Tải bản đầy đủ (.doc) (47 trang)

Khái niệm và các điều kiện phát sinh trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (304.74 KB, 47 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Quyền yêu cầu người khác bồi thường thiệt hại do hành vi sai trái của người
gây thiệt hại (về tài sản, sức khỏe… ) cho bản thân mình là một quyền được áp dụng
có tần suất lớn nhất trong các quyền về yêu cầu bồi thường thiệt hại quy định bởi luật
dân sự tại xã hội hiện đại. Tại Nhật, số vụ yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại do hành vi
sai trái (bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (BTTHNHĐ)) chiếm 61% trong tổng số
vụ việc tranh chấp dân sự. Con số này nói lên mức độ quan trọng của quyền yêu cầu
bồi thường thiệt hại do hành vi sai trái trong đời sống dân sự.
Khi nghiên cứu về hệ thống pháp luật Dân sự Việt Nam Ông John Gillespie
giáo sư thỉnh giảng của Trường Đại học Luật Deakin - một trong những trường Đại
học Luật danh tiếng của Úc đã nhận định rằng: “Người dân Việt Nam không biết đến
quyền yêu cầu nhà sản xuất, nhà cung cấp dịch vụ bồi thường thiệt hại cho mình do
hành vi sai trái của nhà sản xuất nói riêng và quyền yêu cầu người khác bồi thường
thiệt hại do hành vi sai trái của người đó nói chung”
(1)
.
Ở Việt Nam quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi sai trái tuy đã được
luật hóa tại Bộ luật dân sự, tại chương “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng” (từ Điều 604 đến 630 BLDS năm 2005) và một số văn bản pháp luật dưới
BLDS khác. Tuy nhiên, vấn đề xác định năng lực chủ thể trong trách nhiệm
BTTHNHĐ luôn luôn đặt ra cho các nhà làm luật, những người thừa hành pháp luật
cũng như các nhà nghiên cứu luật pháp những vấn đề nan giải khi tiếp cận.
.Xuất phát từ đó tôi chọn đề tài: “Năng lực bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng của cá nhân theo pháp luật dân sự Việt Nam” để làm khoá luận tốt nghiệp.
(1) Theo bài: Quyền của cá nhân trong thương mại (dân sự) ở Việt Nam: Phân tích dưới phương pháp so sánh) đăng trên tạp chí
Pháp luật quốc tế Đại học Stanford (Stanford Journal of International Law) số 30 năm 1994 (30 Stan. J Int’l L. 325) tại các trang 347, 348 và
349
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay trên các diễn đàn nghiên cứu luật pháp ở nước ta đã xuất hiện khá
nhiều các bài viết, các công trình nghiên cứu về Trách nhiệm BTTHNHĐ, như “những


vấn đề cơ bản về trách nhiệm BTTHNHĐ trong Bộ luật dân sự” của Tiến sỹ Lê Mai
Anh… Tuy nhiên, đối với vấn đề về “Năng lực chủ thể của cá nhân trong BTTHNHĐ”
theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam thì còn khá khiêm tốn trong vấn đề

1
nghiên cứu chuyên sâu và có tính khoa học thực tiễn.
3. Mục đích, phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài chỉ đi sâu nghiên cứu quy định về trách nhiệm BTTHNHĐ mà cụ thể là
“năng lực BTTHNHĐ của cá nhân” mà không đi vào nghiên cứu trách nhiệm bồi
thường theo hợp đồng và năng lực BTTHNHĐ của các chủ thể khác.
Đề tài hướng tới làm rõ các quy định của pháp luật về năng lực bồi thường thiệt
hại của cá nhân trong từng trường hợp cụ thể. Trên cơ sở đó đưa ra những kiến nghị để
hoàn thiện các quy định của pháp luật về vấn đề này.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Kết hợp giữa quan điểm của Chủ
nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử. Quá trình nghiên cứu đề tài tác
giả đã sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu như: Phương pháp phân tích, tổng hợp,
phương pháp so sánh, phương pháp chứng minh.
5. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
khóa luận gồm hai chương:
Chương 1: Khái quát về trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng
Chương 2: Năng lực bồi thường thiệt hại của cá nhân theo Bộ luật dân sự Việt
Nam 2005

2
CHNG I
KHI QUT V TRCH NHIM DN S NGOI HP NG
1.1.Khỏi nim v cỏc iu kin phỏt sinh trỏch nhim dõn s ngoi hp ng

1.1.1.Khỏi nim trỏch nhim dõn s ngoi hp ng
Xó hi luụn luụn l tng ho ca cỏc mi quan h a dng v phc tp v cn
n s iu chnh ca phỏp lut. Chớnh t s a dng v phc tp ca cỏc quan h xó
hi nờn yờu cu phỏp lut cng cn cú mt c ch iu chnh a dng v phự hp, xut
phỏt t õy m nhiu quan h phỏp lut ó ra i trong ú cú quan h v ngha v dõn
s. Trong quan h ny khi ch th tham gia khụng thc hin hoc thc hin khụng
ỳng ngha v ó cam kt k c thc hin khụng ỳng ngha v do phỏp lut quy nh
thỡ phi gỏnh chu v mỡnh nhng hu qu bt li. Hu qu bt li ny th hin thụng
qua vic gii quyt trỏch nhim dõn s gia ngi cú quyn vi ngi cú ngha v
v c thc hin theo nguyờn tc bờn cú hnh vi vi phm v gõy ra thit hi s phi
bi thng. Theo Tạp chí dân chủ và pháp luật của Bộ T pháp, số chuyên đề về Bộ luật
dân sự Việt Nam 2005, tại phần thuật ngữ pháp luật dân sự có đa ra khái niệm về trách
nhiệm dân sự nh sau: Trỏch nhim dõn s (theo ngha rng) l cỏc bin phỏp cú tớnh
cng ch c ỏp dng nhm khụi phc li tỡnh trng ban u ca mt quyn dõn s
b vi phm. Trách nhiệm dân sự (theo ngha hp) l cỏc bin phỏp cng ch ỏp dng
i vi ngi cú hnh vi vi phm phỏp lut gõy ra thit hi cho ngi khỏc, ngi gõy
ra thit hi phi chu trỏch nhim khc phc nhng hu qu xu xy ra bng ti sn ca
mỡnh.[tr. 249]
Cỏc ch th khi tham gia vo quan h phỏp lut phi gỏnh chu nhng hu qu
bt li, h phi chu trỏch nhim dõn s l do chớnh nhng hnh vi sai trỏi ca mỡnh.
Hnh vi ca cỏc ch th cú th l vi phm hp ng (khụng thc hin, thc hin khụng
ỳng, khụng y ngha v ó cam kt) hoc do hnh vi vi phm phỏp lut. Nh vy,
trỏch nhim dõn s cú th chia thnh hai loi ú l trỏch nhim dõn s theo hp ng
v trỏch nhim dõn s ngoi hp ng.
Thc tin i sng hng ngy ca chỳng ta xy ra rt nhiu cỏc thit hi v ti
sn, tớnh mng, sc kho, danh d, nhõn phm ca cụng dõn, ti sn, danh d, uy tớn
ca t chc. Nguyờn nhõn dn n nhng thit hi ny rt a dng, cú th l do tỏc

3
động của các yếu tự nhiên bên ngoài, tác động bởi hoàn cảnh khách quan hay hành vi

của con người…trong đó phần lớn là do các hành vi trái pháp luật của con người mang
lại. Trước những hành vi xâm phạm tới các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ
chức được pháp luật bảo vệ cho nên nhà nước cần đề ra những biện pháp để ngăn chặn
và khắc phục hậu quả. Điều 71 Hiến pháp 1992 của nước ta ghi nhận: “Công dân có
quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ,
danh dự, nhân phẩm…”. Thể chế hoá các quy định về vấn đề này của Hiến pháp
BLDS Việt Nam 2005 tại Điều 604 đã quy định: “Người nào do lỗi cố ý hoặc vô ý
xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích
hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc
chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường”. Điều này có nghĩa là một người
nào đó gây thiệt hại cho người khác thì phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Khi
một người gây thiệt hại cho người khác sẽ làm phát sinh mối quan hệ bồi thường thiệt
hại giữa họ và người bị thiệt hại. Quan hệ bồi thường thiệt hại này phát sinh từ hành vi
trái pháp luật của một bên chủ thể nhưng giữa các bên không có mối quan hệ hợp đồng
hoặc nếu có, thì vi phạm này không phải là vi phạm nghĩa vụ đã cam kết trong hợp
đồng, do đó phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Vậy trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là trách nhiệm phát sinh giữa các chủ thể
mà trước đó không có quan hệ hợp đồng hoặc tuy có quan hệ hợp đồng nhưng hành vi
vi phạm của người gây thiệt hại không thuộc về nghĩa vụ chấp hành hợp đồng đã ký
kết.
Như vậy, về cơ bản thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phát
sinh không phải từ quan hệ hợp đồng nhưng cũng không thể khẳng định một cách
cứng nhắc rằng trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng chỉ phát sinh không
phải từ hợp đồng. Nếu khẳng định như vậy thì sai lầm, phiến diện và thiếu căn cứ, bởi
lẽ ta không thể loại bỏ được khả năng nghĩa vụ dân sự ngoài hợp đồng phát sinh xuất
phát từ quan hệ hợp đồng giữa các bên chủ thể. Ngoài ra, quan hệ bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng còn xuất hiện trong rất nhiều trường hợp khác nhau. Ví dụ như quyết
định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, việc thực hiện công việc không có uỷ
quyền, ngay cả hợp đồng dân sự vô hiệu hay hành vi pháp lý đơn phương cũng có thể
trở thành nguyên nhân của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và còn rất

nhiều các trường hợp khác nữa.

4
Qua những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng như sau: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là
trách nhiệm dân sự phát sinh giữa các chủ thể mà trước đó không có quan hệ hợp
đồng hoặc tuy có quan hệ hợp đồng nhưng hành vi của người gây thiệt hại không
thuộc về nghĩa vụ thi hành hợp đồng đã ký kết giữa các bên.
1.1.2. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Pháp luật nghiêm cấm các hành vi gây thiệt hại đến tài sản, tính mạng, sức
khoẻ… cho công dân một cách bất hợp pháp. Các quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân luôn được Nhà nước bảo hộ. Điều 74 Hiến pháp1992 của Nhà nước CHXHCN
Việt Nam quy định: “Mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của tập thể và của công dân phải được kịp thời xử lý nghiêm minh…”. Pháp
luật quy định những biện pháp buộc người có hành vi vi phạm pháp luật và gây ra thiệt
hại phải có trách nhiệm trước những hậu quả mà mình gây ra cho người khác, đó là
trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Điều 604 BLDS 2005 quy định: “Người nào do lỗi
cố ý hoặc vô ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản,
quyền và lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của
pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường”. Như vậy, trách
nhiệm bồi thường chính là hậu quả bất lợi về tài sản mà người có hành vi xâm phạm
đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm… của người khác phải gánh chịu.
Tuy nhiên, để đảm bảo cho quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia
vào quan hệ pháp luật dân sự thì việc quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây
thiệt hại cho người khác không thể xác định một cách tuỳ tiện và thiếu căc cứ. Pháp
luật dân sự quy định việc giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại căn cứ vào các điều
kiện nhất định. Điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng chính là những yếu tố tạo nên cơ sở cho việc xác định trách nhiệm bồi thường.
Các điều kiện này phải được xem xét trong mối quan hệ biện chứng, thống nhất và đầy
đủ.

Trong Bộ luật dân sự 2005 của nước ta không có một quy định nào quy định cụ
thể về các điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Tuy nhiên, theo Nghị Quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số
01/2004 NQ/- HĐTP ngày 28 tháng 4 năm 2004 hướng dẫn áp dụng một số quy định
của Bộ luật dân sự về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì có bốn điều kiện làm

5
phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng: (1) có thiệt hại xảy ra, (2)
hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật, (3) có lỗi của người gây thiệt hại, (4) có
mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật.
*Có thiệt hại xảy ra
Mục đích của việc bồi thường thiệt hại là khôi phục lại, bù đắp lại những tổn
thất cho người bị thiệt hại cho nên nếu không có thiệt hại thì vấn đề bồi thường sẽ
không được đặt ra kể cả trong trường hợp các điều kiện khác đã đáp ứng đầy đủ. Từ
đây có thể thấy thiệt hại là điều kiện tiên quyết, bắt buộc phải có của trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng để quyết định xem có phát sinh trách nhiệm bồi
thường hay không.
“Thiệt hại” theo luật dân sự Việt Nam là những tổn thất thực tế được tính thành
tiền do việc xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, tài sản của tổ chức,
cá nhân, tổn thất thực tế ở đây chính là sự giảm sút, mất mát về lợi ích vật chất, tinh
thần hay những chi phí bỏ ra để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại mà người bị
thiệt hại phải gánh chịu. Như vậy, xét từ bất kỳ góc độ nào thì hành vi trái pháp luật và
gây ra thiệt hại cũng đều xâm phạm đến các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ, cho
nên, những quy định về bồi thường thiệt hại của pháp luật dân sự đưa ra là hợp lý để
kịp thời ngăn chặn những hành vi gây thiệt hại và buộc những người đã thực hiện hành
vi gây thiệt hại phải có trách nhiệm bồi thường. Người đã gây ra thiệt hại thì phải có
trách nhiệm bồi thường những tổn thất mà mình gây ra là hoàn toàn đích đáng nhưng
để có một quyết định giải quyết về mức bồi thường thiệt hại thật chính xác và hợp
tình, hợp lý thì người có trách nhiệm giải quyết cần quan tâm đến tính chất của những
thiệt hại đã xảy ra. Bởi lẽ, khi có thiệt hại xảy ra thì thiệt hại này có thể dễ dàng tính

toán, quy đổi thành tiền nếu đó đơn thuần là những thiệt hại về vật chất. Tuy nhiên
thiệt hại xảy ra có thể là về tinh thần, tính mạng, sức khỏe của con người. Bản chất của
hai loại thiệt hại nay mang những đặc điểm riêng biệt, do vậy việc phân chia và nghiên
cứu rõ hai loại thiệt hại này sẽ giúp cho việc xác định bồi thường thiệt hại tiến hành
được chính xác hơn, thuận tiện hơn.
- Thứ nhất là thiệt hại về vật chất
Điều đầu tiên phải khẳng định rằng thiệt hại về vật chất là thiệt hại có thể tính
toán, định lượng ra tiền được. Theo thông tư 173 UBTP/TANDTC ngày 23/3/1997 thì
thiệt hại về vật chất (tài sản) là sự mất mát, giảm sút về một lợi ích vật chất có thể tính

6
toán được bằng tiền, bao gồm các khoản: Những hư hỏng, mất mát về tài sản, những
chi phí bỏ ra để sửa chữa và những thu nhập bị mất do bị thiệt hại.
Ghi nhận sự thiệt hại về vật chất (tài sản) BLDS 2005 đã quy định rõ thiệt được
bồi thường do tài sản bị xâm phạm. Theo lôgic thì thiệt được bồi thường cũng chính là
thiệt hại mà người bị thiệt hại phải gánh chịu, bao gồm:
1. Tài sản bị mất;
2. Tài sản bị huỷ hoại hoặc bị hư hỏng;
3. Lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản;
4. Chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại
Và các thiệt hại trên muốn được bồi thường thì phải thoả mãn một số điều kiện: sự
thiệt hại phải chắc chắn, thực tế và chưa được bồi thường.
Thiệt hại phải chắc chắn nghĩa là người bị thiệt hại phải đưa ra được những
thiệt mà mình phải gánh chịu và những thiệt hại đó có thể tính toán được. Thiệt hại đó
phải thực tế tuy nhiên tính thực tế của thiệt hại được biểu hiện không nhất thiết phải là
thiệt hại đã xảy ra bởi lẽ một thiệt hại trong tương lai (thiệt hại gián tiếp) cũng được
coi là có tính thực tế nếu chắc chắn rằng nó sẽ xảy ra và có thể ước lượng trước được.
Do vậy mà hậu quả tương lai của một thiệt hại thực tế cũng có thể được xem xét để
định ra mức bồi thường. Đương nhiên một thiệt hại không chắc chắn và chỉ mang tính
giả định thì không thể được xem xét để bồi thường.

Qua những phân tích trên cho thấy khi tính toán đến thiệt hại nhà làm luật
không chỉ tính đến những thiệt hại trực tiếp xảy ra mà còn tính đến cả những thiệt hại
gián tiếp. Nhưng khi tính đến những thiệt hại gián tiếp cần phải xem xét thật kỹ mối
quan hệ giữa thiệt hại gián tiếp với những thiệt hại trực tiếp đã xảy ra.
Liên quan đến việc xác định bồi thường thiệt hại thì việc thiệt hại đã được đền
bù chưa cũng là một vấn đề phức tạp để. Hiển nhiên nếu một thiệt hại đã được bồi
thường rồi thì người bị thiệt hại không thể khởi kiện để đòi bồi thường một lần nữa.
Song trên thực tế để xác định xem một thiệt hại đã được bồi thường chưa không đơn
giản chút nào. Vấn đề được đặt ra trong trường hợp bảo hiểm.
BLDS Việt Nam quy định về quan hệ bảo hiểm gồm có ba loại gồm có bảo
hiểm trách nhiệm dân sự, bảo hiểm tính mạng và bảo hiểm tài sản.
Đối với quan hệ bảo hiểm trách nhiệm dân sự nếu nạn nhân - người bị thiệt hại
đã được công ty bảo hiểm bồi thường thì không thể kiện người gây ra thiệt hại để đòi

7
bồi thường thêm một lần nữa vì khi công ty bảo hiểm bồi thường cho nạn nhân là họ
đã đại diện cho người gây ra thiệt hại. Vấn đề sẽ trở nên phức tạp hơn trong trường
hợp bảo hiểm tính mạng và bảo hiểm tài sản.
Khi có thiệt hại xảy ra người đựơc bảo hiểm đã được công ty bảo hiềm bồi
thường rồi thì có được tiếp tục yêu cầu người gây ra thiệt hại bồi thường nữa không?
Và số tiền mà công ty bảo hiểm đã chi trả cho người được bảo hiểm có phải là một
khoản bồi thường thiệt hại hay không?
Số tiền mà công ty đã chi ra cho người bị thiệt hại thì công ty có quyền đòi
người gây ra thiệt hại phải thanh toán cho mình số tiền đó không? Điều này đã được
giải quyết theo Điều 577 của BLDS 2005 về chuyển yêu cầu hoàn trả: “Trường hợp
người thứ ba có lỗi mà gây thiệt hại cho bên được bảo hiểm và bên bảo hiểm đã trả
tiền bảo hiểm thì bên bảo hiểm có quyền yêu cầu người thứ ba hoàn trả khoản tiền
mình đã trả”. Cũng theo quy định của điều luật này thì người được bảo hiểm có quyền
yêu cầu bồi thường thêm khoản chênh lệch mà người bảo hiểm hoặc người gây thiệt
hại bồi thường.

- Thứ hai là thiệt hại về tinh thần
Không có một khái niệm nào đựơc đưa ra giải thích thế nào là “thiệt hại về tinh
thần” chúng ta chỉ có thể hiểu một cách khái quát thiệt hại tinh thần là sự xâm phạm
vào các giá trị tinh thần, tình cảm như là sự mất danh dự, tạo nên những đau thương…
Pháp luật dân sự không có một quy định nào cụ thể về vấn đề này, khoản 3 Điều 307
quy định một cách khái quát: “Người gây thiệt hại tính thần cho người khác do xâm
phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người đó thì ngoài
việc phải chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai còn phải bồi thường
một khoản tiền để bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị hại”.
Bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm là vấn đề nhạy
cảm và phức tạp, bởi vì những thiệt hại về tinh thần là những thiệt hại phi vật chất
không thể cân, đo, đong, đếm được, cũng không có một công thức chung để quy ra
tiền áp dụng cho các trường hợp. Suy cho đến cùng những bù đắp về tình thần chỉ
mang tính chất an ủi, động viên đến người bị thiệt hại mà thôi. Có thể nói đây là một
vấn đề khó, cho đến nay về cơ bản các nhà làm luật vẫn chưa ban hành được văn bản
hướng dẫn cụ thể về vấn đề này. Nói về thiệt hại tính thần có hai quan điểm khác nhau
về vấn đề bồi thường: quan điểm thứ nhất cho rằng thiệt hại về tinh thần là thiệt hại

8
không thể bù đắp được vì thiệt hại về tinh thần như mất đi người thân, tình cảm bị xúc
phạm… những tổn thất này đều vô giá không thể quy đổi ra thành tiền được, quan
điểm thứ hai lại cho rằng thiệt hại dù là vật chất hay tinh thần đều phải bồi thường vì
những thiệt hại tính cho đến cùng thì cũng chỉ mang tính tương đối mà thôi. Ngay cả
thiệt hại về vật chất nói là có thể tính ra thành tiền được nhưng mọi sự đền bù cũng chỉ
mang tính khắc phục, sửa chữa làm sao có thể để nó trở lại nguyên gốc của trạng thái
ban đầu như trước khi chưa bị thiệt hại. Mỗi một quan điểm đều có cách luận giải
riêng của mình nhưng giả sử ta cho rằng quan điểm thứ nhất là hợp lý thì chẳng lẽ
người bị gây hại phải đương nhiên gánh chịu những tổn thất do người khác gây ra cho
mình hay sao? Như vậy phải chăng là quá thiệt thòi cho người bị gây hại, mà người có
lỗi thì lại không phải gánh vác một trách nhiệm gì cả. Theo quan điểm hai sẽ hợp lý

hơn, dù rằng những thiệt hại về tinh thần tuy là khó có thể tính toán được nhưng xét
trên một phương diện nào đó thì việc được đền bù phần nào sẽ an ủi người bị hại và
cũng là cơ hội cho người gây ra thiệt hại chuộc lỗi. Mặt khác nếu xem xét một cách
khoa học thì bên cạnh sự biểu hiện vô hình của những thiệt hại về tinh thần làm cho
mọi tính toán thiệt hại trở nên khó khăn vẫn còn một số căn cứ có thể tính toán được
để buộc người gây ra thiệt hại phải bồi thường cho người bị hại. Đây là những thiệt hại
phát sinh từ những tổn thất về tinh thần (ví dụ như thu nhập bị mất vì phải nghỉ việc,
chi phí để thay đổi môi trường sống và sinh hoạt). BLDS 2005 cũng đã quy định việc
bồi thường thiệt hại tinh thần tại các điều: Điều 609, Điều 610, Điều 611 nhằm đảm
bảo quyền lợi chính đáng của công dân. Đó là những thiệt hại phần nào còn tính toán
được còn những thiệt hại thuần tuý về tính thần không thể tính toán được thì sự bù đắp
chỉ là tượng trưng, vì vậy cơ quan có thẩm quyền khi giải quyết vụ việc cần phải thận
trọng để có thể đưa ra một quyết định thật sự thoả đáng. Một điểm cần lưu ý về thiệt
hại tinh thần, đây là những thiệt hại gắn liền nhân thân của người bị hại và không thể
chuyển giao quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại do đó chỉ có người bị thiệt hại mới có
quyền hưởng bồi thường. Tuy nhiên đối với người gây ra thiệt hại thì khác, nếu người
gây ra thiệt hại chết mà không thực hiện được nghĩa vụ về tài sản của mình thì theo
quy định của khoản 1 Điều 173 “Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực
hiện nghĩa vụ về tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có
thỏa thuận khác”.
*Hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật

9
Quyền được bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, tài sản là quyền tuyệt
đối của mọi công dân, tổ chức. Mọi người đều phải tôn trọng những quyền đó của chủ
thể khác và không được thực hiện bất cứ một hành vi nào xâm phạm đến các quyền
đó. Theo đó Điều 604 của BLDS 2005 có thể được hiểu là: hành vi trái pháp luật là
hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín , tài sản của
cá nhân, pháp nhân hoặc các chủ thể khác. Việc xâm phạm và gây thiệt hại có thể là
hành vi trái pháp luật hình sự, hành chính, dân sự, kể cả đường lối chính sách của

Đảng, Nhà nước, các quy tắc sinh hoạt trong từng cộng đồng dân cư. Có nghĩa là để
coi là hành vi trái pháp luật thì bắt buộc là hành vi đó phải vi phạm một quy định pháp
luật cụ thể. Đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì hành vi vi
phạm bất cứ quy định của luật nào mà xâm phạm đến các quyền và lợi ích hợp pháp
của cá nhân, tổ chức thì hành vi đó là trái pháp luật.
Hành vi trái pháp luật có thể là hành vi xâm phạm đến các quyền tài sản hoặc
các quyền nhân thân. Khi xâm phạm đến các quyền về tài sản có nghĩa là xâm phạm
đến các quyền về sở hữu, các quyền khác về vật còn xâm phạm đến các quyền nhân
thân có nhiều biểu hiện khác nhau như xâm phạm đến đời tư, gây thiệt hại về tính
mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín… Là một trong bốn điều kiện làm phát
sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, hành vi gây thiệt hại phải trái
pháp luật, như vậy nếu hành vi có gây ra thiệt hại nhưng không trái pháp luật thì trách
nhiệm bồi thường sẽ không đặt ra. Trên thực tế có nhiều trường hợp chủ thể đã gây ra
thiệt hại nhưng hành vi gây ra thiệt hại không phải là vi phạm pháp luật mà là hành vi
hợp pháp nếu hành vi đó được thực hiện theo nghĩa vụ mà pháp luật quy định hoặc
nghề nghiệp buộc họ phải làm như vậy. Trong các trường hợp này, trách nhiệm bồi
thường không được đặt ra đối với người gây thiệt hại. Ngoài ra, người gây thiệt hại
không phải bồi thường trong trường hợp phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết hoặc
theo yêu cầu của người bị hại. Tuy nhiên, nếu vượt quá giới hạn nêu trên thì người gây
ra thiệt hại vẫn phải bồi thường.
* Có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phát sinh khi thiệt hại xảy ra
là do chính kết quả trực tiếp, tất yếu của hành vi trái pháp luật. Đây chính là mối quan
hệ của sự vận động nội tại, trực tiếp và về nguyên tắc nguyên nhân phải xảy ra trước
kết quả trong khoảng thời gian xác định. Theo Điều 604 của BLDS thì có thể thấy

10
hành vi “xâm phạm” đến tính mạng, tài sản, sức khoẻ… là nguyên nhân và “thiệt hại”
là hậu quả của hành vi đó.
Hành vi trái pháp luật là nguyên nhân làm phát sinh thiệt hại cho nên hành vi đó

bao giờ cũng xuất hiện trước thiệt hại. Mối quan hệ nhân quả là một vấn đề phức tạp
bởi lẽ một thiệt hại xảy ra có thể là do tác động của một hoặc của nhiều hành vi trái
pháp luật và một hành vi trái pháp luật cũng có thể gây ra nhiều thiệt hại.
Trong trường hợp thiệt hại do nhiều nguyên nhân gây ra thì xác định đâu là
nguyên nhân chính hay tất cả đều là nguyên nhân dẫn đến thiệt hại quả thật là phức
tạp. Ở đây phải xác định xem hành vi nào là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến thiệt hại.
Cũng có nhiều trường hợp thiệt hại xảy ra lại là do một hành vi trái pháp luật khác xen
vào chứ không phải do hành vi có chứa đựng khả năng thực tế làm phát sinh gây thiệt
hại. (Ví dụ A dùng dao đâm B bị thương, trên đường đi cấp cứu B lại bị xe của C đâm
phải gây trấn thương sọ não dẫn đến tử vong. Kết quả giám định pháp y cho thấy B
chết không phải là do A đâm vì vết thương của A đâm vẫn có thể cứu chữa được nếu
B được cấp cứu kịp thời (không bị xe của C đâm). Như vậy, tuy hành vi của A có chứa
đựng khả năng gây thiệt hại đến tính mạng của B nhưng khả năng này chưa kịp phát
huy thì hành vi trái pháp luật của C lại xen vào phá vỡ đi khả năng đó và tạo ra một
quan hệ mới và trong quan hệ này thì hành vi trái pháp luật của C trực tiếp gây ra thiệt
hại về tính mạng cho B.
Trường hợp một nguyên nhân có thể gây ra nhiều thiệt hại thì cần phải xác định
rõ xem kết qủa nào là hậu quả trực tiếp do nguyên nhân là hành vi trái pháp luật gây
ra. Trong trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng chúng ta biết rằng trái hộ chỉ phải
bồi thường về những khoản được coi là hậu quả trực tiếp của sự vi phạm. Nguyên tắc
này cũng được áp dụng trong trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng, tuy nhiên, thiệt hại
trực tiếp ở đây không nhất thiết phải là hậu quả ngay lập tức của nguyên nhân gây thiệt
hại mà chỉ cần là hậu quả tất nhiên của hành vi gây thiệt hại.
Tóm lại việc xác định mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết qủa giữa hành vi
trái pháp luật và thiệt hại xảy ra trong nhiều trường hợp rất phức tạp và dễ dẫn đến
những sai lầm vì vậy khi xem xét mối quan hệ này cần hết sức thận trọng, phải thu
thập đầy đủ các tài liệu và chứng cứ, đánh giá một cách toàn diện đối với vấn đề đang
giải quyết để có thể đưa ra một kết luận chính xác, xác định đúng người có trách
nhiệm bồi thường thiệt hại.


11
* Người gây thiệt hại có lỗi
Lỗi là một trong bốn điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng nói riêng và trách nhiệm dân sự nói chung. Xét về bản chất lỗi được
các ngành luật xác định nhau. Đó là chính là quan hệ giữa chủ thể thực hiện hành vi
trái pháp luật với xã hội mà nội dung của nó là sự phủ định những yêu cầu của xã hội
đã được thể hiện thông qua các quy định của pháp luật. Khi một người có đủ nhận thức
và điều kiện để lựa chọn cách xử sự sao cho xử sự đó phù hợp với pháp luật, tránh
được thiệt hại cho chủ thể khác nhưng vẫn thực hiện hành vi gây thiệt hại thì người đó
bị coi là có lỗi. Như vậy, lỗi là trạng thái tâm lý của người có hành vi gây thiệt hại,
phản ánh nhận thức của người đó đối với hành vi và hậu quả của hành vi mà họ đã
thực hiện.
Việc áp dụng lỗi làm căn cứ để xác định trách nhiệm được BLDS 2005 quy
định tại Điều 308 trong đó nhấn mạnh lỗi là căn cứ phát sinh trách nhiệm dân sự, trừ
trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. Điều 308 khoản 2
cũng chia lỗi thành hai loại là lỗi cố ý và lỗi vô ý được quy định như sau: “Cố ý gây
thiệt hại là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho
người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc tuy không mong muốn nhưng để
mặc cho thiệt hại xảy ra”. Về mặt khách quan, quy định này đã dự liệu trường hợp
người gây thiệt hại nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà
vẫn thực hiện cho dù người thực hiện hành vi có thái độ mong muốn hoặc không mong
muốn nhưng đã có thái độ để mặc cho thiệt hại xảy ra. Do vậy, người đó phải chịu
trách nhiệm trước hành vi có lỗi cố ý của mình. Xét về mặt chủ quan, người gây thiệt
hại khi thực hiện hành vi luôn nhằm mục đích có thiệt hại xảy ra cho người khác và
được thể hiện dưới hai mức độ là mong muốn có thiệt hại xảy ra, hai là không mong
muốn thiệt hại xảy ra nhưng lại để mặc cho thiệt hại xảy ra. Mức độ thể hiện ý chí -
hành vi của người cố ý gây thiệt hại trong trường hợp người đó nhận thức rõ hành vi
của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện thì phải chịu trách nhiệm
bồi thường. Tại khoản 2, Điều 308 quy định về khái niệm lỗi vô ý: “Vô ý gây thiệt hại
là trường hợp một người không thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại

mặc dù phải biết hoặc có thể thấy trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của
mình có khả năng gây thiệt hại nhưng lại cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có
thể ngăn chặn được”. Người gây thiệt hại đã không mong muốn, không để mặc cho

12
thiệt hại xảy ra nhưng đã họ không kiểm soát được diễn biến của sự kiện do hành vi vô
ý của mình tạo ra do đó dù là vô ý thì họ cũng phải chịu trách nhiệm trước hậu quả xảy
ra. Việc phân chia thành lỗi vô ý và lỗi cố ý có ý nghĩa như thế nào trong trách nhiệm
dân sự nói chung và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói riêng? Để
hiểu rõ vấn đề này ta sẽ đi vào so sánh lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng trong tương quan với lỗi trong trách nhiệm hình sự. Trong trách nhiệm hình
sự lỗi và mức độ lỗi có một ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định tội danh và định
khung hình phạt nên bắt buộc phải có sự phân biệt chi tiết các mức độ khác nhau của
hình thức lỗi. Nhưng trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì không
như vậy, ngay Điều 604 của BLDS cũng đã quy định rằng: “Người nào do lỗi cố ý
hoặc vô ý xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản,
quyền và lợi ích khác của cá nhân, xâm phạm đến danh dự, uy tín, tài sản của pháp
nhân hoặc của chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường”. Theo điều luật này
thì dù là lỗi cố ý hay lỗi vô ý mà để thiệt hại xảy ra thì đều phải bồi thường và mức bồi
thường cũng không phụ thuộc vào hình thức lỗi. Như vậy, dù có sự phân chia thành lỗi
cố ý và lỗi vô ý nhưng ý nghĩa của sự phân chia này thì dường như không tồn tại. Điều
này thể hiện rõ trong các quy định của BLDS 2005 về phần bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng, ngoại trừ khoản 2 Điều 615 có nhắc đến lỗi cố ý của người dùng rượu hoặc
chất kích thích khác làm cho người khác lâm vào tình trạng mất khả năng nhận thức và
làm chủ được hành vi của họ mà gây ra thiệt hại thì phải bồi thường cho người bị thiệt
hại. Và khoản 2 Điều 605 quy định về việc người gây thiệt hại có thể được giảm mức
bồi thường nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại thì việc phân chia lỗi không được thể hiện
trong các quy định khác của mục này.
Tóm lại vấn đề hình thức lỗi, mức độ lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng ảnh hưởng rất ít đến việc xác định trách nhiệm bồi thường, thậm chí

chủ thể còn phải bồi thường cả trong trường hợp không có lỗi (khoản 3 Điều 623).
Khi đi nghiên cứu “lỗi” trong mối quan hệ là một trong bốn điều kiện của trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì một vấn đề quan trọng được đặt ra là
việc xác định đúng mức độ lỗi của các bên trong quan hệ này để đưa ra một quyết định
bồi thường chính xác và thỏa đáng. Bởi lẽ trong rất nhiều trường hợp việc xác định lỗi
là rất phức tạp và gây không ít khó khăn như trong các trường hợp lỗi hỗn hợp hoặc lỗi
lại là của người bị thiệt hại. Thứ nhất là trường hợp lỗi hỗn hợp nghĩa là cả người gây

13
thiệt hại và người bị thiệt hại đều có lỗi trong việc để thiệt hại xảy ra. Điều 617 có quy
định về trường hợp bồi thường thiệt hại trong trường hợp người bị thiệt hại có lỗi:
“Khi người bị thiệt hại cũng có lỗi trong việc gây thiệt hại thì người gây thiệt hại chỉ
phải bồi thường phần thiệt hại tương ứng với mức độ lỗi của mình”, trong điều luật
này có nhắc đến “mức độ” lỗi do vậy việc xác định trách nhiệm bồi thường trong
trường cả hai bên đều có lỗi thì mỗi bên phải chịu trách nhiệm tương ứng với mức độ
lỗi của mình. Tuy nhiên, trong BLDS 2005 của nước ta lại không có quy định về mức
độ lỗi, vậy đâu là căn cứ để xác định mức độ lỗi cho từng bên? Việc xác định mức độ
lỗi cũng được đặt ra trong trường hợp bồi thường thiệt hại do nhiều người cùng gây ra,
nhưng trong trường hợp này có phần đơn giản hơn vì theo quy định của luật nếu không
xác định được mức độ lỗi thì bồi thường thiệt hại theo phần bằng nhau. Thứ hai là
trường hợp lỗi hoàn toàn thuộc về người bị thiệt hại. Điều 617 của BLDS quy định rất
rõ ràng: “Nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại thì người gây
thiệt hại không phải bồi thường”. Nhưng hiểu thế nào về trường hợp người bị thiệt hại
hoàn toàn có lỗi, và lỗi ở đây là lỗi vô ý hay lỗi cố ý và việc phân chia ra hai hình thức
lỗi có ý nghĩa gì không? Có thể nêu ra một số vấn đề sau khi đi xác định lỗi của người
bị thiệt hại:
Nếu người bị thiệt hại có lỗi hoàn toàn trong việc để thiệt hại xảy thì dù đó là
lỗi cố ý hay là lỗi vô ý mà người gây thiệt hại không có lỗi thì người gây thiệt hại
không phải bồi thường.
Người gây thiệt hại có lỗi vô ý và người bị thiệt hại có lỗi cố ý trong việc để

thiệt hại xảy ra thì người gây thiệt hại cũng không phải bồi thường.
Như vậy, vấn đề hình thức lỗi và mức độ lỗi không có ý nghĩa trong việc xác
định trách nhiệm bồi thường nếu lỗi đó là hoàn toàn thuộc về người bị thiệt hại và
đương nhiên người gây thiệt hại không phải bồi thường.
Việc pháp luật quy định vấn đề lỗi thuộc về người bị thiệt hại đã loại trừ trách
nhiệm của người gây thiệt hại. Do đó, người gây thiệt hại muốn giải thoát trách nhiệm
thì phải chứng minh mình không có lỗi hoặc thiệt hại xảy ra hoàn toàn là do lỗi của
người bị thiệt hại (Điều 606 BLDS 2005).
Bàn về vấn đề lỗi ta thấy việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại không
chỉ đặt ra với chủ thể có lỗi trực tiếp gây ra thiệt hại mà còn đặt ra việc xác định trách
nhiệm của người không trực tiếp gây ra thiệt hại để quy trách nhiệm bồi thường cho

14
chính họ. Đó là trường hợp lỗi của người giám hộ, người đỡ đầu, người quản lý và lỗi
của pháp nhân trước hành vi trái pháp luật do người của pháp nhân gây ra.
1.1.3. Phân biệt trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng và trách nhiệm dân sự theo
hợp đồng
Theo quy định của pháp luật dân sự thì trách nhiệm dân sự được chia thành hai
loại là trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng và trách nhiệm dân sự theo hợp đồng. Trách
nhiệm dân sự theo hợp đồng là trách nhiệm phát sinh do một bên đã không thực hiện,
thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ mà các bên đã cam kết trong hợp đồng.
Điều cơ bản nhất để hình thành nên loại trách nhiệm này là giữa các bên phải có quan
hệ hợp đồng, hợp đồng đó phải có hiệu lực và thiệt hại xảy ra phải là do hành vi không
thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ của hợp đồng.
Tuy có những điểm giống nhau nhất định vì cùng là trách nhiệm dân sự nhưng
giữa hai loại trách nhiệm này cũng có những điểm khác nhau căn bản:
Về cơ sở phát sinh: trách nhiệm dân sự theo hợp đồng chỉ phát sinh khi có sự
hiện diện của một hợp đồng, loại trách nhiệm này phát sinh do hành vi không thực
hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ của hợp đồng. Trong khi đó, trách
nhiệm dân sự ngoài hợp đồng phát sinh từ một hành vi cố ý hoặc vô ý gây thiệt hại cho

người khác và hành vi đó không liên quan đến bất kỳ một hợp đồng nào có thể có giữa
người gây thiệt hại và người bị thiệt hại.
Khi thực hiện trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng người gây thiệt hại phải bồi
thường toàn bộ thiệt hại cả thiệt hại trực tiếp và thiệt hại gián tiếp (nếu có), còn trong
trách nhiệm theo hợp đồng thì người gây thiệt hại chỉ phải bồi thường những thiệt hại
trực tiếp và những thiệt hại có thể tiên liệu trước khi ký kết hợp đồng.
Việc thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng sẽ làm chấm dứt
nghĩa vụ giữa các bên, trong khi đó việc thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại theo
hợp đồng thì nghĩa vụ của người gây thiệt hại chưa chắc đã chấm dứt.
Trong trách nhiệm dân sự theo hợp đồng trách nhiệm chỉ phát sinh do lỗi cố ý
hoặc vô ý của người không thực hiện, thực hiện không đúng hợp đồng trừ trường hợp
pháp luật có quy định khác hoặc giữa các bên có thỏa thuận khác, còn trong trách
nhiệm dân sự ngoài hợp đồng thì ngay cả trong trường hợp không có lỗi thì vần phải
bồi thường theo quy định của pháp luật (Khoản 2 Điều 604 BLDS 2005).

15
Một điểm khác nữa giữa hai loại trách nhiệm này là những người gây thiệt hại
ngoài hợp đồng đa phần phải chịu trách nhiệm liên đới nếu có đủ các điều kiện mà luật
định, còn trong trách nhiệm theo hợp đồng trách nhiệm liên đới chỉ đặt ra nếu có thỏa
thuận trước.
Khi ta đi so sánh hai loại trách nhiệm này có điểm cần phải lưu ý là không phải
giữa hai bên có quan hệ hợp đồng thì mọi thiệt hại gây ra đều đưa đến trách nhiệm
theo hợp đồng và ngược lại trách nhiệm ngoài hợp đồng chỉ phát sinh khi giữa hai bên
hoàn toàn không có quan hệ hợp đồng, đặc biệt cần phải phân biệt rõ về thời điểm phát
sinh trách nhiệm giữa hai loại trách nhiệm này để xác định rõ đâu là trường hợp bồi
thường thiệt hại theo hợp đồng và đâu là bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng: trong
bồi thường thiệt hại theo hợp đồng thì trách nhiệm phát sinh kể từ thời điểm hợp đồng
có hiệu lực và có bên vi phạm nghĩa vụ hợp đồng, còn trong quan hệ bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng trách nhiệm phát sinh kể từ thời điểm xảy ra hành vi gây thiệt hại.
Mặt khác, phân định hai loại trách nhiệm này còn có ý nghĩa để xác định chủ thể phải

bồi thường. Thông thường trách nhiệm dân sự theo hợp đồng thì người tham gia hợp
đồng phải chịu trách nhiệm còn trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng có thể do người
đại diện, giám hộ chịu trách nhiệm.
1.2. Cá thể hóa trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
1.2.1. Khái niệm cá thể hóa trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng
Khi có thiệt hại xảy ra thì bên cạnh việc xác định mức độ thiệt hại, cùng các
điều kiện cấu thành trách nhiệm của người gây thiệt hại thì việc xác định rõ ai là người
phải đứng ra gánh vác trách nhiệm và thực hiện việc bồi thường để đảm bảo quyền lợi
cho người bị hại là một vấn đề rất quan trọng. Cơ quan tòa án có thẩm quyền khi nhận
được đơn kiện yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại cũng phải hết sức thận trọng trong vấn
đề này.
Theo cách hiểu một cách chung và khái quát nhất thì ai là người gây ra thiệt
hại thì người đó phải bồi thường. Tuy nhiên điều kiện để trở thành một chủ thể tham
gia vào một quan hệ pháp luật thì người đó phải có đầy đủ năng lực chủ thể theo quy
định của pháp luật. Trong thực tế có rất nhiều hành vi gây thiệt hại cho người khác và
hành vi gây thiệt hại này cũng có thể là của bất kỳ cá nhân nào kể cả những người
không đủ, không có hoặc bị hạn chế năng lực tham gia vào các quan hệ pháp luật. Khi
một người đã gây ra thiệt hại cho người khác thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại sẽ

16
phát sinh, nhưng nếu như người gây ra thiệt hại lại không có năng lực để tham gia vào
quan hệ pháp luật bồi thường thiệt hại thì ai sẽ là người có trách nhiệm bồi thường để
đảm bảo quyền lợi cho người bị thiệt hại.
Như vậy, khi thiệt hại xảy ra cần phải xác định trách nhiệm bồi thường sẽ thuộc
về ai. Đây là một vấn đề rất quan trọng, bởi lẽ nếu không xác định được người phải bồi
thường thì quyền lợi của người bị thiệt hại không được đảm bảo. Chính vì vậy mà vấn
đề cá thể hóa trách nhiệm bồi thường thiệt hại được đặt ra.
Vậy, cá thể hóa trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là việc xác
định người có trách nhiệm bồi thường thiệt hại chính trong từng trường hợp gây thiệt
hại cụ thể bất luận người đó có phải là người trực tiếp gây ra thiệt hại hay không.

Cá thể hóa trách nhiệm chính là việc quy trách nhiệm bồi thường cho một chủ
thể, việc này có một ý nghĩa rất quan trọng trong vấn đề bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng: Cá thể hóa trách nhiệm bồi thường thiệt hại sẽ giúp cho việc giải quyết vấn đề
bồi thường thiệt hại diễn ra dễ dàng hơn, xác định đúng người có trách nhiệm bồi
thường sẽ tạo ra tính khả thi cho công tác thi hành án sau này; cá thể hóa trách nhiệm
để xác định trách nhiệm thuộc về ai giảm bớt nguy cơ việc lạm dụng việc mất năng lực
hay không đầy đủ khả năng nhận thức của người khác mà kích động họ gây thiệt hại
cho người khác và thu lợi bất chính, đồng thời nâng cao tinh thần, trách nhiệm của
những người có nghĩa vụ trông nom, giáo dục những người không có năng lực hành vi
hoặc có năng lực hành vi một phần.
1.2.2. Điều kiện để cá thể hóa trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng
Để trở thành chủ thể của một quan hệ pháp luật dân sự thì người tham gia cần
đáp ứng điều kiện về năng lực chủ thể theo quy định của pháp luật. Quan hệ bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng cũng là một quan hệ pháp luật dân sự do vậy để trở
thành chủ thể của quan hệ này thì người tham gia cũng cần phải có đầy đủ những điều
kiện về năng lực chủ thể của quan hệ pháp luật nói chung. Bên cạnh đó, do đặc thù
riêng của quan hệ pháp luật này mà cần có thêm một số điều kiện nhất định.
Khi một chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường có nghĩa là chủ thể đó đang tham
gia vào một quan hệ pháp luật, do vậy người này cần phải có đầy đủ năng lực chủ thể
để tham gia vào một quan hệ pháp luật đó là độ tuổi và nhận thức (năng lực hành vi).
Trong quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nhiều khi người đứng ra thực hiện
trách nhiệm bồi thường lại không phải là người đã trực tiếp gây ra thiệt hại mà họ phải

17
thực hiện trách nhiệm bồi thường là do lỗi quản lý của mình trong việc để thiệt hại xảy
ra. Do đó, một điều kiện cần để quy trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
cho một chủ thể đó là mối quan hệ pháp lý giữa người gây thiệt hại và người phải bồi
thường.
Như vậy để cá thể hóa trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng cho một chủ thể cần
phải đáp ứng các điều kiện sau: (độ tuổi, nhận thức, mối quan hệ pháp lý giữa người

gây thiệt hại và người bồi thường.)
- Độ tuổi
Việc quy định độ tuổi là một trong những điều kiện để cá thể hóa trách nhiệm
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là rất hợp lý. Bởi vì khi một chủ thể tham gia vào
quan hệ bồi thường thiệt hại có nghĩa là chủ thể đang tham gia vào một quan hệ pháp
luật dân sự. Để có thể tham gia vào quan hệ này thì trước hết chủ thể này phải đáp ứng
được yêu cầu về năng lực chủ thể theo quy định của pháp luật. Theo quy định của
pháp luật thì năng lực chủ thể được cấu thành bởi hai yếu tố là năng lực pháp luật và
năng lực hành vi. Về năng lực pháp luật tại khoản 3, Điều 14 BLDS 2005 đã quy định:
“Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi
người đó chết”. Theo quy định này, mỗi cá nhân đang sống và tồn tại trong xã hội luôn
luôn có năng lực pháp luật dân sự có nghĩa là họ luôn có khả năng có quyền dân sự và
nghĩa vụ dân sự. Tuy nhiên, năng lực hành vi dân sự của cá nhân thì ngược lại. Năng
lực hành vi dân sự của cá nhân hình thành khi đáp ứng những điều kiện nhất định đó là
về độ tuổi và nhận thức. Mặt khác, năng lực hành vi dân sự lại được chia thành các
mức khác nhau, phụ thuộc vào độ tuổi của cá nhân. Theo quy định tại Điều 19 BLDS
“Người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp quy định tại
Điều 22 và Điều 23 của BLDS”. Người thành niên là người từ đủ 18 tuổi trở lên (Điều
18 BLDS 2005). Như vậy, người từ 18 tuổi trở lên là người có năng lực hành vi dân sự
đầy đủ, được phép tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự và tự mình gánh chịu các
nghĩa vụ dân sự.
Quy định độ tuổi là điều kiện để cá thể hóa trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng là hoàn toàn phù hợp với các quy định của pháp luật dân sự về việc
xác định năng lực hành vi dân sự (một trong hai yếu tố tạo thành năng lực chủ thể của
cá nhân). Độ tuổi là yếu tố đáp ứng điều kiện có thể tự mình gánh vác các nghĩa vụ
dân sự trong đó có trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

18
Sự phù hợp của việc quy định độ tuổi là yếu tố để cá thể trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng được thể hiện ngay trong BLDS 2005, đó chính là sự

tương thích giữa việc quy định độ tuổi để xác định năng lực hành vi dân sự với việc
căn cứ vào độ tuổi để quy định trách nhiệm bồi thường thiêt hại ngoài hợp đồng.
Từ những phân tích trên có thể khẳng định rằng độ tuổi là điều kiện không thể
thiếu khi xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cho bất cứ một chủ
thể nào. Độ tuổi góp phần vào việc quyết định người có trách nhiệm bồi thường thiệt
hại trong từng trường hợp cụ thể.
- Nhận thức
Cũng như độ tuổi khả năng nhận thức cũng là yếu tố tạo thành năng lực hành vi
dân sự của một chủ thể. Nếu một người tuy đã thành niên nhưng không thể nhận thức,
không làm chủ hành vi của mình, thì bị coi là người mất năng lực hành vi dân sự và
không có năng lực chủ thể để tham gia vào các quan hệ pháp luật và cũng không thể
nào trở thành chủ thể có thể đứng ra gánh vác trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng được ngay cả khi thiệt hại đó là do họ gây ra?
Khi phân tích về khả năng nhận thức của chủ thể ta thấy giữa khả năng nhận
thức và độ tuổi có mối quan hệ với nhau, chúng đều là hai yếu tố tạo thành năng lực
hành vi dân sự, nhưng khả năng nhận thức của con người lại phụ thuộc vào chính độ
tuổi. Con người chỉ có khả năng nhận thức đầy đủ khi đạt một độ tuổi nhất định, khi
chưa đạt độ tuổi này thì con người hoặc chưa có khả năng nhận thức hoặc là khả năng
nhận thức còn hạn chế. Có trường hợp người không có khả năng nhận thức nhưng
không phải do chưa đạt một độ tuổi nhât định mà do bị mất khả năng nhận thức của
mình. Khái niệm “mất” thông thường được hiểu là đang tồn tại, đang có một hiện
tượng, một sự vật nhưng sau đó không còn hiện tượng, sự vật đó nữa. Nếu một người
đang có khả năng nhận thức nhưng lại bị mất đi thì nguyên nhân dẫn đến sự mất đi này
có thể là do người đó bị mắc bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác dẫn đến hậu quả
không thể nhận thức và làm chủ được bản thân mình. Do vậy, họ mất đi năng lực hành
vi, mất đi năng lực chủ thể để tham gia vào các quan hệ xã hội.
Như vậy, để tham gia vào một quan hệ xã hội nhất định thì chủ thể phải có đầy
đủ ý chí cũng như lý trí để điều khiển hành vi của mình, phải nhận thức được những gì
mình đang làm cũng như hậu quả của hành vi đó. Không có nhận thức có nghĩa họ
không thể biết được mình đang làm gì và việc làm đó có hậu quả ra sao. Việc quy định


19
nhận thức là điều kiện để cá thể hóa trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
là rất cần thiết. Người đứng ra chịu trách nhiệm chính trong quan hệ bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng có thể chính là người gây ra thiệt hại và cũng có thể không phải là
người gây ra thiệt hại. Việc thực hiện bồi thường ảnh hưởng đến chính quyền lợi của
họ do vậy họ phải nhận thức được việc mình đang làm và trách nhiệm bồi thường sẽ
không đặt ra với người không có khả năng nhận thức.
- Mối quan hệ pháp lý giữa người gây thiệt hại và người phải bồi thường.
Thông thường chỉ cần đạt độ tuổi do luật định và có khả năng nhận thức thì
một chủ thể hoàn toàn có thể tham gia vào các quan hệ pháp luật mà cụ thể ở đây là
tham gia vào quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Khi có đầy đủ năng lực chủ
thể thì người gây ra thiệt hại phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại hay nói cách
khác là đã đủ điều kiện để cá thể hóa trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Mối quan hệ giữa người gây thiệt hại và người phải bồi thường được đặt ra để
cá thể hóa trách nhiệm bồi thường thiệt hại là để giải quyết các tình huống người gây
thiệt hại không có khả năng bồi thường. Việc xem xét mối quan hệ pháp lý giữa người
gây thiệt hại và người phải bồi thường nhằm xác định đúng người đại diện cho người
gây thiệt hại để thực hiện nghĩa vụ. Họ phải thực hiện việc bồi thường dù họ không
gây ra thiệt hại nhưng họ lại có lỗi trong việc quản lý người gây thiệt hại. Nếu họ thực
hiện đúng trách nhiệm quản lý của mình thì thiệt hại đã không xảy ra. Lỗi của người
phải bồi thường ở đây là lỗi trong việc quản lý người đã gây ra thiệt hại.
Mối quan hệ pháp lý giữa người gây thiệt hại và người phải bồi thường ở đây
có thể là mối quan hệ giữa người chưa thành niên dưới 15 tuổi với cha mẹ, giữa người
chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự với người giám hộ, với trường
học, bệnh viện, tổ chức khác.
Việc xác định đúng mối quan hệ này để tránh việc xác định nhầm người có
trách nhiệm bồi thường, chỉ có những người có trách nhiệm quản lý nhưng không thực
hiện đúng trách nhiệm của mình để thiệt hại xảy ra mới phải bồi thường.
1.3. Năng lực bồi thường thiệt hại theo pháp luật Việt Nam trước năm1995

1.3.1. Theo pháp luật phong kiến
Chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một trong những chế định có
lịch sử phát triển sớm nhất ở Việt Nam. Pháp luật từ thời kỳ phong kiến cũng có
những những quy định về vấn đề này, ở đây người viết chỉ phân tích năng lực bồi

20
thường trong hai bộ luật tiêu biểu của thời kỳ phong kiến đó là Bộ luật Hồng Đức và
Bộ luật Gia Long. Phù hợp với quan điểm lập pháp thời đó, các quan hệ xã hội đều
được điều chỉnh bằng luật hình, đều nhằm thiết lập một trật tự xã hội theo những
chuẩn mực hà khắc có lợi cho sự thống trị của nhà nước phong kiến, chưa có sự phân
biệt rõ ràng với những đặc trưng rất khác nhau giữa luật dân sự và luật hình sự. Do đó,
không chỉ bao gồm các quy định về các hành vi phạm tội và hình phạt mà còn bao
gồm cả các quy định về dân sự trong đó bao gồm cả những quy định về bồi thường do
gây thiệt hại.
Trong Bộ luật Hồng Đức ghi nhận những quy định về bồi thường thiệt hại cùng
với chế tài hình sự, ví dụ Điều 435 đã dự liệu rằng: “Những kẻ thừa cơ lúc có trộm,
cướp, cháy, lụt mà lấy trộm của cải của người ta, hay là giữa ban ngày mà đoạt lấy
tiền tài của người, cũng là lấy của đánh rơi, mà lại đánh lại người mất của, thì cũng
đều phải tội như tội ăn trộm thường, mà giảm một bậc. Lột lấy những quần áo và đồ
vật của trẻ con, người điên, người say thì phải tội đồ và bồi thường gấp đôi”. Và còn
rất nhiều các quy định khác quy định về việc bồi thường như các Điều 472 theo nội
dung của Điều luật này quy định về trường hợp kẻ dưới đánh quan lại, quan lại đánh
lẫn nhau thì khi một người đánh quan chức bị thương, ngoài việc phải chịu hình phạt,
phải đền bù thường tổn còn phải đền tiền tạ. Tương tự như vậy, Điều 473 dự liệu về
khả năng kẻ dưới mắng nhiếc quan lại, quan lại mắng nhiếc lẫn nhau đã không chỉ đưa
ra hình phạt mà còn quy định tiền tạ nếu phạm tội lăng mạ quan chức. Các quy định
trên cũng đã xác định trách nhiệm của một người về hành vi vi phạm của chính bản
thân mình. Ngoài ra trong luật Hồng Đức còn một số trường hợp xác định một người
phải chịu trách nhiệm về hành vi của người khác đó là trường hợp cha phải chịu trách
nhiệm thay cho con, chủ phải chịu trách nhiệm thay cho đày tớ.

Điều 457 đã bắt tội người cha phải chịu trách nhiệm về hành vi của con cái còn
ở chung với mình, bất kể đã trưởng thành hay chưa, mà phạm tội trộm cướp. Điều này
dựa trên quan điểm của đạo đức phong kiến thời kỳ đó chính là quyền gia trưởng của
người cha, người chồng. Theo đó, nếu người cha đã có quyền gia trưởng trong nhà mà
lại không giáo dục, răn dạy con cái, thì phải chịu tội thay cho con cái: “Các con còn ở
nhà với cha mẹ, mà đi ăn trộm, thì cha bị xử tội biếm; ăn cướp thì cha bị xử tội đồ;
nặng thì xử tăng thêm tội; và đều phải bồi thường thay con những tang vật ăn trộm
ăn cướp. Nếu con đã ở riêng, thì cha bị xử phạt hay biếm; cha đã báo quan thì không

21
phải tội; nhưng báo quan rồi mà còn để con ở nhà thì cũng xử như là chưa báo”. Việc
quy định người cha phải bồi thường cho con ngay cả khi người con còn ở với cha mẹ
ngay cả khi người con đã trưởng thành là một điểm khác biệt hoàn toàn giữa luật Hồng
Đức với luật hiện đại cụ thể là luật dân sự 2005 quy định rõ người thành niên phải tự
chịu trách nhiệm trước những thiệt hại do mình gây ra. Một điều nữa là nếu cha báo
quan thì sẽ không phải chịu tội vậy không phải chịu tội thì có phải bồi thường không?
Nếu như không phải bồi thường thì ai sẽ là người đứng ra bồi thường.
Điều 456 còn quy định cho chủ nhà khi đầy tớ đi ăn trộm ăn cướp, cũng là luận
điểm cơ bản của việc bắt lỗi chủ nhà là do không trông coi, không răn dạy chu đáo đối
với kẻ dưới nên bị buộc phải chịu trách nhiệm thay cho kẻ dưới: “Đày tớ đi ăn trộm,
mà chủ nhà không báo quan, thì xử biếm năm tư; ăn cướp thì năm tư và bãi chức; chủ
không có quan chức, thì thay xử đồ làm chủng điền binh và đều phải bồi thường thay
những tang vật ăn trộm hay ăn cướp. Nếu chủ giấu giếm nhận của ăn trộm ăn cướp
thì phải đồng tội. Đã báo quan mà sau lại bao dung những đày tớ ăn cướp ăn trộm ấy,
thì xử như tội biết mà không trình”.
Từ việc phân tích những quy định trên ta thấy trong luật Hồng Đức đã dự định
trước những trường hợp quy định về năng lực bồi thường đặc biệt là việc những người
có trách nhiệm phải đứng ra đại diện để bồi thường cho những người mà mình có trách
nhiệm quản lý đã gây thiệt hại. Đây chính là những điểm tiến bộ của luật Hồng Đức,
nhưng dường như quy định về việc phải bồi thường thay cho người mình quản lý ở

đây chủ yếu xuất phát từ đạo đức phong kiến chứ không phải là do năng lực chủ thể
của người gây ra thiệt hại
Khác với Luật Hồng Đức, trong Luật Gia Long tiền bồi thường lại không được
nhắc đến. Trong Bộ luật Gia Long chỉ có Điều quy định về tiền bồi thường cho gia
đình nạn nhân trong trường phạm tội giết người. Việc quy định chế tài do gây thương
tật cho người khác Luật Gia Long quy định khá tỉ mỉ các hình phạt nhưng chỉ là những
chế tài về hình sự chứ không thấy đề cập đến bồi thường như Điều 466 của luật Hồng
Đức: “…(luật nói: sưng, phù thì phải đền tiền thường tổn 3 tiền, chảy máu thì một
quan; gẫy một ngón tay, một răng thì đền 10 quan; đâm chém bị thường thì 15 quan;
đọa thai chưa thành hình thì 30 quan…”. Điều 271 Luật Gia Long chỉ dự liệu bồi
thường thiệt hại trong các trường hợp nặng nhất như hỏng mắt, gãy tay chân, làm hỏng
bộ phận trong cơ thể…thì ngoài những chế tài hính sự phải chịu ra còn phải bồi

22
thường cho nạn nhân để nuôi thân.
1.3.2. Thời pháp thuộc
Đây là thời kỳ phát triển mới của pháp luật dân sự Việt Nam vì trong thời kỳ
này ta đã có bộ dân luật riêng dù còn chịu ảnh hưởng nhiều của pháp luật chính quốc
mà cụ thể ở đây là bộ Dân luật của Cộng hòa pháp. Trong thời kỳ này nước ta tồn hai
bộ dân luật đó là Dân luật Bắc Kỳ 1931 và Dân luật Trung Kỳ 1936. Trong hai bộ luật
nay đều có những quy định về năng lực bồi thường thiệt của cá nhân. Đặc biệt trong
hai bộ luật này còn quy định rõ trách nhiệm phải bồi thường của cha mẹ do con gây
thiệt hại, về trách nhiệm của người thợ cả và về trách nhiệm của người dạy học.
Thứ nhất là về trường hợp cha mẹ bồi thường cho con: nhà lập pháp quy định
rằng người cha, người mẹ phải chịu trách nhiệm về những tổn hại do người con gây
nên. Tuy nhiên về việc quy trách nhiệm bồi thường cho cha mẹ cần có điều kiện đó là:
con còn vị thành niên, nếu người con đã trưởng thành nghĩa là qua 21 tuổi thì các điều
khoản quy trách nhiệm bồi thường cho cha mẹ là không thể thi hành được; con còn ở
với cha mẹ, như vậy nếu người con đã ở riêng, cha mẹ sẽ không chịu trách nhiệm về
các tổn hại do người con gây ra. Tuy nhiên, nếu việc không ở chung này không có lý

do chính đáng hoặc mặc dầu không có sự ở chung, cha mẹ vẫn còn có thể trông con
cái được, thì cha mẹ vẫn còn phải chịu trách nhiệm; sự quá thất của người con hay ở
đây chính là do sự không trông nom cẩn thận của cha mẹ.
Thứ hai là về trách nhiệm của người thợ cả: Điều 714 khoản 4 và 5 của Dân
luật Bắc Kỳ và khoản 2 và 3 của Dân luật Trung Kỳ, quy định rằng các người thợ cả
phải chịu trách nhiệm về những tổn hại do các người thợ bạn gây nên trong khi làm
những công việc họ giao cho, hoặc trong khi các người thợ bạn này ở dưới quyền
trông coi của họ. Theo quy định của hai bộ luật này người thợ bạn phải gây ra tai nạn
trong thời kỳ chịu sự trông nom của người thợ cả, hoặc trong thời kỳ làm một công
việc do người thợ cả giao cho. Người thợ cả chỉ chịu trách nhiệm dân sự về người thợ
bạn nếu như hai điều kiện được hội đủ: (1) dạy dỗ một nghề cho người thợ bạn; (2)
giao một công việc cho người thợ bạn làm, điều này phân biệt người thợ cả với người
thầy giáo
Thứ ba là trách nhiệm của các người dạy học: Điều 714 khoản 5 của Dân luật
Bắc Kỳ và Điều 764 khoản 2 Dân luật Trung Kỳ quy định các người dạy học chịu
trách nhiệm về các sự tổn hại do học trò gây nên trong thời gian ở dưới quyền trông

23
coi của họ.
1.3.3. Thời kỳ từ 1959 đến 1995
Tại miền bắc Việt Nam, ngày 10 tháng 7 năm 1959 Tòa án tối cao ra chỉ thị số
772/TATC để “đình chỉ việc áp dụng luật pháp cũ phong kiến đế quốc”. Từ thời điểm
đó trở đi, tại miền bắc Việt Nam thiếu đi một bộ Dân luật thực thụ, cho nên trong giai
đoạn này người viết chỉ nêu ra những quy định về năng lực bồi thường theo Dân luật
Nam Kỳ 1972 và BLDS 1995 đã được Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thông qua và có hiệu lực kể từ ngay 1 tháng 7 năm 1996.
Dân luật Nam Kỳ cũng đã xây dựng những quy định về bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng và năng lực bồi thường thiệt hại của cá nhân. Điều 729 có quy định
rằng bất cứ hành vi nào gây ra thiệt hại cho người khác đều làm cho người chủ động
có lỗi phải bồi thường, và bộ luật này cũng quy định rõ các trường hợp cha mẹ phải

chịu trách nhiệm về hành động của con cái vị thành niên còn ở cùng với cha mẹ; người
gia chủ phải chịu trách nhiệm về hành vi của gia bộc; người chủ ủy phải chịu trách
nhiệm về hành vi của kẻ thừa sai; người thợ cả phải chịu trách nhiệm về hành vi của
công nhân và người học nghề. Sở dĩ những người này phải chịu trách nhiệm vì họ đã
không làm tròn trách nhiệm trông coi, quản lý của mình đối với những người đã gây ra
thiệt hại, họ có lỗi do vậy họ phải chịu trách nhiệm và lỗi của họ ở đây là lỗi quản lý
(Đ731), Đồng thời luật cũng quy định rằng cha mẹ, gia chủ, chủ ủy và thợ cả muốn
được miễn trách phải chứng minh rằng họ đã làm hết cách mà không cản được hành vi
đã gây ra thiệt hại. Điều 735 cũng đã quy định trách nhiệm của thầy học các trường về
hành vi của học trò trong thời gian học trò ở dưới sự kiểm soát của mình, nhưng chỉ
phải trách nhiệm nếu đã có lỗi, được chứng minh theo thường luật. Nếu là trường
công, trách nhiệm của quốc gia sẽ thay thế trách nhiệm của đương sự.
Về BLDS 1995, có thể nói đây là một bộ luật dân sự hoàn thiện của nước ta từ
trước cho tới năm 1995. Bộ luật đã có hẳn một chương riêng (chương 5) quy đình về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Chương này quy định khá hoàn thiện
về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và năng lực bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng. Trong chương này quy định rất rõ ràng từng trường hợp bồi thường
thiêt hại cụ thể và xác định rõ ai là người có trách nhiệm bồi thường. Điều 611 quy
định về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân và có sự phân tách
trong từng trường hợp cụ thể. Và cũng đã có những quy về bồi thường thiêt hại do

24
người mất năng lực hành vi gây ra mà trong luật của thời kỳ trước không có. Có thể
nói Bộ luât là sự hoàn thiện, khắc phục những thiếu xót của pháp luật về vấn đề này
trong các quy định của pháp luật trước đó.
CHƯƠNG II
NĂNG LỰC BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA CÁ NHÂN
THEO LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM
2.1. Năng lực bồi thường thiệt hại của người từ đủ 18 tuổi
Người tử đủ 18 tuổi trở lên theo quy định của Bộ luật dân sự Việt Nam 2005 là

người thành niên (Điều 18) và người thành niên là người có năng lực hành vi dân sự
đầy đủ nếu không rơi vào các trường hợp bị Tòa án tuyên là mất năng lực hành vi dân
sự hoặc bị tuyên là hạn chế năng lực hành vi dân sự (Điều 23). Theo những quy định
này thì khi một người đủ 18 tuổi họ có đầy đủ tư cách chủ thể để bằng hành vi của
mình xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự, có nghĩa là họ có toàn quyền tham
gia các quan hệ dân sự với tư cách là một chủ thể độc lập và tự chịu trách nhiệm về
những hành vi do mình thực hiện. Như vậy, người từ đủ 18 tuổi nếu không bị mắc
bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác có ảnh hưởng đến năng lực nhận thức và năng
lực điều khiển hành vi của mình hoặc không bị tòa án tuyên là người bị hạn chế năng

25

×