Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

XÂY DỰNG QUY TRÌNH THANH TRA, GIÁM SÁT TRÊN CƠ SỞ RỦI RO ĐỐI VỚI CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.31 KB, 21 trang )

TRƯỜNG CÁN BỘ THANH TRA
LỚP ĐÀO TẠO BỒI DƯỠNG NGHIỆP VỤ THANH TRA
VIÊN CHÍNH K 37-2010
TIỀU LUẬN
Đề tài:
XÂY DỰNG QUY TRÌNH THANH TRA, GIÁM SÁT TRÊN CƠ SỞ
RỦI RO ĐỐI VỚI CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM
Họ và tên : ĐÀO QUỐC TÍNH
Chức vụ : Phó chánh thanh tra, giám sát
kiêm Cục trưởng Cục phòng
chống rửa tiền.
Cơ quan : Cơ quan thanh tra, giám sát
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Nghệ An, ngày 20 tháng 10 năm 2010
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
Có thể nói, điểm khác biệt nổi bật quy trình thanh tra, giám sát trên cơ sở
rủi ro với quy trình thanh tra, giám sát tuân thủ là việc ưu tiên các mối quan
tâm thanh tra và điều chỉnh các hoạt động thanh tra giám sát hướng vào các tổ
chức tín dụng có rủi ro tổng thể lớn nhất trong toàn bộ hệ thống tổ chức tín
dụng một cách kịp thời và hiệu quả. Ở mức độ từng tổ chức tín dụng, thanh
tra trên cơ sở rủi ro cho phép các thanh tra viên hướng các hoạt động thanh tra
tại chỗ vào các lĩnh vực có rủi ro lớn nhất của mỗi tổ chức tín dụng. Cơ quan
thanh tra giám sát ngân hàng nhờ đó sẽ sử dụng các nguồn lực có hạn của
mình một cách có hiệu quả hơn. Tổ chức tín dụng được hiểu bao gồm các
ngân hàng và tổ chức phi ngân hàng.
Để thực hiện thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro, trước hết cần hiểu thế
nào là rủi ro, hệ thống quản lý rủi ro tại các tổ chức tín dụng hoạt động như
thế nào.Các khái niệm rủi ro được trình bày trên cơ sở nghiên cứu thông lệ
quốc tế và thực trạng của Việt Nam. Có nhiều cách phân loại các loại rủi ro
trong hoạt động ngân hàng, thực tế hoạt động của các tổ chức tín dụng Việt


Nam hiện nay bị chi phối chủ yếu bởi bảy loại rủi ro chính:
1. Rủi ro tín dụng;
2. Rủi ro thị trường;
3. Rủi ro thanh toán;
4. Rủi ro hoạt động;
5. Rủi ro danh tiếng;
6. Rủi ro chiến lược; và
7. Rủi ro tuân thủ;
1
Trong đó Rủi ro thị trường được chia thành 3 loại: Rủi ro lãi suất, Rủi ro
hối đoái và Rủi ro về giá.Để quản lý được các loại rủi ro, các tổ chức tín dụng
phải có một hệ thống quản trị rủi ro hiệu quả.Một hệ thống quản lý rủi ro hiệu
quả phải có khả năng nhận dạng, đo lường, giám sát thông tin và kiểm soát
giảm thiểu rủi ro thông qua 4 quy trình sau:
1. Sự giám sát tích cực của Hội đồng quản trị và Ban điều hành;
2. Đầy đủ các chính sách, quy trình, thông lệ và các hạn mức;
3. Hệ thống thông tin quản lý hiệu quả;
4. Kiểm soát nội bộ và hoạt động toàn diện của Kiểm toán nội bộ.
Hiệu quả của bốn quy trình nói trên tại các tổ chức tín dụng cúng là một
trong những nội dung chính thanh tra viên cần phải kiểm tra khi đánh giá hệ
thống, năng lực quản lý đối với mỗi loại rủi ro của tổ chức tín dụng.Yêu cầu
đối với bốn quy trính này, trong từng phần về mỗi loại rủi ro cũng như trong
bảng câu hỏi cho mỗi loại rủi ro mà thanh tra viên cấn sử dụng khi thanh tra
tại chỗ.
Có thể nói thanh tra trên cơ sở rủi ro là thanh tra mang tính hệ thống, tập
trung vào việc kiểm tra năng lực quản lý rủi ro của tổ chức tín dụng, nhưng
điều đó cũng không có nghĩa là chúng ta bỏ qua vấn đề tuân thủ của tổ chức
tín dụng. Điều này thể hiện ở chỗ một trong bảy loại rủi ro mà chúng ta quan
tâm là Rủi ro tuân thủ. Ngoài ra, khi kiểm tra, đáng giá mỗi loại rủi ro chúng
ta sẽ chọn mẫu để tiến hành kiểm tra giao dịch và kiểm tra các vấn đề tuân thủ

liên quan đến rủi ro đó.
Khi kết hợp kết quả của việc kiểm tra giao dịch, xem xét kết quả hoạt
động của tổ chức tín dụng (các chỉ tiêu về tài chính, các chỉ số an toàn) và kết
quả đánh giá bốn quy trình quản lý rủi ro, chúng ta sẽ có thể có được kết luận
về mức độ rủi ro của các loại rủi ro mà ta đang xem xét, xu hướng của loại rủi
2
ro đó, từ đó rút ra được trạng thái rủi ro ròng của loại rủi ro đó. Phương pháp
để có được kết luận này được hướng dẫn tại Ma trận rủi ro
Các thanh tra viên cũng sẽ tìm thấy các câu hỏi sau đây "có phù hợp hay
không", " có đầy đủ hay không" xuất hiện. Trả lời câu hỏi đó không đơn
giản, bởi đó là các câu hỏi định tính, phụ thuộc vào quan điểm, cách đánh giá
của mỗi thanh tra viên.
Đó cũng chính là một trong những điểm khó nhất của thanh tra trên cơ sở
rủi ro, vì chúng ta phải kết hợp các đánh giá định lượng với các đáng giá định
tính, mà đánh giá định tính đòi hỏi thanh tra viên phải có kiến thức và kỹ năng
thật tốt.
Công việc của mỗi thanh tra viên được chuẩn hoá, rủi ro của các tổ chức
tín dụng và của toàn hệ thống sẽ được thanh tra, giám sát hiệu quả hơn.
I. Mô tả tình huống:
1. Khái niệm thanh tra giám sát tuân thủ trong hoạt động thanh tra,
giám sát các tổ chức tín dụng
Thanh tra, giám sát tuân thủ là một loại thanh tra, giám sát truyền thống.
Ở loại thanh tra, giám sát này được dựa trên cơ sở các quy định của pháp luật,
các quy định của nội bộ để thực hiện thanh tra, giám sát. Thanh tra giám sát
tuân thủ các tổ chức tín dụng ở Việt Nam hiện nay chủ yếu dựa vào so sánh
giữa hoạt động diễn ra thực tế và các quy định hiện hành. Các căn cứ để thực
hiện thanh tra, giám sát tuân thủ là Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Luật
các tổ chức tín dụng, các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan, các quy
định nội bộ của các tổ chức tín dụng.
Như vậy có thể hiểu thanh tra, giám sát tuân thủ các tổ chức tín dụng là

hoạt động thanh tra, giám sát dựa trên các văn bản quy phạm pháp luật hiện
hành để xác định quy trình tuân thủ (chấp hành, không chấp hành) để xác định
3
sai, đúng của từng vụ việc, từng loại hoạt động nghiệp vụ của một tổ chức tín
dụng. Một số ví dụ đơn giản như khi thanh tra, giám sát về hoạt động tín dụng
của một chi nhánh ngân hàng, Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng sẽ dựa
vào các hoạt động tín dụng thực tế diễn ra tại tổ chức tín dụng đó để có thể so
sánh với các quy định hiện hành của pháp luật để xác định sai, đúng và đưa
giải pháp xử lý phù hợp.
2. Khái niệm thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro trong hoạt động thanh
tra, giám sát các tổ chức tín dụng
Trong lĩnh vực ngân hàng, rủi ro là khả năng mà các sự kiện được dự
đoán trước hay không được dự đoán trước có thể gây ra tác động bất lợi đối
với vốn hay thu nhập của tổ chức tín dụng.
Chấp nhận và quản lý rủi ro là nguyên tắc cơ bản trong kinh doanh ngân
hàng. Tuy nhiên, các loại rủi ro chấp nhận được phải được tổ chức tín dụng
tính đến trong chiến lược kinh doanh của mình và cần phải được hiểu thấu
đáo, được đo lường, kiểm soát và nằm trong phạm vi khả năng sẵn sàng ứng
phó với những bất lợi có thể chấp nhận được của tổ chức tín dụng. Các yếu tố
quản lý rủi ro bao gồm:
* Nhận dạng rủi ro
Nhận dạng rủi ro trong lĩnh vực ngân hàng có ý nghĩa là nhận biết và
phân loại rủi ro, bản chất và đặc điểm của các hoạt động theo mức độ không
chắc chắn trong mỗi hoạt động.
Trước khi tiến hành quản lý rủi ro, rủi ro cần phải được nhận dạng.
Nhiệm vụ này do Hội đồng quản trị, Ban điều hành, Kiểm toán nội bộ và
Kiểm toán độc lập thực hiện và trong một tổ chức tín dụng nhiệm vụ này
được thực hiện bởi các bộ phận quản lý rủi ro.
4
*Đo lường và đánh giá rủi ro

Rủi ro trong lĩnh vực ngân hàng có nghĩa là xác định, đánh giá lượng hoá
các rủi ro đã được nhận dạng.
Các phương pháp đo lường rủi ro bao gồm đo lường giá trị danh nghĩa;
tính theo phần trăm của tổng (vốn, tải sản có, tiền gửi ) theo độ biến động;
khả năng tổn thất, hoặc kết hợp các yếu tố này.
Đo lường và đánh giá rủi ro cho phép Hội đồng quản trị thiết lập chính
sách đối với các hoạt động có rủi ro của tổ chức tín dụng, từ đó ban hành các
quy trình quản lý rủi ro thống nhất trong toàn hệ thống.
* Giám sát và báo cáo rủi ro
Các rủi ro phải được đo lường, đánh giá và xem xét định kỳ để hiểu một
cách thấu đáo về cách nhận biết rủi ro đang được sử dụng và để có được dự
đoán tốt hơn về số tiền và hậu quả của các hoạt động và các trạng thái rủi ro
trong tương lai.
Hệ thống thông tin quản lý bao gồm tất cả các báo cáo được lập và được
tổ chức tín dụng sử dụng. Nhiệm vụ giám sát yêu cầu Hội đồng quản trị và
Ban điều hành phải xem xét hệ thống thông tin quản lý ở cấp tổng quát nhất
để xác định xem các chính sách và chiến lược có được tuân thủ hay không.
* Kiểm soát và giảm thiểu rủi ro
Rủi ro trong hoạt động ngân hàng được kiểm soát dựa trên việc sử dụng
một cách thận trọng 3 yếu tố đầu tiên (nhận dạng rủi ro; đo lường và đánh giá
rui ro; giám sát và báo cáo rủi ro).
Hội đồng quản trị và Ban điều hành tiến hành từng bước để giảm thiểu
các ảnh hưởng bất lợi có thể có của các loại rủi ro mà tổ chức tín dụng gặp
phải. Việc này được tiến hành thông qua quan điểm chỉ đạo và xem xét định
kỳ các chiến lược, chính sách, các giới hạn, các quá trình, thủ tục đã được
5
thiết lập đầy đủ tại các cấp trong hệ thống tổ chức; sử dụng các chuyên gia khi
cần thiết; Giám sát thường xuyên hệ thống thông tin quản lý; và thực hiện một
hệ thống kiểm soát nội bộ toàn diện.
Hệ thống kiểm soát nội bộ được Ban điều hành thiết lập thông qua các

quy trình hoạt động để đảm bảo các giao dịch được hạch toán đầy đủ, đảm
bảo các giao dịch có rủi ro được xem xét thích hợp và đảm bảo chắc chắn
rằng chính sách và chiến lược do Hội đồng quản trị thiết lập được tôn trọng.
Bộ phận kiểm toán nội bộ là một bộ phận độc lập để kiểm tra hiệu lực của các
chính sách, quy trình hệ thống kiểm toán, hệ thống thông tin quản lý và kiểm
soát nội bộ của tổ chức tín dụng.
Như vậy, có thể hiểu thanh tra, giám sát các tổ chức tín dụng trên cơ sở
rủi ro là dựa vào các mức độ rủi ro khác nhau trong hoạt động của một tổ
chức tín dụng hay trong toàn bộ hoạt động của một tổ chức tín dụng, hoặc
mức độ rủi ro của toàn hệ thống tổ chức tín dụng để tiến hành thanh tra giám
sát. Mục tiêu của hoạt động thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro là góp phần
giảm thiểu rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng, giữ ổn định cho từng
tổ chức tín dụng và đảm bảo an toàn, ổn định phát triển cho cả hệ thống tổ
chức tín dụng.
3. Kết hợp thanh tra, giám sát tuân thủ với thanh tra giám sát trên cơ
sở rủi ro.
Trong thực tế, những năm qua các ngân hàng tại Mỹ, các nước Châu Âu,
một số nước Châu Á mặc dù trong quá trình thanh tra, giám sát của các cơ
quan thanh tra, giám sát của các nước không phát hiện hoặc ít phát hiện thấy
các sai phạm của các ngân hàng thông qua hoạt động thanh tra, giám sát so
với các quy định của pháp luật (thanh tra, giám sát tuân thủ). Tuy nhiên trong
cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ, kinh tế một số ngân hàng lớn vẫn bị đổ
vỡ. Hệ thống tài chính, ngân hàng của các nước Mỹ, các nước Châu Âu, một
6
số nước Châu Á chao đảo, hàng loạt các ngân hàng phải xin sự cứu trợ của
chính phủ các nước hàng trăm, thậm chí hàng ngàn tỷ đô la Mỹ và tương
đương. Như vậy, đâu là nguyên nhân dẫn đến sự đổ vỡ hàng loạt các ngân
hàng lớn hoạt động hàng trăm năm? Trong rất nhiều nguyên nhân, có một
nguyên nhân là hệ thống thanh tra, giám sát của các cơ quan liên quan của Mỹ
và các nước Châu Âu chủ yếu tập trung vào thanh tra, giám sát tuân thủ. Do

đó, đã không phát hiện được rủi ro trong hoạt động của từng tổ tổ chức tín
dụng và rủi ro của cả hệ thống tín dụng.
Từ thực tiễn và những khái niệm truyền thống về thanh tra, giám sát ngân
hàng đặt ra trong công tác thanh tra, giám sát, hiện nay phải kết hợp giữa
thanh tra, giám sát tuân thủ (chấp hành pháp luật, quy định nội bộ) với thanh
tra, giám sát các tổ chức tín dụng trên cơ sở rủi ro.
II. Phân tích tình huống
Quá trình thanh tra trên cơ sở rủi ro của Cơ quan Thanh tra, giám sát
ngân hàng bao gồm các phần cụ thể được thiết kế tập trung vào các nguyên
tắc cơ bản và đảm bảo giám sát là một quy trình liên tục tập trung vào rủi ro
tại mỗi tổ chức tín dụng và trong toàn bộ hệ thống tín dụng.
Quy trình thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro là một quy trình liên tục
tập trung đồng thời vào một chủ đề:
 Ở cấp độ hệ thống: so sánh độ rủi ro và hoạt động của tổ chức tín
dụng này với tổ chức tín dụng khác, lập thứ tự ưu tiên các tổ chức
tín dụng cần được thanh tra tại chỗ.
 Ở cấp độ tổ chức tín dụng: xem xét các hoạt động của mỗi tổ chức
tín dụng và tính đầy đủ của quy trình quản lý rủi ro của tổ chức tín
dụng; xác định tổ chức tín dụng nào cần quan tâm, cần làm gì và
khi nào;
7
 Ở cấp độ lập kế hoạch thanh tra tại chỗ: đánh giá các rủi ro tiềm ẩn
trong các hoạt động; tính đầy đủ của quy trình quản lý rủi ro của tổ
chức tín dụng; xác định lĩnh vực cần được kiểm tra; xác định nhu
cầu về thời gian; các yêu cầu về nhân lực thanh tra tại chỗ và đề ra
yêu cầu cho mỗi loại báo cáo cụ thể;
 Ở cấp độ báo cáo, kết luận thanh tra: báo cáo, kết luận về hoạt
động thanh tra tại chỗ, chỉ rõ các phát hiện, các yêu cầu đối với
ban lãnh đạo tổ chức tín dụng.
 Cấp độ sửa chữa sai lầm: Buộc Ban điều hành và thành viên Hội

đồng quản trị và tổ chức tín dụng có trách nhiệm sửa chữa các
thiếu sót một cách cụ thể và kịp thời.
 Giám sát liên tục: theo dõi tiến triển, những thay đổi tại mỗi tổ
chức tín dụng theo hướng tập trung vào hoạt động rủi ro.
Ở mỗi cấp độ có những cấu hỏi cần được trả lời và các công cụ cụ thể để
giúp Cơ quan thanh tra, giám sát trả lời những câu hỏi này. Một vài câu hỏi
được nêu ra dưới đây cùng với các công cụ để trả lời.
Ở cấp độ vĩ mô (hệ thống tổ chức tín dụng ) - tổ chức tín dụng nào là rủi
ro nhất? Tại sao tổ chức tín dụng đó rủi ro nhất? Bộ phận nào của tổ chức tín
dụng cần quan tâm nhất? Tổ chức tín dụng này so với tổ chức tín dụng khác
trong hệ thống tổ chức tín dụng về quy mô, rủi ro, quản lý rủi ro như thế nào?
Khi nào tổ chức tín dụng cần thanh tra tại chỗ ? Tình hình tổ chức tín
dụng và Chiến lược thanh tra.
Cấp độ vi mô rủi ro như thế nào? Lĩnh vực nào có thể tồn tại rủi ro? Các
sản phẩm đó có loại rủi ro cố hữu nào? Có nhiều rủi ro không? Có biết gì về
các thông lệ quản lý rủi ro của tổ chức tín dụng trong các sản phẩm dtịch vụ
được xác định là rủi ro Ma trận rủi ro
8
Ở cấp độ lãnh đạo Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng và cấp lập kế
hoạch: xác định có bao nhiêu người cần tham gia? Họ nên làm gì và các thông
tin gì cần có trong báo cáo thanh tra tại chỗ kế hoạch thanh tra, bản ghi
nhớ về phạm vi thanh tra.
Dự đoán về rủi ro chính xác như thế nào? Tổ chức tín dụng quản lý các
rủi ro đã được nhận dạng tốt đến mức nào? Ngân hàng Nhà nước đã có kiến
nghị gì với lãnh đạo của tổ chức tín dụng Báo cáo, Kết luận thanh tra.
Ngân hàng Nhà nước có nên bắt buộc các tổ chức tín dụng cải thiện
một số bộ phận quản lý rủi ro hay không Kết luận của Chánh Thanh
tra, giám sát ngân hàng và các biện pháp sửa chữa. Tiếp theo, ban lãnh
đạo của tổ chức tín dụng có giải quyết tốt các vấn đề đã được đưa ra trong kỳ
thanh tra trước không?

Tình hình rủi ro của các tổ chức tín dụng có thay đổi như thế nào? Có
rủi ro mới nào không? Khi nào thì tổ chức tín dụng cần được thanh tra tại chỗ
tiếp theo? Tóm tắt tình hình rủi ro.
Tiếp sau phần giới thiệu về các cấp độ quan tâm khác nhau có xem xét
đến các câu hỏi và các công cụ được sử dụng là phần giới thiệu về Quy trình
thanh tra, giám sát.
Quy trình thanh tra, giám sát bao gồm các bước sau:
1. Tìm hiểu và đánh giá rủi ro của tổ chức tín dụng.
2. Lập kế hoạch thanh tra
3. Thành lập đoàn thanh tra và công tác chuẩn bị của đoàn
4. Hoạt động thanh tra tại chỗ
5. Báo cáo kết quả thanh tra và ban hành Kết luận thanh tra
6. Giám sát liên tục đối với các tổ chức tín dụng
Bước 1,2,6 liên quan đến việc lập kế hoạch, dành ưu tiên và giám sát;
những bước này thường được hoàn thành tại Ngân hàng Nhà nước bởi bộ
9
phận giám sát từ xa, bộ phận phân tích, Ban lãnh đạo Cơ quan Thanh tra,
giám sát ngân hàng, và bởi thanh tra viên tại chỗ được giao nhiệm vụ giám sát
và báo cáo về tổ chức tín dụng giữa các kỳ thanh tra.
Bước 3,4 và 5 liên quan đến việc xác định, thực hiện báo cáo và ra Kết
luận Thanh tra; Những bước này được hoàn thiện bởi đoàn thanh tra tại chỗ
với kết luận và các biện pháp sửa chữa do Chánh Thanh tra, giám sát ngân
hàng đưa ra.
Vì hoạt động giám sát trên cơ sở rủi ro nhằm mục đích kiểm soát rủi ro
liên tục, việc hiểu biết về mỗi tổ chức tín dụng là điểm bắt đầu tốt nhất. Các
thanh tra viên nên có quy trình phù hợp để phát triển và duy trì việc hiểu biết
toàn diện về tình hình rủi ro của mỗi tổ chức tín dụng là (BƯỚC 1).
Khi rủi ro của mỗi tín dụng đã rõ ràng thì thanh tra, giám sát viên có thể
đánh giá các rủi ro đó trong hệ thống tổ chức tín dụng và đặt ra thứ tự ưu tiên
cho các nhiệm vụ thanh tra cần thực hiện. Phải có sự ưu tiên này trong toàn hệ

thống và cho mỗi tổ chức tín dụng. Thanh tra giám sát trên cơ sở rủi ro nhằm
đặt thanh tra, giám sát viên vào chỗ cần thanh tra, giám sát sâu. Rủi ro đôi khi
là lớn đối với một tổ chức tín dụng nhưng lại không lớn đối với hệ thống tổ
chức tín dụng. Trong những trường hợp như vậy, lãnh đạo Ngân hàng Nhà
nước phải cân đối rủi ro của các tổ chức tín dụng nhỏ (đặc biệt nếu rủi ro đó
liên quan đến khả năng tiếp tục tồn tại của các tổ chức tín dụng đó) so với rủi
ro lớn trong hệ thống tổ chức tín dụng. Thường thì nguồn nhân lực của thanh
tra là đủ để đáp ứng cho các vấn đề cần quan tâm của cả hệ thống cũng như
của mỗi tổ chức tín dụng. Tập trung vào việc lập kế hoạch thanh tra đối với
các tổ chức tín dụng. Sản phẩm chính của bước này là kế hoạch thanh tra.
Hoạt động lập kế hoạch thanh tra đối với mỗi tổ chức tín dụng là (BƯỚC 2).
Khi rủi ro được nhận dạng và đánh giá, và khi đã lập xong kế hoạch, Ban
lãnh đạo Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng sẽ ra quyết định thanh tra và
10
giai đoạn lập kế hoạch trở nên rất chi tiết. Ngân hàng Nhà nước sẽ lựa chọn
một đoàn thanh tra và một Trưởng đoàn để tiến hành thanh tra tại chỗ. Trưởng
đoàn lập bản phạm vi công việc xác định các mục tiêu chi tiết dự kiến đạt
được liên quan đến những công việc cần làm trong quá trình thanh tra tại chỗ.
Trưởng đoàn cũng dự thảo một thư yêu cầu gửi đến tổ chức tín dụng, yêu cầu
tổ chức tín dụng chuẩn bị các báo cáo và tài liệu cụ thể. Một số nội dung
trong thư yêu cầu này có thể được gửi trước cho tổ chức tín dụng, một số nội
dung khác được thu thập và lưu giữ cho đến khi đoàn thanh tra đến làm việc
tại tổ chức tín dụng (BƯỚC 3).
Sau đó, đoàn thanh tra tại chỗ sẽ đến các tổ chức tín dụng để thực hiện
các nhiệm vụ cụ thể được phân công và lập kế hoạch tại bước 3. Thanh tra
giám sát trên cơ sở rủi ro cần phải chú trọng vào các lĩnh vực có rủi ro cao
nhất của tổ chức tín dụng và cách thức mà tổ chức tín dụng quản lý những rủi
ro này. Các thành viên của đoàn thanh tra đánh giá từng lĩnh vực rui ro và bộ
phận chức năng mà họ được phân công. Các thành viên này lập Hồ sơ thanh
tra để ghi chép lại các hoạt động và các phát hiện trong mỗi cuộc thanh tra để

ghi chép lại các hoạt động và các phát hiện trong mỗi cuộc thanh tra. Hồ sơ
thanh tra được thảo luận với Trưởng đoàn và nộp cho Trưởng đoàn Tiến
hành hoạt động thanh tra là (BƯỚC 4).
Trưởng đoàn là người viết báo cáo thanh tra, báo cáo thanh tra là báo cáo
chính thức về những phát hiện của đoàn thanh tra. Chánh Thanh tra, giám sát
ngân hàng đánh giá về những phát hiện và đánh giá về quản lý rủi ro của đoàn
thanh tra và xem xét liệu có cần thiết phải áp dụng hình thức xử phạt hoặc
biện pháp chỉnh sửa nào không. Các biện pháp chỉnh sửa tương ứng với mức
độ sai phạm của từng tổ chức tín dụng. Kết luận và các biện pháp sửa chữa là
sản phẩm chính của (BƯỚC 5).
11
Nếu Chánh Thanh Tra, giám sát ngân hàng yêu cầu áp dụng các biện
pháp sửa chữa, Ngân hàng Nhà nước giám sát tiến trình tổ chức tín dụng đáp
ứng các yêu cầu do Chánh Thanh tra, giám sát ngân hàng đưa ra. Các báo cáo
định kỳ của tổ chức tín dụng cung cấp cho cơ quan thanh tra, giám sát những
thông tin cần thiết để quyết định mức độ đầy đủ tất cả các yêu cầu, Chánh
Thanh tra, giám sát ngân hàng sẽ chấp thuận việc thực hiện của tổ chức tín
dụng. Đây là một phần quan trọng trong bước 6, bởi vì nó áp dụng đối với tất
cả các tổ chức tín dụng mà Chánh thanh tra, giám sát ngân hàng yêu cầu áp
dụng các hình thức xử phạt hoặc biện pháp chỉnh sửa.
Việc giám sát liên tục được áp dụng cho tất cả các tổ chức tín dụng, bất
kể các biện pháp chỉnh sửa có được áp dụng hay không. Các thanh tra viên
được chỉ định từ mỗi phòng/ban thanh tra của Ngân hàng Nhà nước làm việc
với các dữ liệu giám sát từ xa (các báo cáo định kỳ từ mỗi tổ chức tín dụng,
phân tích về hệ thống tổ chức tín dụng, phân tích an toàn vi mô, ) và từ chính
sách các tổ chức tín dụng để có thể giám sát liên tục. Các thanh tra viên này
lập một báo cáo tổng quan về rủi ro của từng tổ chức tín dụng ít nhất là theo
từng quý hoặc bất kỳ khi nào mà trạng thái rủi ro của các tổ chức tín dụng
thay đổi. Giám sát liên tục là (BƯỚC 6).
III. Phương án giải quyết

Nội dung cụ thể các bước trong Quy trình thanh tra trên cơ sở rủi ro:
Bước 1: của quy trình thanh tra giám sát trên cơ sở rủi ro là hiểu tổ chức
tín dụng.
Bước này là xuất phát từ nguyên tắc cơ bản 19 của Uỷ ban Basel. Người
được giao nhiệm vụ lập bản Tình hình và chiến lược của tổ chức tín dụng phải
hiểu và tóm lược các thông tin về quy mô, sở hữu, lãnh đạo, hoạt động kinh
doanh và địa điểm kinh doanh, kết quả thanh tra trước đây và tình hình hiện tại.
12
Ngoài ra, người lập phải đánh giá lĩnh vực có rủi ro lớn nhất của tổ chức
tín dụng và đề xuất chiến lược thanh tra để tóm lược các vấn đề và lĩnh vực
cần phải thanh tra tại chỗ. Bằng cách tập trung vào các lĩnh vực có rủi ro lớn,
thanh tra viên có thể giám sát mỗi tổ chức tín dụng cũng như toàn hệ thống tổ
chức tín dụng một cách hiệu quả hơn
Tình hình và Chiến lược của tổ chức tín dụng là một tài liệu được thiết kế
để tóm lược những thông tin quan trọng nhất về mỗi tổ chức tín dụng, tài liệu
này bao gồm các phần sau:
+ Thông tin chung và cơ cấu của tổ chức tín dụng
+ Kết quả của cuộc thanh tra trước
+ Tóm tắt tình hình hiện tại,
+ Các rủi ro chính,
+ Đề xuất chiến lược thanh tra
Thông thường thì Bản tình hình và chiến lược của tổ chức tín dụng do bộ
phân phân tích lập. Nhằm thu thập các thông tin cần thiết để hoàn thiện nhiệm
vụ này, người lập tài liệu trên cần phải xem xét các tài liệu được thảo luận.
Lưu ý rằng việc hoàn thiện bản tình hình và chiến lược của tổ chức tín dụng
có thể mất vài ngày hoặc một tuần, phụ thuộc vào quy mô và mức độ phức tạp
của tổ chức tín dụng và mức độ sẵn có của thông tin.
Các dữ liệu này phải có thông qua giám sát từ xa, Người lập cũng như
xác định xem có thay đổi gì về sở hữu và cơ cấu đang hoặc được dự kiến sẽ
xảy ra là không. Đang xảy ra có nghĩa là tổ chức tín dụng đã xin phép thực

hiện các hoạt động mới, mở chi nhánh mới, hoặc thay đổi về sở hữu. Dự kiến
xảy ra là lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước biết sẽ có những thay đổi này qua tiếp
xúc với tổ chức tín dụng. Người lập phải sử dụng thông tin thu nhập được để
13
hoàn thành mục "Thông tin và Cơ cấu cơ bản" của bản tình hình tổ chức tín
dụng và chiến lược thanh tra.
Nếu không có báo cáo thanh tra tại chỗ hợp nhất được lập trong 2 năm
trước thì người lập phải tập trung vào báo cáo thanh tra của từ 3 đến 5 chi
nhánh lớn nhất. Qua việc xem xét các báo cáo này, người lập có thể xác định
được các nội dung chính và xu hướng nêu trong cuộc thanh tra trước. Kết luận
của cuộc thanh tra trước, số lượng và bản chất của các trường hợp ngoại lệ và
vi phạm luật pháp, phản hồi của Ban điều hành, các biện pháp chỉnh sửa của
Ngân hàng Thương mại, tất cả những nội dung này cần được tóm lược trong
mục "Kết quả của cuộc thanh tra trước".
Báo cáo kiểm toán cuối năm trước: Lấy từ hồ sơ của Ngân hàng Nhà
nước một bản copy báo cáo của kiểm toán độc lập về tổ chức tín dụng năm
gần nhất. Tóm lược các phát hiện và kết luận trong mục "tóm tắt tình hình
hiện tại". Phần này chỉ nên gồm một số đoạn văn và chỉ nêu các phát hiện và
kết luận ở mức cao nhất của báo cáo kiểm toán. Nhận xét về những khiếm
khuyết của hệ thống quản lỷ rủi ro của tổ chức tín dụng nếu có cần được đưa
vào phần tóm tắt này.
Báo cáo quý hiện tại (bảng cân đối, báo cáo thu nhập chi phí và các bảng
biểu hỗ trợ): Các tài liệu này có được thông qua giám sát từ xa. Cầm xem số
liệu cuối năm của hai năm gần nhất và cuối quý gần nhất. Dữ liệu của các tài
liệu này sẽ được sử dụng trong suốt quá trình lập kế hoạch cũng như trong
cuộc thanh tra để thiết lập các mức và xu hướng dữ liệu cần được rà soát. Đa
số các dữ liệu đều được đưa vào mục "Tóm tắt tình hình hiện tại". Chú ý rằng
các thông tin của bảng cân đối được thể hiện bằng số phần trăm so với tổng
tài sản. Điều này cho phép xem xét nhanh các hoạt động có rủi ro và mức độ
của chúng đối với tổ chức tín dụng. Không dùng số tuyệt đối trong mục này.

14
Trong mục này cũng phải xác định xem tổ chức tín dụng có tuân thủ các biện
pháp an toàn không, bao gồm:
- Hệ số vốn tối thiểu,
- Tài sản ngắn hạn/ Tài sản nợ ngắn hạn,
- Góp vốn, mua cổ phần tại các công ty.
Gặp bộ phận Khiếu nại và Tố cáo và thu thập thông tin về khiếu nại đối
với tổ chức tín dụng cũng như tài liệu từ Ngân hàng Nhà nước. Vì đây là việc
rà soát ở mức độ sơ lược nên chỉ nhận xét khi có vấn đề trong khiếu nại
và/hoặc tố cáo đối với tổ chức tín dụng. Các vấn đề này được hình thành bởi
những khiếu nại hoặc tố cáo lặp đi lặp lại, do ban điều hành thiếu trách nhiệm
hoặc liên quan đến số tiền lớn.
Sau khi xem xét cẩn thận mỗi loại báo cáo và tài liệu trên đây, phân tích
bảng cân đối, báo cáo thu nhập chi phí hay các bảng, biểu liên quan ít nhất là
ba thời điểm (quý hiện tại, cuối kỳ, của hai năm trước). Sau đó Vụ trưởng
giám sát từ xa, cán bộ giám sát phân tích phụ trách tổ chức tín dụng và Vụ
trưởng thanh tra tại chỗ thảo luận về các lĩnh vực cần quan tâm và nhất trí về
những rủi ro chủ yếu. Tóm tắt các ý kiến về tính hình tài chính trong mục
"Tóm lược tình hình hiện tại", và nhận xét các lĩnh vực cần thanh tra tại chỗ
trong mục "Rủi ro chủ yếu". Rủi ro chủ yếu là các loại rủi ro, như: rủi ro tín
dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro hoạt động
Ma trận rủi ro là một công cụ được thiết kế để hỗ trợ thanh tra viên xác
định lĩnh vực rủi ro lớn nhất của từng tổ chức tín dụng. Ma trận này phải được
hoàn thiện và đính kèm vào bản tình hình và chiến lược của tổ chức tín dụng
để bổ sung cho các rủi ro chính. Việc lập ma trận rủi ro được thảo luận dưới
đây, mặc dù việc này hỗ trợ cho phần rủi ro chủ yếu trong bản tình hình và
chiến lược của tổ chức tín dụng.
15
Dựa trên nhận xét của bản tình hình và chiến lược của tổ chức tín dụng,
dự thảo mục "Chiến lược thanh tra đề xuất" đối với tổ chức tín dụng, một số

chú ý:
Chiến lược phải phản ánh tình hình tài chính của tổ chức tín dụng, thông
tin về mặt mạnh, mặt yếu của tổ chức tín dụng, các lĩnh vực rủi ro chủ yếu
dựa trên tình hình và kết quả hoạt động, các vấn đề cần lưu tâm của kiểm toán
viên, lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước, giám sát từ xa hay của thanh tra viên.
Chính sách phải nêu rõ và ngắn gọn các lĩnh vực rủi ro cần được kiểm tra
(cái gì) và thời gian cần tiến hành thanh tra (khi nào).
Mặc dù chiến lược thanh tra được đề xuất là nội dung chủ yếu, việc đưa
ra khuyến nghị này trong chu kỳ giám sát đầu tiên có thể là rất khó khăn.
Chiến lược được đề xuất là những ước tính tốt nhất của thanh tra viên về
những lĩnh vực rủi ro cần xem xét. Nó được dựa trên mức độ và xu hướng của
các rủi ro cố hữu trong và ngoại bảng cân đối, sự hiểu biết về kế hoạch kinh
doanh và quy trình quản lý của tổ chức tín dụng, và những hiểu biết của thanh
tra viên về cách thức mà những nội dung này kết hợp với nhau để dẫn tới
trạng thái rủi ro ròng của tổ chức tín dụng trong hệ thống tổ chức tín dụng
Việt Nam.
Tài liệu này phải được người lập hoàn thiện, được Vụ trưởng giám sát,
Vụ trưởng Thanh tra tại chỗ đồng ý và trình ban lãnh đạo Cơ quan Thanh tra,
giám sát ngân hàng để phê duyệt. Việc cần phê duyệt đối với tài liệu này phản
ánh bản chất chiến lược của nó. Khi được phê duyệt, bản tình hình và chiến
lược sẽ hướng dẫn phương pháp thanh tra, giám sát của Ngân hàng Nhà nước
đối với từng tổ chức tín dụng.
Tiếp theo là các bước lập ma trận rủi ro, đánh giá quy trình quản lý rủi
ro, hệ thống quản lý, đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ và kiểm toán nội bộ,
16
lập kế hoạch thanh tra, xác định các hoạt động thanh tra, quyết định thanh tra,
phạm vi thanh tra, soạn thư yêu cầu đến tổ chức tín dụng, các cuộc thanh tra
tại chỗ và báo cáo kết quả thanh tra và các bước giám sát thường xuyên tổ
chức tín dụng.
17

KẾT LUẬN
Kết hợp thanh tra, giám sát tuân thủ và thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi
ro là một phát hiện mới sau cuộc khủng hoảng tài chính, kinh tế toàn cầu
những năm vừa qua. Theo thông lệ truyền thống, thanh tra, giám sát ngân
hàng trong nhiều thập kỷ chủ yếu tập trung vào thanh tra, giám sát tuân thủ.
Thực tế thanh tra, giám sát tuân thủ các ngân hàng, các tổ chức phi ngân hàng
(tổ chức tín dụng) ở các nước phát triển cao gần như các cơ quan thanh tra,
giám sát không phát hiện hoặc phát hiện rất ít các sai phạm của tổ chức tín
dụng. Tuy vậy, khi xảy ra khủng hoảng tài chính, tiền tệ, kinh tế những năm
qua hàng loạt ngân hàng lớn, nhỏ vẫn sụp đổ không thể cứu vãn được, hàng
loạt ngân hàng lớn phải nhờ cứu trợ của chính phủ các nước để qua được giai
đoạn khó khăn nhất. Nguyên nhân, là thanh tra, giám sát trên cơ sở tuân thủ
rất ít xác định được rủi ro trong từng hoạt động, từng tổ chức tín dụng, cả hệ
thống tổ chức tín dụng (thanh tra, giám sát ở loại này là chỉ so sánh giữa thực
hiện và các quy định của pháp luật, quy chế nội bộ) để tìm ra sai phạm. Mặt
hạn chế của pháp luật liên quan, quy chế nội bộ là luôn tĩnh ổn định, ít thay
đổi, nhưng rủi ro của tổ chức tín dụng luôn luôn thay đổi và diễn ra liên tục,
phức tạp hơn, chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố khác nhau. Đặc biệt hoạt
động kinh doanh của các tổ chức tín dụng là hoạt động kinh doanh chấp nhận
rủi ro, kinh doanh trên cơ sở rủi ro. Như vậy, kết hợp thanh tra, giám sát tuân
thủ kết hợp với thanh tra, giám sát các tổ chức tín dụng dựa trên cơ sở rủi ro
là một thành tựu cần phải triển khai và áp dụng có hiệu quả vào hoạt động
thanh tra, giám sát ngân hàng Việt Nam.
18
LỜI CAM KẾT
Tôi xin cam kết tài liệu thu hoạch này là do tôi tự nghiên cứu và hoàn
chỉnh. Nếu sai tôi chịu hoàn toàn trách nhiệm theo các quy định hiện hành.
Kính
19

×