Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

nang cao nang luc canh tranh.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.75 KB, 6 trang )

NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA
CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI
Đinh Duy Đông
Việt Nam đang trong quá trình hội nhập mạnh mẽ với khu vực và toàn cầu
(1)
. Một trong những mốc
quan trọng có ảnh hưởng sâu sắc tới hoạt động của các ngân hàng thương mại (NHTM) là việc ký
kết Hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa kỳ năm 2000, dẫn tới việc mở cửa thị trường, đặc biệt là
thị trường ngân hàng trong mười năm tới. Điều này tạo ra rất nhiều cơ hội cũng như không ít thách
thức cho tất cả các ngành và các đơn vị, nhất là các NHTM, do tầm quan trọng và đặc điểm của
ngành ngân hàng trong tiến trình phát triển kinh tế quốc dân. Để có thể tận dụng tối đa các cơ hội,
hạn chế thách thức, việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTM hiện nay là vấn đề nóng
hổi.
* Thực trạng năng lực cạnh tranh của các NHTM Việt Nam hiện nay
Năng lực cạnh tranh của ngân hàng được đo bằng khả năng duy trì và mở rộng thị phần, thu lợi
nhuận của ngân hàng trong môi trường cạnh tranh trong và ngoài nước
(2)
. Vì vậy, năng lực cạnh
tranh NHTM là sự tổng hợp của các yếu tố từ công tác chỉ đạo và điều hành, chất lượng đội ngũ
cán bộ, uy tín và thương hiệu của NHTM. Xét theo nghĩa trên, năng lực cạnh tranh của các NHTM
Việt Nam một số hạn chế sau:
Thứ nhất, cạnh tranh trong các NHTM Việt Nam mang tính chất độc quyền nhóm, các NHTM nhà
nước chiếm thị phần tuyệt đối và có tiềm lực tài chính lớn do sự trợ giúp của Nhà nước.
BẢNG 1: THỊ PHẦN CỦA CÁC NHTM TRONG HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM 1990-2001(%)
Năm 1994 1995 1996 2001
Thị phần tiền gửi 100 100 100 100
- Ngân hàng thương mại quốc doanh 88 80 76 74,3
- Ngân hàng thương mại cổ phần 8 9 10 8,8
- Ngân hàng thương mại liên doanh 2 3 3 4,9
- Chi nhánh ngân hàng nước ngoài 2 8 11 12
Thị phần tín dụng 100 100 100 100


- Ngân hàng thương mại quốc doanh 85 75 74 59,8
- Ngân hàng thương mại cổ phần 11 15 14 12,2
- Ngân hàng thương mại liên doanh 2 3 5 10
- Chi nhánh ngân hàng nước ngoài 2 7 7 18
Nguồn: “Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, NXB Giao thông vận tải,2003.
Các NHTM NN Việt Nam vẫn chiếm tỷ trọng rất lớn về tín dụng (từ 60-85%) cũng như tiền gửi
(74,3% đến 88%), mặc dù xu thế này đang có chiều hướng giảm dần. Điều này là do yếu tố lịch
sử, các NHTM ngoài quốc doanh mới thành lập ở Việt Nam nên uy tín chưa cao, hoặc phạm vi
hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài chưa rộng.
Thứ hai, mặc dù mức lợi nhuận đạt được cao so với các ngành khác, rất nhiều NHTM Việt Nam
chưa thật an toàn theo tiêu chuẩn quốc tế. Hệ số an toàn vốn tối thiểu (vốn tự có /tài sản điều
chỉnh theo mức độ rủi ro) bình quân hệ thống ngân hàng chưa đạt tỷ lệ theo quy định của NHNN
và khuyến cáo của Basel (8%), trong đó hệ số an toàn vốn của các NHTM nhà nước chỉ là 4-5%
(cuối năm 2003 chỉ đạt 2,8%), trong khi đó một số NHTM cổ phần và chi nhánh ngân hàng nước
ngoài đạt chỉ tiêu an toàn vốn 8% thậm chí có ngân hàng đạt 10%. Tỷ lệ nợ khó đòi so với tổng dư
nợ của hệ thống NH theo tiêu chuẩn quốc tế ở mức trên 14%
(3)
. Vì vậy, mặc dù tỷ lệ lợi nhuận trên
vốn chủ sở hữu (ROE) của các NHTM trung bình khoảng 9-15 %/năm trong những năm gần đây,
tỷ lệ này không mang tính bền vững và chưa chứng tỏ khả năng cạnh tranh tốt của các NHTM
trong thời gian tới.
Thứ ba, các nghiệp vụ ngân hàng hiện tại còn quá đơn giản và chưa đa dạng. Hầu hết các NHTM
vẫn chỉ phát triển các sản phẩm truyền thống liên quan đến nghiệp vụ tín dụng, nhận gửi và thanh
toán. Hoạt động tín dụng của các NHTMQD hiện nay mang tính độc canh (cả về thời gian khoản
vay và đối tượng vay), quy mô nhỏ, thiếu tính đa dạng
(4)
. Thực tế, một số NHTMCP năng động hơn
trong việc cung cấp dịch vụ mới so với các NHTM nhà nước
(5)
.

Thứ tư, trình độ quản lý kinh doanh chưa cao, tính chuyên nghiệp trong hoạt động ngân hàng
thương mại hiện đại còn thấp. Năng lực quản lý và lãnh đạo không theo kịp với sự phát triển về qui
mô. Chất lượng đội ngũ cán bộ thấp, số lượng cán bộ dư thừa, năng suất lao động thấp đã gây
cản trở nhất định cho việc xây dựng một hệ thống NHTM hiện đại.
* Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ và những khuyến nghị cần thực hiện đối với các
NHTM Việt Nam
Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ được đại diện của hai Chính phủ ký ngày 13-7-2000,
Quốc hội Việt Nam phê chuẩn ngày 28-11-2001, và có hiệu lực vào ngày 10-12-2001. Các cam kết
của Việt Nam trong lĩnh vực tài chính ngân hàng được đề cập chủ yếu tại Chương III: Thương mại
dịch vụ (cam kết chung). Các cam kết cụ thể về ngành dịch vụ tài chính ngân hàng được thể hiện
tại phụ lục F và G. Theo hiệp định, sau 9 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, các ngân hàng Hoa
Kỳ được phép thành lập ngân hàng con 100% vốn Hoa Kỳ tại Việt Nam và hầu hết các hạn chế về
hoạt động sẽ được bãi bỏ
(6)
. Với trình độ công nghệ thông tin và truyền thống hoạt động có uy tín
trên toàn thế giới sẽ cho phép các ngân hàng Hoa Kỳ chiếm ưu thế hơn so với các ngân hàng Việt
Nam trong việc cung cấp thông tin tài chính và xử lý các dữ liệu tài chính của các nhà cung cấp
dịch vụ tài chính khác. Vì vậy, trong thời gian tới, các NHTM Việt Nam cần nghiên cứu, triển khai
một số hoạt động để nâng cao năng lực cạnh tranh, sẵn sàng đối đầu với những thách thức trong
tương lai:
Thứ nhất, giảm tính độc quyền của ngành ngân hàng, tạo sân chơi bình đẳng hơn cho các NHTM
ngoài quốc doanh, cổ phần và sáp nhập một số các NHTMQD để tăng vốn tự có, từ đó nhằm nâng
cao năng lực cạnh tranh của hệ thống ngân hàng, nâng cao hiệu quả hoạt động; phát triển thị
trường tài chính với nhiều định chế tài chính trung gian.
Thứ hai, nâng cao năng lực tài chính, giảm thiểu rủi ro cho các NHTM. Các NHTM cần tăng vốn tự
có, đa dạng hóa cấu trúc sở hữu vốn tự có, xử lý nợ tồn đọng và ngăn chặn nợ xấu gia tăng, nâng
cao chất lượng tài sản và tỷ lệ tài sản sinh lời ngang tầm của một định chế tài chính ngân hàng
mang tính thương mại và có khả năng cạnh tranh cao. Phát triển lợi thế cạnh tranh (công nghệ,
nhân lực, quản trị điều hành, cơ cấu tổ chức, mạng lưới phân phối, thị trường và khách hàng),
đồng thời cơ cấu lại hoạt động với trọng tâm là nâng cao năng lực quản trị điều hành kinh doanh

trong điều kiện kinh doanh hiện đại và cạnh tranh mạnh mẽ.
Thứ ba, đa dạng hóa dịch vụ ngân hàng, đa dạng thị trường. Đầu tư nghiên cứu và phát triển dịch
vụ ngân hàng mới có hàm lượng ứng dụng công nghệ cao (thẻ thanh toán, thẻ thông minh, thẻ tín
dụng, thẻ ghi nợ, internet banking, home banking, e_banking). Cải tiến và hoàn thiện hệ thống các
dịch vụ truyền thống thông qua việc cải tiến chất lượng dịch vụ, thủ tục giao dịch, phong cách phục
vụ và chính sách tìm hiểu thị trường. Tập trung vào các khu vực thị trường mục tiêu: Khu vực đô
thị, khu công nghiệp, các trung tâm kinh tế - thương mại. Các khách hàng mục tiêu là doanh
nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các tập đoàn quốc gia và đa quốc
gia, cá nhân và gia đình có thu nhập trên mức trung bình. Những thị trường mới nổi và thị trường
có nhiều tiềm năng, nhất là khu vực dịch vụ ngân hàng bán lẻ, tài trợ dự án, tài trợ thương mại,
dịch vụ thanh toán và chuyển tiền.
Thứ tư, tăng cường tính chuyên nghiệp trong quản lý và nghiệp vụ ngân hàng. Tăng cường năng
lực quản lý điều hành tập trung, thống nhất toàn hệ thống tại Hội sở chính thông qua xây dựng hệ
thống các định chế quản lý nội bộ theo tiêu chuẩn quốc tế; phát triển mô hình cơ cấu tổ chức ngân
hàng theo hướng hiện đại, hướng đến khách hàng và sản phẩm, dịch vụ. Phát triển nền văn hóa
doanh nghiệp hiện đại với một tinh thần đạt được sự thỏa mãn cao nhất của khách hàng về các
dịch vụ của ngân hàng để đảm bảo hài hòa lợi ích Cộng đồng - Khách hàng - Ngân hàng. Xây
dựng môi trường nội bộ lành mạnh với hệ thống khuyến khích có hiệu quả.
Dựa vào những phân tích tóm lược về một số hạn chế hiện tại, các cơ hội và thách thức đem lại từ
Hiệp định thương mại Việt Mỹ đối với các NHTM Việt Nam, trên đây là một số ý kiến đưa ra nhằm
nâng cao khả năng hội nhập của các NHTM Việt Nam trong thời gian tới
(1) Theo đúng với tinh thần Nghị quyết của Đại hội Đảng CSVN lần thứ 9 chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế.
(2) Xét ở cấp độ vi mô, có 3 quan điểm về năng lực cạnh tranh dựa trên 3 quan điểm khác nhau: Quan
điểm quản trị chiến lược (lý thuyết phân tích cấu trúc ngành của M.Porter và lý thuyết lợi thế cạnh tranh dựa
trên các nguồn lực riêng biệt); Quan điểm tân cổ điển (lý thuyết chỉ số cạnh tranh, so sánh được giữa các
ngành; lý thuyết lợi thế chi phí); Quan điểm tổng hợp. Khái niệm trên về năng lực cạnh tranh là dựa trên
quan điểm tổng hợp.
(3) Theo tiêu chuẩn Việt Nam, tỷ lệ này ở mức 7,1%; nhưng theo tính toán của các chuyên gia WB, tỷ lệ này
vượt xa con số công bố nếu tính thêm các khoản nợ được gia hạn hoặc chuyển đổi kỳ hạn trả nợ có vấn

đề.
(4) các NHTMQD phần lớn cho vay đối với các doanh nghiệp quốc doanh (chiếm khoảng trên 61,67% trong
tổng dư nợ cho vay nền kinh tế).
(5) Như ACB, Techcombank, ngân hàng Đông Á, Ngân hàng Quân đội và ngân hàng Phương Nam, có khả
năng cung cấp đầy đủ các sản phẩm mới theo đúng nghĩa.
(6) Ngô Quốc Kỳ, 2002, Tác động của Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ đối với Hệ thống pháp luật
Việt Nam - Về việc thực thi Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, NXB Chính trị quốc gia.
Tài liệu tham khảo
1. Chiến lược phát triển Ngân hàng công thương;
2. Ngô Quốc Kỳ, 2002, Tác động của Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ đối với Hệ thống
pháp luật Việt Nam - Về việc thực thi Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, NXB Chính trị
quốc gia;
3. “Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia”, NXB Giao thông vận tải, 2003;
4. Báo cáo thường niên của Ngân hàng nhà nước.
Củng cố lại hệ thống Ngân hàng thương
mại quốc doanh trong thời kỳ hậu WTO?
( Bình chọn: 3 -- Thảo luận: 1 -- Số lần đọc: 10485)
Bản gốc tiếng Anh của hai tác giả Bùi Quang Nam và Trần Trí Dũng đã được đăng trên Vietnam Investment
Review tháng 10/2006. Bài viết được thực hiện vào thời điểm Việt Nam chưa gia nhập WTO nhưng những
phân tích và quan điểm của hai tác giả vẫn có ý nghĩa tham khảo. Bản gốc tiếng Anh được đính kèm theo
bài.
-----------------------------------------------------------------
Việt Nam có thể lỡ mất chuyến tàu thành viên của WTO trong năm nay (2006), nhưng việc hội nhập, không
nghi ngờ gì nữa, sẽ xảy ra. Trong khi tổ chức toàn cầu này trực tiếp đối phó với vấn đề thương mại toàn
cầu, và trước tiên là với những vấn đề thương mại tự do, mỗi người đều hiểu rằng những vấn đề chiến
lược liên quan đến thị trường vốn và tiền tệ đương nhiên là một phần của cuộc chơi.
Trong ánh sáng của những vấn đề trên, bài phân tích này xem xét tình huống và cố gắng dự đoán vị thế
của ngân hàng thương mại quốc doanh trong nền kinh tế Việt Nam hậu WTO.
Chính sách tự do kinh doanh chưa chứng tỏ được hiệu quả
Trong tuần đầu tiên của tháng 10, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã ký quyết định tiến hành cổ phần hóa

hầu hết các Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN). Đây là một chuyển động rất có ý nghĩa nhằm điều chỉnh hệ
thống các DNNN vốn đang tồn tại nhiều vấn đề. Đã gần hai thập kỷ trôi qua kể từ khi những DNNN bước
vào giai đoạn tự cải tổ. Tuy vậy, có thể thấy hầu hết những điều chỉnh đã thực hiện đều tỏ ra không mấy
hiệu quả, và vai trò của các doanh nghiệp này có xu hướng giảm sút trong xã hội.
Chúng ta có thể nhận thấy những phương án điều chỉnh theo hướng tự do hóa kinh doanh đã không chứng
tỏ được hiệu quả ngay từ đầu, mà nguyên nhân chủ yếu bởi vì quán tính quá lớn của các DNNN khi họ vẫn
cố gắng giữ lại vị trí hiện tại, thêm vào đó là tình trạng phân hóa rộng trong lợi ích cá thể. Quyết định thúc
đẩy cổ phần hóa vừa được ký tạo sẽ tạo một sức ép tích cực lên khối doanh nghiệp này.
Theo quan điểm đó, không thể không chú ý tới khía cạnh tài chính, mà đại diện là các ngân hàng thương
mại quốc doanh. Hiện tại, những ngân hàng này có quy mô lớn, và sở hữu một nguồn lực tài chính đáng kể.
Tuy nhiên vẫn có những rủi ro tiềm tàng, những bất ổn và có thể đến một lúc nào đó. Trong bối cảnh đó,
chính phủ đã quyết định phê chuẩn về nguyên tắc việc cổ phần hóa ba ngân hàng quốc doanh chủ chốt.
Đây cũng là một điều tái khẳng định con đường trong tương lai gần của tiến trình đổi mới.
Theo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, tỉ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ tín dụng của hệ thống ngân hàng Việt
Nam tương đối an toàn. Cộng đồng tài chính đang quan tâm đến những con số vì WB và IMF thường trích
dẫn rằng tỉ lệ nợ quá hạn của các ngân hàng ở mức 2 con số. Thêm vào đó, trừ Vietcombank, hệ số bảo
toàn vốn (Capital Adequacy Ratio – CAR) của ba ngân hàng thương mại quốc doanh lớn ở dưới mức
chuẩn quốc tế là 8%.
Bảng 1. Hệ số của các ngân hàng thương mại quốc doanh, 2005
Ngân hàng Nợ xấu/Nợ quá hạn Hệ só bảo toàn vốn
VAS[1] IAS[2]
NH Đầu tư Phát
triển VN
9% 6.86% 3.36%
NH Kỹ thương 5-6% 6%* n.a
NH NN&PTNT 5-6% 4% n.a
NH Ngoại thương 3% 10% 8.5%
Nguồn:
NH Nhà nước Việt Nam, Báo cáo thường niên 2005
(*) Dự phòng rủi ro chưa được tính toán đầy đủ

Chú thích:
[1] Hệ thống kế toán Việt Nam – Vietnam Accounting Standards
[2] Hệ thống kế toán quốc tế – International Accounting Standards
Nguồn gốc vấn đề
Có thể thấy khá rõ những tài sản vô hình mà ngân hàng quốc doanh được hưởng. Đầu tiên, đó là sự thiên
vị của công chúng so với các ngân hàng “tư nhân”. Từ “quốc doanh” đối với đại bộ phận người Việt Nam
vẫn đồng nghĩa với một thực thể lớn, vững chắc và an toàn. Đó là cái mà chúng ta gọi là niềm tin. Ngân
hàng rất thích khái niệm này, vì nếu cảm giác tin tưởng này vẫn còn thống lĩnh, thì tiền gửi vẫn cứ chảy vào
ngân hàng với chi phí tương đối thấp. Việc tiến hành các hoạt động PR và marketing tốn kém trở nên dễ
dàng hơn nhiều. Rõ ràng là, việc tiết kiệm ở đây đồng nghĩa với lợi nhuận tốt hơn.
Thứ hai, qui mô của những ngân hàng này cho phép họ có lợi thế cạnh tranh so với những đối thủ tư nhân
nhỏ hơn. Những đối thủ này là những ngân hàng đang cố gắng kiểm soát luồng tiền mặt ra vào, sử dụng tất
cả những công cụ tài chính để cố chiếm một phần nhỏ của thị trường đang tăng trưởng. Hiện tượng này
thường được gọi là tiết kiệm nhờ quy mô.
Thứ ba, tài sản hữu hình của ngân hàng quốc doanh có thể thấy được ở khắp mọi nơi, từ bất động sản cho
tới hệ thống những cơ sở và chi nhánh toàn quốc. Ngân hàng Agribank đã có khoảng 2000 chi nhánh các
cấp. Hệ thống chi nhánh này đã giúp cho Ngân hàng Agribank được Bảo hiểm xã hội ủy thác việc trả lương,
đây là một hợp đồng kinh doanh tốt đến nỗi kể cả ngân hàng tư nhân có uy tín nhất là Sacombank cũng
không có khả năng đạt được.
Và cuối cùng, nhưng không kém phần quan trọng, là khi cần một số quyền miễn trừ để thực hiện một số
nhiệm vụ, thì những ngân hàng quốc doanh có nhiều khả năng được cấp quyền miễn trừ này. Tháng
9/2006, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành quyết định cho phép NH Kỹ thương, NH
Đầu tư & Phát triển và NH Ngoại thương vượt định mức cho vay không quá 15% vốn đối với một khoản nợ
cho một pháp nhân. Điều này đã cho phép NH Kỹ thương, NH Đầu tư & Phát triển và NH Ngoại thương huy
động tổng số 1,27 tỉ USD cho Tổng công ty Điện lực Việt Nam, với khoản đóng góp của từng ngân hàng lần
lượt là 321,3 triệu, 252,3 triệu và 659,9 triệu USD.
Một cách tự nhiên, chúng ta đều hiểu rằng các ngân hàng quốc doanh rất khác so với một ngân hàng tư
nhân trung bình. Do dó, khi vấn đề quy mô, khả năng chi trả, và độ an toàn trở nên không còn nhiều ý
nghĩa, thì tính hợp lý trong hoạt động của những ngân hàng này thực sự là vấn đề cần xem xét. Chúng ta
sẽ sớm thấy được sự hợp lý trong hoạt động ngân hàng là giải pháp duy nhất quyết định khả năng cạnh

tranh của ngân hàng, và những hoạt động không hợp lý có thể sẽ phá hủy những giá trị đã có trước đó, nếu
chúng ta có thể gọi là như vậy. Cơ chế thị trường đã làm cho những ngân hàng quốc doanh xử sự giống
những ngân hàng tư nhân: cạnh tranh trong việc quản lý luồng tiền gửi, mở rộng mạng lưới, thu hút những
nhân sự có năng lực, tiến hành các chiến dịch PR, mặc dù đó chưa phải là việc xây dựng hoạt động hợp lý.

Bảng 2. Thị phần của các ngân hàng thương mại, 2000-2004 (%)
2000 2001 2002 2003 2004
Thị phần huy động vốn
NH quốc doanh 77.0 80.1 79.3 78.1 75.2
NH Cổ phần 11.3 9.2 10.1 11.2 13.2
Chi nhánh NH nước ngoài 9.2 8.8 8.1 7.8 8.2
NH liên doanh 2.5 1.9 2.5 2.9 3.4
Tổngl 100 100 100 100 100
Thị phần cho vay vốn
NH quốc doanh 76.7 79.0 79.9 78.6 76.9
NH Cổ phần 9.2 9.3 9.5 10.8 11.6
Chi nhánh NH nước ngoài 11.3 9.5 7.7 7.7 8.3
NH liên doanh 2.8 2.2 2.9 2.9 3.2
Tổngl 100 100 100 100 100
Nguồn: Bản cáo bạch của NH Đầu tư & Phát triển 2005, và tác giả dự báo
Trong khi cơ chế thị trường thực sự đã đồng hóa toàn bộ các ngân hàng tư nhân theo nghĩa đưa ra những
kinh nghiệm hoạt động tốt nhất để tăng độ cạnh tranh, thì đối với ngân hàng quốc doanh chưa thấy được
tác động này một cách rõ ràng. Tất cả những thay đổi của NHQD chưa thể giải quyết ngay những vấn đề ăn
sâu vào hoạt động của họ, như nợ xấu, nợ trực tiếp, quản trị rủi ro thấp và hoạt động chưa được quy
chuẩn. Liệu những ngân hàng quốc doanh này có thể duy trì được vị trí của họ ở thời điểm hậu WTO hay
không? Câu trả lời là “Rất khó”, đơn giản vì sẽ không có hai luật chơi riêng biệt cho khối tư nhân và quốc
doanh, bất kể ở phạm vi trong nước hay quốc tế. Những qui tắc lạnh lùng của thị trường sẽ làm gia tăng
việc hoạt động ngân hàng an toàn và hợp lý hơn, và nghiêm khắc trừng phạt tất cả những gì đi ngược lại.
Ngân hàng quốc doanh hiện tại vẫn được hưởng một số lợi thế, điều này sẽ không giúp cải thiện được tính
cạnh tranh cho thành phần kinh tế này thời hậu WTO.

Nên bắt đầu từ đâu?
Những điểm nêu trên gợi ý cho chúng ta tìm kiếm những hiểu biết sâu sát hơn về hệ thống ngân hàng quốc
doanh. Những ngân hàng quốc doanh lớn hiện tại chưa tham gia nhiều vào bức tranh hoạt động thị trường.
Những ngân hàng tư nhân hiểu định đề này hơn ai hết. Do đó, họ đã bắt tay vào cuộc đua đường trường để

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×