Tải bản đầy đủ (.doc) (65 trang)

Thanh toán thẻ tại NHĐT&PT Việt Nam (BIDV) - thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (742.46 KB, 65 trang )

Thanh toán thẻ tại NHĐT&PT Việt Nam – thực trạng và giải pháp
LỜI MỞ ĐẦU
Sau hơn nửa thế kỷ ra đời và phát triển, thanh toán thẻ đã trở thành
một phần quan trọng của dịch vụ ngân hàng nói chung và dịch vụ ngân hàng
bán lẻ nói riêng. Dịch vụ thanh toán thẻ ra đời đã tạo ra một kênh thanh toán
tiện lợi, nhanh chóng, an toàn và văn minh trong hoạt động thanh toán.
Kể từ khi chiếc thẻ thanh toán đầu tiên mang tên “Diners Club” do
một doanh nhân người Mỹ, ông Frank Mc Namara sáng chế vào năm 1949
và nhờ đó nhanh chóng đưa lại lợi nhuận cho công ty phát hành, các tập
đòan kinh tế - tài chính lớn trên thế giới đã không bỏ qua lĩnh vực kinh
doanh mới mẽ, hiện đại và mang lại nhiều lợi nhuận. Năm 1955, hàng loạt
thẻ mới ra đời như Trip Charge, Golden key, Cart Blanche…Nhưng sự phát
triển của thị trường thẻ thế giới được đánh dấu bằng sự liên tục ra đời của
các loại thẻ có mạng lưới kết nối rộng trên toàn cầu như American Express
(năm 1958), Visa (năm 1960), JCB (năm 1961), Master (1966)…Các công
ty phát hành các loại thẻ liên tục mở rộng mạng lưới tiếp nhận thẻ trên khắp
thế giới, đa dạng hóa các tiện ích của thẻ, tăng tính cạnh tranh nhằm chiếm
lĩnh thị phần…
Mặc dù thanh toán thẻ đã trở nên quen thuộc, phổ biến ở phần lớn các
nước trên thế giới, nhưng tại Việt nam đây vẫn là lĩnh vực kinh doanh khá
mới mẽ. Trong những năm gần đây, thanh toán thẻ đã đạt được những bước
phát triển đáng chú ý với sự tham gia của hầu hết các ngân hàng thương mại,
cung cấp những sản phẩm thẻ đa dạng, mang đến nhiều tiện ích cho khách
hàng.
Bắt kịp với xu thế của thị trường, sẵn sàng hội nhập với nền kinh tế
-tài chính khu vực và thế giới, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
(BIDV) đã và đang đẩy mạnh phát triển các loại hình dịch vụ ngân hàng bán
Trần Thị Liên Hoàn – CH 2005B2 Trang 1
Thanh toán thẻ tại NHĐT&PT Việt Nam – thực trạng và giải pháp
lẻ trong đó có dịch vụ thẻ. Đến nay, dịch vụ thẻ BIDV đã được triển khai
khắp các tỉnh thành trên cả nước và đã dần khẳng định được chỗ đứng của


mình trên thị trường thẻ Việt Nam.
Tuy nhiên, để giữ vững và không ngừng mở rộng thị phần trong điều
kiện có nhiều đối thủ cạnh tranh là các Ngân hàng thương mại (NHTM)
trong nước và nước ngoài, BIDV cần có một chiến lược phát triển thanh toán
thẻ đúng đắn với những giải pháp phù hợp.
Là một cán bộ công tác tại BIDV, tôi mong muốn tìm ra giải pháp
phát triển thanh toán thẻ, đưa BIDV lên vị trí xứng đáng trên thị trường thẻ
trong và ngoài nước. Vì vậy, tôi đã lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Thanh toán
thẻ tại NHĐT&PT Việt Nam (BIDV) - thực trạng và giải pháp”.
Mục đích nghiên cứu của đề tài là đưa ra một cái nhìn tổng quan về
thanh toán thẻ và thực trạng của dịch vụ này tại BIDV từ đó đề xuất những
giải pháp phù hợp giúp BIDV phát triển thanh toán thẻ.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài là thanh toán thẻ tại
BIDV trong thời gian 3 năm trở lại đây (từ năm 2005 đến 2007) và những
định hướng trong thời gian tới.
Với mục đích đặt ra, kết cấu luận văn gồm 3 chương:
- Chương I: Lý luận cơ bản về thẻ thanh toán.
- Chương II: Thực trạng thanh toán thẻ tại (BIDV).
- Chương III: Giải pháp phát triển thanh toán thẻ tại BIDV.
Chương 1
LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THẺ THANH TOÁN
1.1. Tổng quan về thẻ thanh toán:
1.1.1. Tính tất yếu khách quan của việc ra đời và phát triển thanh toán
thẻ:
Trần Thị Liên Hoàn – CH 2005B2 Trang 2
Thanh toán thẻ tại NHĐT&PT Việt Nam – thực trạng và giải pháp
Quá trình phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa đã dẫn đến sự
xuất hiện của những vật ngang giá chung như da thú, vỏ sò….rồi đến sắt
kẽm, bạc, vàng….và tiền tệ xuất hiện. Nhìn bên ngoài như một quá trình
hoàn toàn mang tính ngẫu nhiên nhưng trái lại, tiền tệ là sản phẩm và nếu

đánh giá một cách công bằng về mặt khoa học thì tiền tệ là một trong ba phát
minh quan trọng nhất của xã hội loài người từ lịch sử cổ đại cho đến ngày
nay.
Nói đến chức năng của tiền tệ, bên cạnh các chức năng là thước đo giá
trị, là phương tiện dự trữ giá trị và tiền tệ thế giới phải kể đến hai chức năng
rất quan trọng của tiền là phương tiện lưu thông và phương tiện thanh toán.
Với hai chức năng này, tiền đã giúp quá trình trao đổi trở nên thuận tiện hơn,
nhanh hơn so với trao đổi hàng hóa một cách trực tiếp hay trao đổi hàng hóa,
dịch vụ bằng các kim loại như bạc, vàng…
Kể từ khi xuất hiện tiền tệ, con người đã quen với một phương tiện
thanh toán chủ yếu của tiền đó là tiền mặt. Nhưng khi nền kinh tế thị trường
ngày càng phát triển thì doanh số thanh toán không dùng tiền mặt càng
chiếm tỷ trọng lớn và doanh số thanh toán bằng tiền mặt sẽ giảm xuống
tương ứng. Tại sao như vậy?
Nền kinh tế thị trường càng phát triển, việc trao đổi, mua bán hàng
hóa, dịch vụ càng trở nên nhiều hơn, phạm vi rộng hơn. Thanh toán bằng
tiền mặt đã bộc lộ những hạn chế của nó như: cồng kềnh, bất tiện, thiếu an
toàn, không đảm bảo vệ sinh, đặc biệt là chiếm nhiều thời gian để kiểm đếm
về số lượng và phát hiện tiền thật giả… Chính vì thế, con người luôn mong
muốn một phương tiện thanh toán khác thuận tiện hơn, nhẹ nhàng hơn,
nhanh hơn và an toàn hơn…
Trần Thị Liên Hoàn – CH 2005B2 Trang 3
Thanh toán thẻ tại NHĐT&PT Việt Nam – thực trạng và giải pháp
Đứng trên góc độ quản lý, thanh toán bằng tiền mặt khiến cho các cơ
quan quản lý Nhà nước khó kiểm soát được thu nhập của người dân, tạo cơ
hội cho những hành vi buôn bán gian lận, rửa tiền, trốn thuế, tham nhũng…
phát triển. Vì vậy, vấn đề khuyến khích người dân thanh toán qua ngân hàng
đã được đặt ra.
Thêm vào đó, sự phát triển kỳ diệu của khoa học công nghệ và những
ứng dụng của nó trong thực tiễn đã có ý nghĩa to lớn đối với cuộc sống của

nhân loại, giúp con người biến những điều mong ước trở thành hiện thực.
Năm 1949, từ một sự bất tiện của bản thân khi dùng bữa tối tại một
nhà hàng nhưng quên mang theo tiền mặt, ông Frank Mc Namara, một
doanh nhân người Mỹ đã mày mò sáng chế ra một phương tiện chi trả không
dùng tiền mặt và đặt tên là thẻ “Diners club”. Sự thuận tiện của phương tiện
này nhanh chóng được công chúng chấp nhận và đã giúp các tập đoàn kinh
tế - tài chính lớn trên thế giới mở ra một dịch vụ kinh doanh mới: Thanh
toán thẻ.
Có thể nói, thanh toán thẻ là kết quả của sự ứng dụng công nghệ hiện
đại trong hoạt động thanh toán. Sự phát triển kỳ diệu của khoa học công
nghệ đã cho phép dịch vụ này ngày một phát triển với sự kết nối mạng lưới
thanh toán rộng khắp toàn cầu và ngày càng mang đến nhiều tiện ích cho
người sử dụng. Thẻ thanh toán đã đáp ứng tốt nhu cầu của con người trong
hoạt động thanh toán về mặt thời gian, về tính tiện lợi cũng như sự chính
xác. Nhờ đó, thẻ thanh toán ngày càng được sử dụng rộng rãi.
Thẻ dần dần được xem như một công cụ văn minh, thuận lợi trong các
cuộc giao dịch mua bán. Các công ty và ngân hàng liên kết với nhau để khai
thác lĩnh vực thu nhiều lợi nhuận này… Các loại thẻ Master, Visa, Diners
Trần Thị Liên Hoàn – CH 2005B2 Trang 4
Thanh toán thẻ tại NHĐT&PT Việt Nam – thực trạng và giải pháp
club, JCB, American Express (Amex) được sử dụng rộng rãi trên toàn cầu và
các loại thẻ thay nhau phân chia những thị trường rộng lớn.
Kinh doanh dịch vụ thẻ không những mang lại cho các công ty phát
hành lợi nhuận lớn mà còn là phương tiện giúp các công ty này quảng bá
thương hiệu và giới thiệu các sản phẩm khác đến công chúng.
Để hiểu vì sao thanh toán thẻ dễ dàng được công chúng trên thế giới
chấp nhận và vì sao thẻ thanh toán được coi là phương tiện thanh toán tiện
lợi, nhanh chóng, an toàn và văn minh…chúng ta hãy lần lượt tìm hiểu các
khái niệm, cách phân loại, đặc điểm của thẻ thanh toán; vai trò, quy trình
thanh toán thẻ …

1.1.2 Khái niệm thẻ thanh toán:
Thanh toán thẻ là việc các Ngân hàng, các công ty, các cửa hàng…
cung cấp một mạng lưới chấp nhận thanh toán thông qua một phương
tiện là thẻ thanh toán thay cho việc thực hiện thanh toán bằng tiền mặt.
Như vậy, để thực hiện dịch vụ này cần phải có một phương tiện gọi là
thẻ thanh toán. Vậy thẻ thanh toán là gì?
Đã có khá nhiều khái niệm về thẻ thanh toán, chúng ta có thể tham
khảo một số khái niệm sau:
- Thẻ thanh toán là một phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt
mà người chủ thẻ có thể sử dụng để rút tiền mặt hoặc thanh toán tiền hàng
hóa, dịch vụ tại các điểm chấp nhận thanh toán thẻ.
- Thẻ thanh toán là một phương thức ghi sổ những số tiền cần thanh
toán thông qua máy đọc thẻ phối hợp với hệ thống nối mạng computer kết
hợp nối trung tâm phát hành thẻ với các điểm thanh toán. Nó cho phép thực
hiện một cuộc thanh toán nhanh chóng, thuận lợi và khá an toàn cho các đối
tượng tham gia thanh toán…
Trần Thị Liên Hoàn – CH 2005B2 Trang 5
Thanh toán thẻ tại NHĐT&PT Việt Nam – thực trạng và giải pháp
Như vậy, có thể nói mỗi khái niệm với một cách diễn đạt khác nhau
nhưng nhìn chung đây là một phương thức thanh toán mà người sở hữu thẻ
có thể dùng để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ hay rút tiền tự động thông
qua máy đọc thẻ được lắp đặt ở các cơ sở chấp nhận thanh toán thẻ (cửa
hàng, khách sạn, sân bay….) hay ở các máy rút tiền tự động lắp đặt nơi công
cộng. Thẻ thanh toán có thể được phát hành bởi các ngân hàng, các công ty
lớn hay thậm chí các nhà hàng, khách sạn lớn…
1.1.3. Phân loại thẻ thanh toán:
Nếu đứng trên nhiều góc độ khác nhau để phân chia các loại thẻ thì ta
thấy thẻ thanh toán rất đa dạng. Người ta có thể nhìn nhận nó từ góc độ
người phát hành, công nghệ sản xuất hay là phương thức hoàn trả.
- Phân loại theo công nghệ sản xuất: Có 3 loại:

▫ Thẻ khắc chữ nổi (Embosing Card): Đây là loại thẻ được làm dựa
trên kỹ thuật khắc chữ nổi. Trên bề mặt thẻ được khắc nổi các thông tin cần
thiết. Hiện nay người ta không còn sử dụng loại này nữa vì kỹ thuật sản xuất
quá thô sơ dễ bị lợi dụng làm giả.
▫ Thẻ băng từ (Magnetic stripe): Thẻ này được sản xuất dựa trên kỹ
thuật thư tín với hai băng từ chứa thông tin ở mặt sau của thẻ. Thẻ này được
sử dụng phổ biến trong vòng hơn 20 năm nay nhưng đã bộc lộ một số nhược
điểm:
Khả năng bị lợi dụng cao do thông tin ghi trong thẻ không tự mã hoá
được, người ta có thể đọc thẻ dễ dàng bằng thiết bị đọc gắn với máy vi tính.
Hơn nữa, thẻ chỉ mang thông tin cố định, khu vực chứa thông tin hẹp không
áp dụng được các kỹ thuật mã đảm bảo an toàn.
▫ Thẻ thông minh (Smart Card): Đây là thế hệ mới nhất của thẻ thanh
toán, thẻ thông minh dựa trên kỹ thuật vi xử lý tin học nhờ gắn vào thẻ một
Trần Thị Liên Hoàn – CH 2005B2 Trang 6
Thanh toán thẻ tại NHĐT&PT Việt Nam – thực trạng và giải pháp
‘’chip’’ điện tử có cấu trúc giống như một máy tính hoàn hảo. Thẻ thông
minh có nhiều nhóm với dung lượng nhớ của ‘’chip’’ điện tử khác nhau.
- Phân loại theo chủ thể phát hành:
▫ Thẻ do Ngân hàng phát hành (Bank Card): Là loại thẻ do Ngân hàng
phát hành cho khách hàng sử dụng linh động tài khoản của mình tại ngân
hàng, hoặc sử dụng một số tiền do ngân hàng cấp tín dụng hoặc từ tài khoản
tiền gửi thanh toán của khách hàng.
Đây là loại thẻ được sử dụng rộng rãi nhất hiện nay, nó không chỉ lưu
hành trong một quốc gia mà còn có thể lưu hành toàn cầu.
▫ Thẻ do các tổ chức phi ngân hàng phát hành: Đó là thẻ du lịch và
giải trí của các tập đoàn kinh doanh lớn phát hành như Diners Club, Amex,
- Phân loại theo tính chất thanh toán của thẻ:
▫ Thẻ tín dụng (Credit Card): Là loại thẻ được sử dụng phổ biến nhất,
theo đó người chủ thẻ được phép sử dụng một hạn mức tín dụng không phải

trả lãi để mua sắm hàng hoá, dịch vụ tại những cơ sở kinh doanh, cửa hàng,
khách sạn, sân bay, chấp nhận loại thẻ này. Các Ngân hàng sẽ quy định
một hạn mức nhất định cho từng chủ thẻ hay nói cách khác chủ thẻ chỉ được
chi tiêu trong hạn mức đã cho. Nếu chủ thẻ trả hết số tiền nợ vào cuối tháng
cho Ngân hàng thì họ không phải trả lãi cho số tiền đã sử dụng trong tháng,
và ngược lại thì chủ thẻ phải trả số tiền còn nợ theo một mức lãi suất định
trước do ngân hàng phát hành quy định. Từ đặc điểm trên mà người ta gọi
thẻ tín dụng là thẻ GHI NỢ HOÃN HIỆU (delayed debit card) hay chậm trả.
▫ Thẻ ghi nợ (Debit Card): Là loại thẻ có quan hệ trực tiếp và gắn liền
với tài khoản tiền gửi hoặc tài khoản thanh toán. Loại thẻ này khi mua
những hàng hoá, dịch vụ, giá trị những giao dịch sẽ được khấu trừ ngay lập
tức vào tài khoản của chủ thẻ thông qua những thiết bị điện tử đặt tại các cửa
Trần Thị Liên Hoàn – CH 2005B2 Trang 7
Thanh toán thẻ tại NHĐT&PT Việt Nam – thực trạng và giải pháp
hàng, khách sạn, đồng thời ghi Có ngay (chuyển tiền ngay vào tài khoản
của cửa hàng, khách sạn đó. Thẻ ghi nợ còn hay được sử dụng để rút tiền
mặt tại máy rút tiền tự động ATM. Thẻ ghi nợ không có hạn mức tín dụng vì
nó phụ thuộc vào số dư hiện hữu trên tài khoản của chủ thẻ. Chủ thẻ chỉ chi
tiêu trong phạm vi mình có. Tuy nhiên tuỳ theo thoả thuận của chủ thẻ và
ngân hàng phát hành, nếu số dư trên tài khoản của chủ thẻ không đủ thanh
toán, ngân hàng sẽ cấp cho chủ thẻ một mức thấu chi. Với hình thức thấu
chi, thẻ ghi nợ đã giúp cho chủ thẻ có được cấp một khoản tín dụng ngắn
hạn mà không cần làm nhiều thủ tục.
▫ Thẻ rút tiền mặt (Cash Card): Là loại thẻ được dùng để rút tiền mặt
tại các máy rút tiền tự động (ATM) hoặc ở ngân hàng. Với loại thẻ này thì
chủ thẻ phải có tiền gửi ở tài khoản thanh toán ở ngân hàng hoặc được cấp
hạn mức thấu chi mới được sử dụng.
- Phân loại theo phạm vi lãnh thổ:
▫ Thẻ trong nước: Là thẻ được giới hạn sử dụng trong phạm vi một
quốc gia, do vậy đồng tiền giao dịch phải là đồng bản tệ của nước đó. Loại

thẻ này cũng có công dụng như những loại thẻ trên, nhưng hoạt động của nó
đơn giản bởi nó chỉ do một tổ chức hay do một ngân hàng điều hành từ việc
phát hành đến xử lý trung gian, thanh toán. Ngân hàng phát hành thẻ cho
khách hàng của mình và thương lượng với những đơn vị cung ứng dịch vụ,
hàng hoá, ở địa phương chấp nhận loại thẻ này. Những đơn vị chấp nhận
thẻ bán hàng cho khách hàng dùng loại thẻ này và sẽ gửi giấy đòi tiền đến
ngân hàng có chữ ký xác nhận của chủ thẻ. Ngân hàng sẽ ghi Có vào tài
khoản của đơn vị sau khi đã trừ bớt chiết khấu. Thẻ trong nước có thể dùng
để rút tiền mặt .
▫ Thẻ quốc tế: Là loại thẻ được chấp nhận trên toàn cầu, sử dụng các
Trần Thị Liên Hoàn – CH 2005B2 Trang 8
Thanh toán thẻ tại NHĐT&PT Việt Nam – thực trạng và giải pháp
ngoại tệ mạnh để thanh toán. Thẻ quốc tế được khách du lịch rất ưa chuộng
vì nó an toàn, tiện lợi. Do phạm vi hoạt động trải khắp thế giới nên quy trình
hoạt động của loại thẻ này phức tạp hơn, việc kiểm soát và các yêu cầu
thanh toán cũng vì vậy mà rắc rối hơn. Thẻ quốc tế được hỗ trợ và quản lý
trên toàn thế giới bởi các tổ chức tài chính lớn như : MASTER CARD,
VISA hoặc những công ty điều hành như AMEX, JCB hoạt động trong
một hệ thống thống nhất, đồng bộ.
Thẻ quốc tế có nhiều thuận lợi là các ngân hàng nhận được nhiều sự
giúp đỡ về nghiên cứu thị trường, xử lý và nâng cao những yếu tố kỹ thuật
của thẻ từ phía trung tâm thẻ với chi phí thấp hơn nhiều so với sự hoạt động.
Ngoài ra, do được phát hành qua một chương trình độc quyền, thẻ được
nhiều người biết đến và dễ dàng được chấp nhận rộng rãi ở hầu hết mọi nơi.
Ngoài ra thẻ còn có thể phân chia theo mục đích sử dụng và đối
tượng sử dụng như:
▫ Thẻ kinh doanh (Business Card) : Là loại thẻ phát hành cho nhân
viên của các công ty sử dụng nhằm giúp công ty quản lý chặt chẽ việc chi
tiêu của các nhân viên vì mục đích chung của công ty trong kinh doanh
▫ Thẻ du lịch và giải trí (Travel and Entertainment card hay T & E):

Là loại thẻ thường do các công ty tư nhân phát hành để phục vụ cho ngành
du lịch và giải trí.
▫ Thẻ vàng (Gold Card): Là loại thẻ phục vụ cho thị trường “cao cấp”,
được xem như là loại thẻ ưu hạng phù hợp với mức sống và nhu cầu tài
chính của khách hàng có thu nhập cao.
▫ Thẻ thường (Standard card/Normal Card): Là loại thẻ căn bản nhất,
mang tính chất phổ thông, đại chúng được sử dụng đông đảo trên thế giới
hiện nay.
Trần Thị Liên Hoàn – CH 2005B2 Trang 9
Thanh toán thẻ tại NHĐT&PT Việt Nam – thực trạng và giải pháp
Tóm lại: Mặc dù được phân thành những loại khác nhau nhưng các
loại thẻ trên đều có một đặc điểm chung là dùng để thanh toán, chi trả tiền
hàng hoá, dịch vụ…do vậy một cách tổng quát người ta gọi là THẺ THANH
TOÁN.
1.1.4. Đặc điểm của thanh toán thẻ:
Thanh toán thẻ có các đặc điểm nổi bật sau đây:
* Ứng dụng kỹ thuât cao, công nghệ hiện đại trong hoạt động thanh
toán:
Như chúng ta đã biết, thanh toán thẻ là sản phẩm của việc ứng dụng
công nghệ hiện đại trong hoạt động thanh toán như công nghệ thông tin,
công nghệ chế tạo điện tử
Các giao dịch thanh toán chủ yếu được thực hiện bằng máy móc. Các
máy móc này đòi hỏi phải thiết kế với kỹ thuật tinh vi mới thực sự đảm bảo
an toàn đồng thời đảm bảo việc thanh toán được đơn giản và nhanh gọn. Các
thiết bị hỗ trợ có rất nhiều nhưng hiện nay chủ yếu là các loại sau:
- Máy chà hóa đơn (Imprinter)
- Máy Veriphone (P.O.S terminal)
- Mạng vi tính
- Telex
- Máy ATM

- Máy dập thẻ…
Phạm vi thanh toán thẻ rất rộng, trên khắp toàn cầu, muốn đạt được
điều đó phải áp dụng các thành tựu của công nghệ thông tin để kết nối mạng
lưới thanh toán giữa các ngân hàng, các thành viên trong hiệp hội, liên minh
thẻ với nhau mà một thuật ngữ ngày nay vẫn quen sử dụng là banknet.
Trần Thị Liên Hoàn – CH 2005B2 Trang 10
Thanh toán thẻ tại NHĐT&PT Việt Nam – thực trạng và giải pháp
Để tạo nên những chiếc thẻ thanh toán đảm bảo an toàn, chính xác,
khó làm giả đòi hỏi phải ứng dụng công nghệ cao. Hiện nay, trên thế giới
đang có xu hướng phát hành các loại thẻ chip thay thế thẻ từ. Đây là thế hệ
mới nhất của thẻ thanh toán dựa trên kỹ thuật vi xử lý tin học nhờ gắn vào
thẻ một “chip” điện tử có cấu trúc giống như một máy tính hoàn hảo. Tính
an toàn của thẻ chip cao hơn hẳn thẻ từ.
* Người sử dụng thẻ (chủ thẻ) phải có tài khoản tại tổ chức phát
hành:
Để được phát hành thẻ thanh toán, chủ thẻ nhất thiết phải có tài khoản
tại tổ chức phát hành thẻ bởi vì mọi giao dịch thanh toán phát sinh đều gắn
với việc ghi Nợ hay ghi Có tài khoản của chủ thẻ. Chính nhờ đặc điểm này
mà khi thanh toán thẻ phát triển rộng rãi và phổ biến các cơ quan có thẩm
quyền có thể quản lý được nguồn thu nhập của người dân. Bởi khi đó mọi
luồng tiền đều vận động qua tài khoản và cũng nhờ đó hạn chế được các
hình thức rửa tiền, tham nhũng, trốn thuế…
* Mạng lưới thanh toán rộng khắp toàn cầu:
Đây cũng có thể coi là một trong những tiện ích của thanh toán thẻ.
Nhờ có đặc điểm này mà thanh toán thẻ mới trở nên phổ biến và được yêu
thích như ngày nay. Các tổ chức phát hành thẻ phải tạo được một mạng lưới
thanh toán rộng rãi mới thu hút được nhiều khách hàng sử dụng chính vì thế
đã dẫn đến sự ra đời của các liên minh thẻ, hiệp hội thẻ như Vísa, Master
card, Amex, JCB…
* Tổ chức phát hành phải có tiềm lực tài chính mạnh:

Để trang bị đầy đủ máy móc thiết bị hiện đại và cung cấp một mạng
lưới thanh toán rộng rãi cho thanh toán thẻ đòi hòi các tổ chức phát hành
Trần Thị Liên Hoàn – CH 2005B2 Trang 11
Thanh toán thẻ tại NHĐT&PT Việt Nam – thực trạng và giải pháp
phải có tiềm lực tài chính mạnh. Hơn nữa, đây cũng là một yếu tố cần thiết
để khách hàng tin tưởng và sử dụng dịch vụ thẻ của tổ chức phát hành.
* Tiềm ẩn nhiều rủi ro:
Trong kinh doanh, ta có thể khẳng định không một lĩnh vực nào tránh
được rủi ro. Thanh toán thẻ thực sự là một thành tựu lớn của nhân loại trong
việc ứng dụng công nghệ vào hoạt động thanh toán. Với tính chính xác cao
và tốc độ xử lý nhanh, máy móc đã làm giúp con người những điều sức
người không thể làm được nhưng ẩn sau nó là những rủi ro khôn lường.
Máy móc không thể có tư duy như con người để ứng biến trong mọi
tình huống do đó với những thủ đoạn và phương thức lừa đảo tinh vi, bọn tội
phạm công nghệ cao vẫn có thể thực hiện trót lọt các giao dịch thanh toán
bằng thẻ giả gây tổn thất nghiêm trọng cho các tổ chức phát hành và khách
hàng sử dụng thẻ.
Những sự cố trong kỹ thuật cũng có thể dẫn đến hậu quả lớn cho tổ
chức phát hành không chỉ về kinh tế mà còn ảnh hưởng nặng nề đến uy tín.
Do tốc độ xử lý của máy móc trong thanh toán thẻ rất nhanh nên một
sự sai sót, nhầm lẫn trong giao dịch có khi không thể sửa chữa dẫn đến tổn
thất lớn.
Hơn nữa, do phạm vi thanh toán rộng khắp toàn cầu nên hiện tượng
lừa đảo trở nên khó kiểm soát, việc cập nhật thông tin các loại thẻ trong
danh sách đen không kịp thời… Đó là chưa kể đến những sai sót chủ quan
trong các khâu phát hành thẻ, thanh toán thẻ… đều có thể dẫn đến thiệt hại
lớn cho tổ chức phát hành và chủ thẻ.
* Phát triển thanh toán thẻ đòi hỏi phải có trình độ dân trí cao:
Để phát triển loại hình thanh toán thẻ đòi hỏi phải có trình độ dân trí
cao mới dễ dàng tiếp cận và sử dụng đồng thời có nhiều nhu cầu đối với

Trần Thị Liên Hoàn – CH 2005B2 Trang 12
Thanh toán thẻ tại NHĐT&PT Việt Nam – thực trạng và giải pháp
thanh toán thẻ. Thực tế cho thấy ở những nước phát triển, trình độ dân trí
cao (như Mỹ, Canada, Anh, Pháp, Nhật…), dịch vụ này phát triển sớm hơn
và nhanh hơn các nước kém phát triển, trình độ dân trí thấp (như các quốc
gia kém phát triển ở Châu Mỹ la tinh, Châu Phi, Châu Á ). Trong phạm vi
một quốc gia, những khu vực dân trí cao như các thành phố lớn khả năng
phát triển thanh toán thẻ nhanh hơn và dễ dàng hơn khu vực nông thôn hay
những vùng xa xôi hẻo lánh. Do đó, các tổ chức phát hành thẻ cần nắm rõ
đặc điểm này để có chiến lược kinh doanh phù hợp.
1.1.5. Quy trình thanh toán và các chủ thể tham gia vào quá trình thanh
toán thẻ:
Chúng ta có thể tham khảo quy trình thanh toán của các loại thẻ quốc
tế phổ biến hiện nay như Visa, Master, JCB, Amex…Trong quy trình sử
dụng thẻ có nhiều bên tham gia nhưng khái quát chung có các bên như sau:
- Ngân hàng phát hành thẻ (Issuer): Là đơn vị phát hành thẻ cho chủ
thẻ, có trách nhiệm thanh toán ngay số tiền trên hóa đơn do ngân hàng đại lý
chuyển đến khi ngân hàng này thực hiện đúng các thủ tục do ngân hàng phát
hành quy định…
- Chủ thẻ (Card holder): Là người được các ngân hàng phát hành sau
khi xem xét xử lý hồ sơ, phát hành thẻ và cung cấp cho chủ thẻ để sử dụng.
Chủ thẻ có thể sử dụng thẻ của mình tại các quầy của Ngân hàng đại lý hoặc
Trần Thị Liên Hoàn – CH 2005B2 Trang 13
Ngân hàng
phát hành
Ngân hàng
thanh toán
Chủ thẻ Cơ sở tiếp
nhận
Thanh toán thẻ tại NHĐT&PT Việt Nam – thực trạng và giải pháp

máy ATM để rút tiền mặt. Hoặc có thể sử dụng thẻ để thanh toán tiền hàng
hóa, dịch vụ tại các cơ sở chấp nhận thẻ như: các cửa hàng, khách sạn, sân
bay…
- Ngân hàng thanh toán (NHTT) hay còn gọi là ngân hàng đại lý
(Acquire): Là những ngân hàng xin gia nhập vào hiệp hội thẻ quốc tế hoặc
những ngân hàng chỉ làm chức năng trung gian thanh toán giữa chủ thẻ và
ngân hàng phát hành.
Trong quy trình này, NHTT có trách nhiệm trong phạm vi một ngày
làm việc kể từ khi nhận được biên lai thanh toán phải trả tiền vào tài khỏan
của cơ sở tiếp nhận thẻ và khi việc thanh toán thẻ đúng quy định thì phải
thanh toán ngay với trung tâm phát hành thẻ nơi ngân hàng đại lý nhận làm
đại lý.
- Cơ sở tiếp nhận (chấp nhận) thẻ (Merchant):
Cơ sở tiếp nhận thẻ sau khi ký hợp đồng phải tuân theo các quy định
về tiếp nhận thanh toán thẻ của ngân hàng thanh toán và của tổ chức thẻ
quốc tế.
Sau khi giao hàng hoặc cung ứng dịch vụ theo thẻ, trong phạm vi số
ngày làm việc quy định, cơ sở chấp nhận thẻ phải nộp biên lai thanh toán
vào ngân hàng đại lý để đòi tiền. Để quá hạn, nếu gặp rủi ro ngân hàng đại lý
không chịu trách nhiệm.
1.1.6. Vai trò của thanh toán thẻ:
Để dịch vụ thanh toán thẻ có thể dễ dàng được công chúng đón nhận
và thẻ thanh toán trở nên phổ biến như hiện nay chúng ta có thể khẳng định
bởi nó có một ý nghĩa rất lớn đối với toàn xã hội, với hoạt động thanh toán
nói chung và những đối tượng tham gia vào dịch vụ này nói riêng.
Trần Thị Liên Hoàn – CH 2005B2 Trang 14
Thanh toán thẻ tại NHĐT&PT Việt Nam – thực trạng và giải pháp
Trước hết, đối với xã hội: Việc thanh toán bằng thẻ làm giảm nhu cầu
giữ tiền mặt, giảm lượng tiền mặt lưu thông, mọi giao dịch thanh toán đều
phát sinh qua tài khoản nhờ đó các cơ quan quản lý có thể dễ dàng quản lý

thu nhập của người dân và cũng nhờ đó giảm được chi phí vận chuyển và
phát hành tiền. Sử dụng thẻ còn giải quyết được tình trạng bất tiện nếu dùng
tiền mặt như mất vệ sinh, không an toàn, không thuận lợi…Nhìn chung, thẻ
thanh toán còn góp phần thúc đẩy hoạt động kinh doanh phát triển với nhịp
độ nhanh hơn nhờ việc khuyến khích tiêu dùng cá nhân của các tầng lớp dân
cư có thu nhập ổn định.
Đối với hoạt động thanh toán, nhờ có dịch vụ thanh toán thẻ, hoạt
động thanh toán trở nên tiện lợi, nhanh chóng, an toàn và chính xác hơn
nhiều lần so với thanh toán bằng tiền mặt. Nếu trước đây khi thanh toán
bằng tiền mặt, các đối tượng tham gia phải bỏ ra nhiều thời gian để vận
chuyển, kiểm đếm tiền mặt thì với dịch vụ thẻ những công đoạn đó được dỡ
bỏ. Với sự hỗ trợ của hệ thống máy móc, công nghệ hiện đại, những khỏan
tiền giao dịch được thực hiện thông qua việc ghi sổ trên chứng từ do đó một
giao dịch phát sinh có thể chỉ thực hiện trong vài phút thậm chí có thể tính
bằng giây đã có thể hoàn thành với tính an toàn và chính xác cao.
Đối với người sử dụng thẻ: Dịch vụ thẻ mang đến cho người sử dụng
thẻ rất nhiều tiện ích. Trước hết đó là sự thuận tiện khi không phải mang
theo tiền mặt. Người sử dụng thẻ tránh được nỗi lo mất tiền, nếu lỡ mất thẻ,
những đối tượng khác cũng khó lòng sử dụng thẻ để thanh toán hay rút tiền
mặt. Đối với những thẻ có chức năng thấu chi, khi sử dụng thẻ chủ thẻ có thể
sử dụng một hạn mức tín dụng do ngân hàng phát hành cung cấp. Đặc biệt
đối với những thẻ thanh toán quốc tế, người chủ thẻ có thể sử dụng để thanh
Trần Thị Liên Hoàn – CH 2005B2 Trang 15
Thanh toán thẻ tại NHĐT&PT Việt Nam – thực trạng và giải pháp
toán ở khắp mọi nơi trên thể giới, rất tiện lợi cho những người du lịch, đi
công tác hay đi học nước ngoài…
Đối với ngân hàng phát hành: Việc áp dụng thẻ cho phép các ngân
hàng phát hành đưa ra các dịch vụ mới cho khách hàng, là phương tiện tối
ưu để hấp dẫn khách hàng mới, quảng bá thương hiệu và tăng thêm thu nhập
cho ngân hàng từ các khỏan phí thu được nhờ dịch vụ thẻ. Mặt khác, đây là

một loại tín dụng tiêu dùng hiện đại, góp phần đa dạng hóa hình thức kinh
doanh của ngân hàng, mở rộng khả năng hoạt động của ngân hàng trên toàn
cầu.
Đối với cơ sở chấp nhận thẻ: Việc tham gia vào dịch vụ thanh toán thẻ
sẽ giúp các cơ sở này tăng thêm sự sang trọng, uy tín…Mặt khác, các cơ sở
chấp nhận thẻ tránh được hiện tượng khách hàng dùng tiền giả hay vấn đề
mất cắp tiền mặt của khách hàng xảy ra trong nhà hàng, khách sạn…của
mình….
Đối với ngân hàng thanh toán: Được hưởng hoa hồng phí khi làm đại
lý thanh toán cho ngân hàng phát hành. Một mặt nhờ làm trung gian thanh
toán thẻ nên ngân hàng thanh toán giữ được khách hàng là những nhà buôn
bán lẻ. Nếu họ không làm điều này thì những nhà buôn bán lẻ sẽ chuyển tài
khoản của họ sang ngân hàng phát hành hay ngân hàng khác…
Với những lợi ích và ý nghĩa như vậy trong đời sống kinh tế - xã hội
nên thanh toán thẻ ngày một phát triển và trở nên phổ biến trên toàn cầu.
1.2. Quản lý rủi ro trong thanh toán thẻ:
1.2.1. Sự cần thiết phải quản lý rủi ro trong thanh toán thẻ:
Như trên đã đề cập, một trong những đặc điểm của thanh toán thẻ là
tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với hầu hết tất cả các đối tượng tham gia vào quy
Trần Thị Liên Hoàn – CH 2005B2 Trang 16
Thanh toán thẻ tại NHĐT&PT Việt Nam – thực trạng và giải pháp
trình. Tìm hiểu sâu hơn những rủi ro trong hoạt động này chúng ta sẽ thấy rõ
hơn sự cần thiết phải quản lý rủi ro trong hoạt động thanh toán thẻ.
* Rủi ro đối với ngân hàng phát hành:
- Đối với thẻ tín dụng:
Rủi ro quan trọng mà ngân hàng phát hành thẻ phải đối diện khi phát
hành thẻ là rủi ro xảy ra do các chủ thẻ có hành vi gian dối. Cụ thể:
+ Chủ thẻ sử dụng thẻ thanh toán ở các điểm tiếp nhận thẻ khác nhau
với mức thanh toán thấp hơn hạn mức thanh toán nhưng lại có tổng mức
thanh toán cao hơn hạn mức thanh toán cho phép.

Ví dụ: Một chủ thẻ mua hàng hóa và dịch vụ bằng thẻ tín dụng có hạn
mức thanh toán ở cửa hàng là 200 USD trong một ngày như sau:
Cơ sở chấp nhận thẻ Hàng hóa dịch vụ thực
hiện
Giá trị thanh toán
(USD)
A Mua túi xách 90
B Mua mỹ phẩm 100
C Mua thực phẩm 50
Tổng cộng 240
Đối với cơ sở chấp nhận thẻ C, khi chủ thẻ thực hiện thương vụ bằng
thẻ, nhân viên bán hàng nghĩ rằng, thương vụ chỉ có giá trị 50 USD, thấp
hơn hạn mức thanh toán nên không cần xin cấp phép nhưng thực tế chủ thẻ
đã chi quá hạn mức cho phép 40 USD. Khi chấp nhận thanh toán như vậy,
CSCNT đã gây rủi ro cho ngân hàng phát hành.
Rủi ro thanh toán quá hạn mức chỉ được phát hiện khi ngân hàng phát
hành kiểm tra các hóa đơn do các đại lý thanh toán gửi đến. Và như vậy,
NHPH chỉ phát hiện ra sự việc khi không còn kiểm soát được. NHPH sẽ
phải chịu các rủi ro xảy ra nếu chủ thẻ mất khả năng thanh toán.
Trần Thị Liên Hoàn – CH 2005B2 Trang 17
Thanh toán thẻ tại NHĐT&PT Việt Nam – thực trạng và giải pháp
+ Chủ thẻ cố tình lừa đảo bằng các thủ đoạn khác như giả vờ báo mất
thẻ nhưng sau đó lại lấy để sử dụng trong thời gian thẻ chưa kịp đưa vào
danh sách đen…
+ Rủi ro có thể đến từ những nguyên nhân khách quan như chủ thẻ bị
tai nạn bất ngờ, không còn khả năng làm việc, mất thu nhập…
- Rủi ro do các sự cố kỹ thuật: Một sự cố kỹ thuật có thể gây hậu quả
nghiêm trọng cho Ngân hàng phát hành như trường hợp của Eximbank trong
thời gian gần đây. Trong khi tài khoản chủ thẻ không có tiền nhưng vẫn rút
được một lượng tiền lớn từ máy ATM…Điều đó ảnh hưởng rất lớn đến kinh

tế và uy tín của Ngân hàng.
- Rủi ro trong việc thực hiện giao dịch của cán bộ phát hành, cán bộ
thanh toán thẻ. Một sai sót chủ quan của cán bộ giao dịch cũng dẫn đến hậu
quả nặng nề cho Ngân hàng như trường hợp của Vietcombank (do hạch toán
nhầm loại tiền tệ nên dẫn đến số dư lớn trong tài khỏan ATM của khách
hàng).
- Rủi ro về đạo đức của các bộ ngân hàng cũng là một vấn đề cần quan
tâm. Việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn của cán bộ ngân hàng để phát hành
thẻ và rút tiền làm thiệt hại cho ngân hàng, cho khách hàng là hoàn toàn có
thể xảy ra…
* Rủi ro tại ngân hàng thanh toán:
Trong các bên tham gia thanh toán thì ngân hàng thanh toán là nơi ít
gặp rủi ro nhất vì họ chỉ đóng vai trò là người trung gian thanh toán giữa cơ
sở tiếp nhận và ngân hàng phát hành. Rủi ro xảy ra khi:
- Ngân hàng thanh toán có sai sót trong việc cấp phép như chuẩn chi
với giá trị thanh toán lớn hơn trị giá cấp phép.
Trần Thị Liên Hoàn – CH 2005B2 Trang 18
Thanh toán thẻ tại NHĐT&PT Việt Nam – thực trạng và giải pháp
- Ngân hàng thanh toán không cung cấp kịp thời danh sách đen cho cơ
sở tiếp nhận mà trong thời gian đó cơ sở tiếp nhận lại thanh toán thẻ có trong
danh sách này. Lúc đó ngân hàng thanh toán phải chịu rủi ro khi ngân hàng
phát hành từ chối thanh toán.
* Rủi ro tại cơ sở nhận thanh toán thẻ:
Rủi ro đối với cơ sở chấp nhận là rủi ro về việc bị ngân hàng phát
hành từ chối thanh toán toàn bộ số tiền hàng hóa dịch vụ đã cung ứng. Các
rủi ro này hoàn toàn có thể khắc phục nếu cơ sở chấp nhận thẻ kiểm tra kỹ
và không chủ quan khi chấp nhận thẻ.
Các rủi ro có thể là:
- Thẻ hết thời hạn hiệu lực mà cơ sở chấp nhận không phát hiện.
- Cơ sở tiếp nhận thẻ có quan niệm sai cho rằng mình chỉ chịu rủi ro ở

phần vượt hạn mức nên đã thanh toán nhiều thương vụ vượt hạn mức một tỷ
lệ nhỏ mà không xin cấp phép hoặc xin cấp phép đã bị từ chối nhưng vẫn cứ
chấp nhận thanh toán. Thực tế ngân hàng thanh toán sẽ từ chối toàn bộ số
tiền thương vụ chứ không chỉ phần vượt hạn mức.
- Cơ sở chấp nhận cố tình tách một thương vụ thành nhiều thương vụ
nhỏ để không cần xin cấp phép, nếu ngân hàng phát hành biết được sẽ từ
chối thanh toán.
- Sửa chữa số tiền trên hóa đơn do ghi nhầm hay cố ý mà cơ sở chấp
nhận quên rằng từ phí chủ thẻ cũng giữ một hóa đơn nguyên vẹn, ngân hàng
phát hành có thể căn cứ vào sự sai phạm này để từ chối thanh toán số tiền
trên hóa đơn.
* Rủi ro đối với chủ thẻ:
Thông thường các loại thẻ tín dụng quốc tế đều có hai công dụng là
thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ và rút tiền mặt. Chủ thẻ là người duy nhất
Trần Thị Liên Hoàn – CH 2005B2 Trang 19
Thanh toán thẻ tại NHĐT&PT Việt Nam – thực trạng và giải pháp
biết mã số PIN cá nhân. Chủ thẻ do vô tình có thể để lộ PIN và đồng thời bị
mất thẻ mà chưa kịp báo cho Ngân hàng phát hành, do một sự trùng hợp nào
đó người lấy được thẻ biết được số PIN và họ có thể dùng thẻ để rút tiền mặt
tại máy ATM. Do rút tiền mặt qua máy ATM chỉ hoàn toàn dựa trên số PIN
nên không thể kiểm tra được người rút tiền có phải là chủ thẻ hay không.
Trường hợp này chủ thẻ hoàn toàn chịu trách nhiệm về số tiền đã bị mất.
* Rủi ro chung đối với tất cả các đối tượng tham gia thanh toán thẻ là
các hình thức lừa đảo tinh vi của bọn tội phạm…Do thanh toán thẻ chủ yếu
được thực hiện bằng máy móc, công nghệ nên những tội phạm công nghệ
cao vẫn có thể tìm ra cách thức để rút tiền thông qua việc đọc trộm số PIN
của chủ thẻ, làm thẻ giả…
Rõ ràng thanh toán thẻ tiềm ẩn khá nhiều rủi ro. Tuy nhiên, những ích
lợi mà thanh toán thẻ mang lại cho đời sống kinh tế - xã hội của con người
lại rất lớn. Chính vì thế, vấn đề đặt ra là phải làm thế nào để quản lý rủi ro

trong thanh toán thẻ.
1.2.2. Nội dung quản lý rủi ro trong thanh toán thẻ:
Từ những rủi ro trong thanh toán thẻ đã được nêu trên chúng ta sẽ
nghiên cứu những nội dung quản lý rủi ro trong hoạt động thanh toán thẻ:
* Về phía ngân hàng hay các tổ chức phát hành:
Cần có các biện pháp phù hợp để hạn chế rủi ro từ phía các ngân hàng
thành viên, các cơ sở chấp nhận thẻ, từ phía khách hàng hay do tội phạm.
Nhìn chung, các nội dung chính trong quản lý rủi ro tại các ngân hàng phát
hành là:
- Phòng chống các hành vi gian lận, sai phạm của cán bộ trong các
khâu phát hành, thanh toán thẻ.
Trần Thị Liên Hoàn – CH 2005B2 Trang 20
Thanh toán thẻ tại NHĐT&PT Việt Nam – thực trạng và giải pháp
- Tìm mọi biện pháp để phòng tránh các hình thức lừa đảo trong
thanh toán thẻ như làm thẻ giả, dùng thẻ đã hết hiệu lực hay thẻ trong danh
sách bulletin (danh sách báo động khẩn cấp)… để thanh toán.
- Tăng tính hiệu quả, an toàn, chính xác của máy móc, thiết bị phục vụ
thanh toán thẻ để hạn chế đến mức thấp nhất những rủi ro do các sự cố kỹ
thuật cũng như tăng khả năng phát hiện thẻ giả, hạn chế được việc phát hành
thẻ giả do công nghệ làm thẻ rất cao và an toàn…
- Xây dựng quy trình và quy định thanh toán thẻ chặt chẽ, phù hợp để
tránh những rủi ro do thiếu am hiểu về nghiệp vụ hay cố ý sai phạm của cán
bộ nhân viên tham gia vào quá trình thanh toán thẻ tại các ngân hàng thành
viên và cơ sở chấp nhận thẻ.
- Có các biện pháp dự phòng rủi ro trong thanh toán thẻ do các nguyên
nhân khách quan như: Lỗi kỷ thuật; khách hàng bị tai nạn hay ốm đau mà
chết, mất việc làm…
* Về phía các ngân hàng thành viên và các cơ sở chấp nhận thẻ:
Chú ý các trường hợp xin cấp phép và thanh toán để tránh trường hợp
thanh toán quá hạn mức, thanh toán thẻ quá hạn, thẻ trong danh sách đen…

do đó không được ngân hàng phát hành chấp nhận thanh toán.
1.3. Điều kiện mở rộng và nâng cao hiệu quả thanh toán thẻ tại
các Ngân hàng thương mại:
Bên cạnh các dịch vụ truyền thống, thanh toán thẻ là một trong những
dịch vụ hiện đại được các ngân hàng cung cấp đến khách hàng. Phát triển
thanh toán thẻ chính là một trong những biện pháp thúc đẩy thực hiện thanh
toán không dùng tiền mặt. Không chỉ ở các nước phát triển thanh toán thẻ
mới trở nên phổ biến và được yêu thích mà ngày nay hầu hết các nước trên
thế giới đều chú trọng đến lĩnh vực này. Ở Việt Nam, thanh toán thẻ đã có
Trần Thị Liên Hoàn – CH 2005B2 Trang 21
Thanh toán thẻ tại NHĐT&PT Việt Nam – thực trạng và giải pháp
mặt từ những năm đầu của thập niên 90 nhưng chỉ khoảng 5 năm trở lại đây
thị trường thẻ mới thực sự trở nên sôi động. Các Ngân hàng thương mại ra
sức cạnh tranh để thu hút khách hàng, chiếm lĩnh thị phần… nhưng để thanh
toán thẻ thực sự đạt hiệu quả cao cần hội tụ nhiều điều kiện không chỉ những
điều kiện bên trong (nội tại) của từng ngân hàng mà còn phải có đầy đủ các
điều kiện bên ngoài. Vậy những điều kiện đó là gì?
1.3.1. Các điều kiện bên trong:
Các điều kiện bên trong ở đây được hiểu chính là năng lực nội tại của
các ngân hàng thương mại để mở rộng và nâng cao hiệu quả thanh toán thẻ.
Những điều kiện đó bao gồm:
- Tiềm lực tài chính:
Để mở rộng và nâng cao hiệu quả thanh toán thẻ đòi hỏi các NHTM
phải có tiềm lực tài chính mạnh. Có thể coi đây là điều kiện cần thiết đầu
tiên bởi vì thanh toán thẻ đòi hỏi phải đầu tư đầy đủ máy móc thiết bị hiện
đại rất tốn kém và mạng lưới thanh toán rộng. Hơn thế, tiềm lực tài chính
của NHTM sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến niềm tin, sự tín nhiệm của khách
hàng đối với ngân hàng.
- Trình độ công nghệ:
Thanh toán thẻ là hình thức thanh toán hoàn toàn dựa trên công nghệ

kỹ thuật hiện đại. Do đó để phát triển hoạt động này đòi hỏi các NHTM phải
không ngừng nâng cao trình độ công nghệ. Có như vậy mới đủ khả năng để
cung cấp những sản phẩm an toàn, nhiều tiện ích hấp dẫn khách hàng và đạt
hiệu quả cao.
- NHTM phải thực sự hoạt động kinh doanh có hiệu quả, uy tín không
chỉ trong phạm vi một quốc gia mà trên khắp thế giới. Điều đó sẽ mang lại
niềm tin cho khách hàng khi sử dụng dịch vụ. Đồng thời, nhờ đó các Ngân
Trần Thị Liên Hoàn – CH 2005B2 Trang 22
Thanh toán thẻ tại NHĐT&PT Việt Nam – thực trạng và giải pháp
hàng có thể được các tổ chức thẻ lớn trên thế giới chấp nhận tham gia vào
các liên minh thẻ, hiệp hội thẻ của họ. Mạng lưới thanh toán vì thế sẽ được
mở rộng không chỉ trong phạm vi một quốc gia mà khắp toàn cầu và cùng
với sự hợp tác đó là những thuận lợi trong việc học hỏi kinh nghiệm quản lý,
kinh doanh lẫn nhau.
- Nguồn nhân lực :
NHTM phải có đội ngũ chuyên gia giỏi về lĩnh vực thanh tóan thẻ và
có nhiều cán bộ có trình độ, năng động, được đào tạo bài bản, có nhiều phát
minh sáng kiến và đạo đức tốt. Đây là điều kiện không thể thiếu đối với các
tổ chức kinh tế muốn kinh doanh thành công bởi vì thanh toán thẻ là một
lĩnh vực kinh doanh hiện đại mang tính cạnh tranh cao, tiềm ẩn nhiều rủi ro
mà rủi ro lớn nhất chính là rủi ro đạo đức….
* Những điều kiện bên ngoài:
Những điều kiện bên ngoài ở đây được hiểu là những nhân tố bên
ngoài có sự tác động đến khả năng phát triển, mở rộng và nâng cao hiệu quả
thanh toán thẻ của các NHTM. Cụ thể như:
- Môi trường pháp lý:
Môi trường pháp lý tác động khá lớn đến sự phát triển của thanh toán
thẻ. Môi trường pháp lý thuận lợi sẽ tạo điều kiện để hoạt động này phát
triển. Ví dụ như chính sách trả lương qua tài khoản, khuyến khích thanh toán
không dùng tiền mặt của Chính phủ…

- Thói quen trong thanh toán:
Thói quen của con người ảnh hưởng đến nhu cầu của họ. Ở một đất
nước có thói quen thanh toán bằng tiền mặt thì việc phát triển hoạt động
thanh toán thẻ sẽ gặp nhiều trở ngại. Do đó, để thanh toán thẻ phát triển và
Trần Thị Liên Hoàn – CH 2005B2 Trang 23
Thanh toán thẻ tại NHĐT&PT Việt Nam – thực trạng và giải pháp
đạt được hiệu quả cao trước hết phải phá bỏ thói quen sử dụng tiền mặt trong
thanh toán của người dân.
- Trình độ dân trí và mức thu nhập của người dân cao:
Trình độ dân trí cao sẽ giúp các NHTM dễ quảng bá, giới thiệu sản
phẩm thẻ đến khách hàng bởi vì khách hàng có thể nắm bắt và tiếp cận
nhanh với phương tiện thanh toán hiện đại này.
Với mức thu nhập cao con người có nhiều nhu cầu và khả năng để
thanh toán, đó là cơ hội cho thẻ thanh toán phát triển. Chính vì thế những
nơi mức sống của người dân thấp, việc phát triển thanh toán thẻ gặp nhiều
trở ngại.
- Sự cạnh tranh của các Ngân hàng thương mại với nhau trong lĩnh
vực thanh toán thẻ.
Cạnh tranh bao giờ cũng là yếu tố thúc đẩy các tổ chức kinh tế ( ngân
hàng thương mại) không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm. Đối với
thanh toán thẻ, cạnh tranh giúp các NHTM không ngừng nổ lực để đưa ra
những sản phẩm thẻ mang nhiều tiện ích, chất lượng cao cho khách hàng.
Tuy nhiên, ở một chứng mực nào đó, trong thanh toán thẻ, sự cạnh
tranh gay gắt sẽ khiến cho các ngân hàng bị tách biệt, thiếu sự kết nối liên
minh với nhau để tạo ra một mạng lưới thanh toán rộng, hiệu quả, ít tốn
kém…
Chính vì thế, để thanh toán thẻ đạt hiệu quả cao, các NHTM cần liên
minh, hợp tác với nhau, điều đó sẽ giúp các NHTM giảm được nhiều chi phí
trang bị máy móc, phát triển mạng lưới cũng như mang đến sự tiện lợi hơn
cho khách hàng trong thanh toán nếu họ có tài khoản ở nhiều ngân hàng

khác nhau.
Trần Thị Liên Hoàn – CH 2005B2 Trang 24
Thanh toán thẻ tại NHĐT&PT Việt Nam – thực trạng và giải pháp
1.4. Một số kinh nghiệm của các NHTM thế giới và trong nước trong việc
mở rộng và nâng cao hiệu qủa thanh toán thẻ
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG THANH TOÁN THẺ TẠI BIDV
2.1. Khái quát về BIDV:
Được thành lập ngày 26/4/1957, với tên gọi Ngân hàng Kiến thiết Việt
Nam (trực thuộc Bộ Tài chính) theo quyết định 177/TTg ngày 26/04/1957
của Thủ tướng Chính phủ.
Giai đoạn 1957 -1980: Ngân hàng kiến thiết Việt nam - tiền thân của
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt nam - được thành lập trực thuộc Bộ Tài
Chính với quy mô ban đầu gồm 11 chi nhánh, 200 nhân viên với nhiệm vụ
chủ yếu là cấp phát, quản lý vốn kiến thiết cơ bản từ nguồn vốn ngân sách
cho tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội.
Giai đoạn 1981 - 1989 : Ngân hàng kiến thiết Việt nam được đổi tên
thành Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt nam trực thuộc Ngân hàng Nhà
nước Việt nam với nhiệm vụ chủ yếu là cấp phát, cho vay và quản lý vốn
đầu tư xây dựng cơ bản thuộc kế hoạch nhà nước tất cả các lĩnh vực của nền
kinh tế.
Giai đoạn 1990 - 1994 : Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt nam được
đổi tên thành Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt nam (BIDV) với nhiệm
vụ được thay đổi về cơ bản: Ngoài việc tiếp tục nhận vốn ngân sách để cho
vay các dự án thuộc chỉ tiêu kế hoạch nhà nước thì BIDV đã thực hiện huy
động các nguồn vốn trung dài hạn để cho vay đầu tư phát triển, kinh doanh
tiền tệ tín dụng và dịch vụ ngân hàng chủ yếu trong lĩnh vực xây lắp phục vụ
đầu tư phát triển.
Trần Thị Liên Hoàn – CH 2005B2 Trang 25

×