ theo
giao dịch bảo đảm đã giao kết nhưng khi tiến hành xử lý tài sản bảo đảm, việc định
giá và chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản bảo đảm vẫn phải phụ thuộc
nhiều vào ý chí của chủ sở hữu, gây khó khăn cho bên nhận bảo đảm trong quá trình
xử lý. Ngoài ra, kết quả xử lý tài sản bảo đảm vẫn còn phụ thuộc vào cách thức giải
quyết của cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử
dụng tài sản khi bên nhận bảo đảm thực hiện thủ tục sang tên, trước bạ đối với tài
sản bảo đảm.
2.3 Cần chặn ngay đà tăng của nợ xấu
Theo thông tin NHNN vừa công bố, một phần nợ xấu đã được xử lý bằng
nguồn DPRR, tốc độ tăng nợ xấu của hệ thống đã có chiều hướng chậm lại.
Dữ liệu cập nhật của NHNN cho biết, tính đến cuối tháng 9/2012, các TCTD
đã thực hiện trích lập DPRR và chưa sử dụng đến là 72.907 tỷ đồng, tăng hơn
14.000 tỷ đồng so với cuối năm 2011. Và trong 9 tháng đầu năm 2012, số nợ xấu đã

được các TCTD xử lý bằng nguồn DPRR đạt gần 8.000 tỷ đồng.
Theo số liệu từ NHNN, từ tháng 4/2012 đến nay, qua thực hiện cơ cấu lại nợ
theo Quyết định số 870/QĐ-NHNN, đã có khoảng 36.000 tỷ đồng nợ của DN được
xử lý theo hướng giãn, khoanh lại…Theo NHNN, nợ xấu của hệ thống qua giám sát
từ xa hiện trong khoảng 8% - 10%. Tuy nhiên, sau khi tăng mạnh từ đầu năm nay,
tốc độ tăng nợ xấu đã có chiều hướng chậm lại. Cụ thể, trong tháng 1/2012 tốc độ
tăng nợ xấu là 7,29%; tháng 2 là 8,42%; tháng 3 là 9,35%; tháng 4 là 8,28%; tháng
5 là 6,59% và cập nhật gần nhất đến tháng 6 là 1,2%. Hơn bao giờ hết cần phải có
sự phối hợp chặt chẽ cùng hợp lực giải quyết nợ xấu.
18
Cần chặn ngay đà tăng của nợ xấu. Vấn đề giải quyết nợ xấu đã trở nên cấp
thiết hơn bao giờ hết. Đã có nhiều giải pháp về giải quyết nợ xấu đã được đưa ra,
nhưng tựu chung lại có thể quy về 2 nhóm, đó là nhóm giải pháp mang tính chất
ngắn hạn và nhóm mang tính dài hạn.
Giải quyết nợ xấu bằng giải pháp ngắn hạn sẽ giúp ngăn chặn mức độ khủng
hoảng của nợ xấu và áp lực gia tăng nợ xấu. Theo kinh nghiệm của các nước trên
thế giới thì việc giải quyết nợ xấu bằng biện pháp này sẽ gồm các giải pháp cụ thể :
Thứ nhất là NHNN hỗ trợ thanh khoản cho các TCTD có tỷ lệ nợ xấu cao để bù đắp
lượng tiền bị rút ra. Thứ hai là sẽ kiểm soát vốn và gia hạn nợ cho các tổ chức này
nhằm thu hút dòng vốn bị chảy ra. Thứ ba là tái cấp vốn cho NH thông qua các
khoản trái phiếu xử lý nợ xấu hoặc huy động từ nguồn khác dưới sự bảo lãnh của
Chính phủ. Và cuối cùng, bảo hiểm toàn bộ cho tiền gửi để tăng niềm tin trong hệ
thống NH, tạo ra thời gian cần thiết cho việc tái cấu trúc hệ thống Bằng biện pháp
này, các NH sẽ tránh được ảnh hưởng tiêu cực của nợ xấu lên sự an toàn của hệ
thống, tránh được khả năng xảy ra khủng hoảng niềm tin của khách hàng và ngăn
chặn việc khách đến rút tiền hàng loạt
Ở nhóm giải pháp dài hạn, một Công ty mua nợ xấu được lập để giải quyết nợ
xấu đã được áp dụng rộng rãi ở nhiều nước. Tuy nhiên, trong trường hợp ở nước ta,
nguồn kinh phí lấy ở đâu để giải quyết được khoản nợ hơn 200 nghìn tỷ là cả một
vấn đề và đến nay dường như vẫn chưa có lời giải. Trong nhóm này, biện pháp gắn

giải quyết nợ xấu với tái cấu trúc NH và tái cấu trúc kinh tế được đánh giá là giải
pháp mang tính cơ bản, vì ngoài vấn đề xử lý nợ xấu nó còn giúp ngăn chặn nợ xấu
gia tăng.
Với tình hình như hiện nay, NHNN nên áp dụng cả hai nhóm giải pháp này
một cách song song. Việc giải quyết nợ xấu cũng cần được giải quyết càng sớm
càng tốt để tránh những hậu quả khó lường đối với nền kinh tế.
2.4 Giải pháp xử lý nợ xấu
19
Những hệ lụy của nợ xấu đối với hệ thống NH và nền kinh tế là điều không
phải bàn cãi, nhất là khi tỷ lệ nợ xấu có xu hướng tăng và nền kinh tế còn nhiều khó
khăn. Bên cạnh khó khăn chung của nền kinh tế, nguyên nhân chính làm gia tăng nợ
xấu xuất phát từ chính các NH. Do đó, tìm kiếm giải pháp nhằm chặn đà tăng của
nợ xấu, giảm thiểu tác động bất lợi của nợ xấu đối với hệ thống NH và nền kinh tế
phải bắt đầu từ chính các NH, đồng thời không xem nhẹ nguyên nhân từ chính sách
điều hành chung.
2.4.1 Giải pháp hỗ trợ của chính phủ
Các giải pháp hỗ trợ cần triển khai bao gồm:
+ Các Bộ, ngành triển khai đồng bộ các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản
xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường theo Nghị quyết số 13/NQ-CP ngày 10/5/2012
của Chính phủ, trong đó bên cạnh các giải pháp miễn, giảm thuế, giãn thời hạn nộp
thuế cần có giải pháp hữu hiệu đẩy nhanh việc tiêu thụ hàng hóa, giảm lượng hàng
tồn kho và kích thích đầu tư, tiêu dùng trong nước. NHNN tích cực phối hợp với
các Bộ, ngành phân tích, đánh giá hoạt động của các ngành, lĩnh vực để xây dựng,
triển khai các chương trình tín dụng phù hợp, nhờ đó đẩy nhanh tiến độ giải phóng
hàng tồn kho, tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
+ Bộ Tài chính chủ trì tổ chức triển khai có hiệu quả Quyết định số
03/2011/QĐ-TTg ngày 10/1/2011 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế bảo
lãnh cho DN nhỏ và vừa vay vốn NHTM; Trường hợp cần thiết, xem xét, đề xuất
với Thủ tướng Chính phủ sửa đổi, bổ sung các điều kiện, thủ tục bảo lãnh theo
Quyết định số 03/2011/QĐ-TTg để tạo điều kiện thuận lợi cho các DN nhỏ và vừa

vay vốn NH.
+ Tích cực triển khai đồng bộ các giải pháp sắp xếp, đổi mới và cơ cấu lại
các DN nhà nước, tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước gắn với việc xử lý nợ
xấu của các DN này.
+ Các Bộ, ngành và địa phương có giải pháp khẩn trương hỗ trợ thị trường
bất động sản phục hồi nhanh, quản lý chặt chẽ và bảo đảm thị trường này phát triển
lành mạnh.
2.4.2 Giải pháp từ NHNN
20
Trước tiên cần tiến hành thanh tra việc góp vốn của các NH nhằm loại bỏ vốn ảo
ra khỏi hệ thống. Thanh tra, điều tra các DN có nợ quá hạn, xem xét thủ tục vay và
cho vay, cương quyết khởi tố các đối tượng khống chế NH, dồn vốn cho các DN sân
sau trái pháp luật. Số nợ xấu cuối cùng do hoạt động kinh doanh kém hiệu quả, do
gặp khó khăn chính đáng sẽ được mua nợ, giãn nợ thậm chí bơm vốn để khắc phục.
Thanh tra cẩn trọng các NH thương mại, các khoản cho vay hợp pháp gây nên
nợ xấu sẽ được xem xét mua lại, các khoản cho vay để tăng vốn NH, để phục vụ
cho các dự án của các chủ NH, không nên mua lại mà nên bắt chủ NH chịu trách
nhiệm bằng phần vốn góp của mình. Cần khẩn cấp điều tra mối liên hệ giữa các chủ
NH với các khoản nợ quá hạn, nợ xấu hiện nay. Sau khi xác định được số nợ xấu
sạch”, DN duy nhất có quyền mua bán nợ sẽ mua số nợ xấu đó.
Với hệ thống NH, sau khi thanh kiểm tra, NH nào vốn thật quá nhỏ, cần cho
phép phá sản, các NH khác sau khi được mua nợ xấu, cần tăng vốn bằng vốn Nhà
nước và tăng cường quản lý bằng các biện pháp kỹ thuật cao.
Đối với các khoản nợ của các DN Nhà nước, cùng với việc cơ cấu lại các DN
Nhà nước, nhà nước cần chịu trách nhiệm trả nợ cho các chủ nợ. Việc điều tra xem
xét những ai chịu trách nhiệm về các khoản nợ đó là thuộc về các cơ quan quản lý
DN, không phải của các chủ nợ.
Giải quyết tốt những khoản nợ xấu khổng lồ của hệ thống NH, tín dụng, những
khoản nợ lớn của các DN Nhà nước, khôi phục lại hoạt động lành mạnh của hệ
thống tín dụng sẽ là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế, giải quyết tận gốc các

khoản nợ vòng vo giữa các DN hiện nay.
2.4.3 Các giải pháp từ phía các TCTD
TCTD chủ động phối hợp với khách hàng vay để cơ cấu lại nợ, giãn thời gian
trả nợ và xem xét giảm lãi suất một cách hợp lý cho khách hàng có khó khăn tài
chính tạm thời, có chiều hướng cải thiện sản xuất kinh doanh tích cực, được đánh
giá có khả năng trả nợ theo thời gian cơ cấu lại nợ.
TCTD tăng cường trích lập, sử dụng DPRR để xử lý nợ xấu theo quy định của
pháp luật. Đẩy nhanh tiến độ bán, xử lý các tài sản bảo đảm của các khoản nợ xấu
để thu hồi vốn.
21
Các TCTD phải ngăn chặn từ gốc các nguyên nhân khiến cho các chuẩn mực
quản trị rủi ro bị xem nhẹ hoặc cố tình bỏ qua. Loại bỏ ngay những trường hợp NH
phân phối lượng vốn lớn cho các DN được xem như sân sau. Bởi vì rất khó để kiểm
chứng mức độ tuân thủ các chuẩn mực, nguyên tắc về quản trị rủi ro khi NH và DN
như người một nhà
Một trong những nguyên nhân khiến nợ xấu tăng cao là do các NH tăng trưởng
quá nóng nhằm đảm bảo hiệu quả lợi nhuận trước áp lực tăng vốn. Do đó, để đảm
bảo an toàn hệ thống, các TCTD phải chấp nhận tăng trưởng tín dụng ở mức bền
vững, chậm và chắc.
Các TCTD phải rà soát, bóc tách các đối tượng khó khăn, có nhu cầu và năng
lực sử dụng vốn thực sự để các khoản vay đến đúng đối tượng và đạt hiệu quả là rất
cần thiết. Ngược lại, cần kịp thời xử lý các dự án lớn nhưng triển khai kém hiệu
quả, kéo dài, gây tồn đọng vốn, thậm chí lâm vào tình trạng không trả được nợ.
2.4.4 Các giải pháp từ phía DN
Với tình hình nợ xấu ở mức nghiêm trọng như hiện nay, thì phải chấp nhận loại
loại bỏ một số doanh nghiệp. Nếu ở mức hợp lý thì có thể đào thải những DN có
tình hình tài chính, kinh doanh sản xuất quá kém. Nó sẽ tạo nên một đội ngũ DN
chất lượng hơn, góp phần làm cho nền kinh tế phát triển bền vững
Các doanh nghiệp phải tự cứu mình trước khi chờ đợi sự hỗ trợ từ chính phủ và
các NH. Trước hết đối với các doanh nghiệp gặp khó khăn trong khâu tiêu thụ đầu

ra thì phải chấp nhận giảm lãi hoặc hòa vốn đề giải quyết hàng tốn kho. Để từ đó có
thể tái sản xuất kinh doanh. Các doanh nghiệp cần phải cơ cấu lại bộ máy nhân sự,
tinh gọn bộ máy quản lý, nâng cao năng lực sản xuất, từ gió cắt giảm được giá
thành sản phẩm.
Các doanh nghiệp cần phải tập trung vào thế mạnh của mình, tránh tình trạng
đa dạng hóa sản xuất, đầu tư ngoài ngành không hiệu quả. Với tình hình kinh tế khó
khăn như hiện nay thì phát triển bền vững nhất là phát triển dựa trên thế mạnh của
mình, tránh đầu tư vào các lĩnh vực rủi ro.
22

×