Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

tiểu luận cao học VAI TRÒ của mặt TRẬN tổ QUỐC TRONG xây DỰNG NHÀ nước VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (241.42 KB, 40 trang )

BÀI 19
ĐỀ TÀI:
VAI TRÒ CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC TRONG XÂY DỰNG
NHÀ NƯỚC VIỆT NAM


A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Mục đích chọn đề tài
Cách đây 74 năm, ngay sau khi dr Cộng sản Đông Dương vừa mới
thành lập, ngày 18 tháng 11 năm 1930, Ban thường vụ TW Đảng đã thông
qua một số văn kiện lịch sử quan trọng đó là bản chỉ thị về việc thành lập hội
phản đế Đồng minh, hình thức đầu tiên của mặt trận dân tộc thống nhất Việt
Nam. Từ đó đến nay, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, các hình thức tổ
chức mặt trận đã lần lượt ra đời đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của từng thời kỳ
cách mạng. Đó là hội phản đế Đồng Minh (1930); Mặt trận dân chủ Đông
Dương (1939); Mặt trận Việt Minh (1941); Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam
(1946); Mặt trận liên Việt (1951); Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1955); Mặt
trận dân tộc giải phóng miền Nam (1960); Liên minh các lực lượng dân tộc,
dân chủ và hồ bình Việt Nam (1968); Mặt trận Tổ quốc của một nước Việt
Nam thống nhất (từ 1977 đến nay).
Năm tháng sẽ qua đi nhưng lịch sử vẻ vang của Mặt trận dân tộc thống
nhất Việt Nam sẽ mãi mãi gắn liền với lịch sử vinh quang của Đảng ta, của
dân tộc ta. So với lịch sử mấy ngàn năm của dân tộc thì lịch sử hơn 70 năm
tồn tại và khơng ngừng lớn mạnh của dân tộc thống nhất Việt Nam chỉ là
khoảnh khắc. Song chính trong thời gian ngắn ngủi ấy đã diễn ra những sự
kiện vô cùng lớn lao làm thay đổi hẳn bộ mặt của nước ta, của nhân dân ta.
Đó là thắng lợi của cách mạng tháng 8 (1945); là chiến thắng Điện Biên Phủ
(1954); là đại thắng mùa xuân thống nhất nước nhà (1975), và những thành
quả rất quan trọng của công cuộc đổi mới đất nước ta thoát khỏi khủng hoảng
kinh tế - xã hội, đưa nhân dân ta từng bước tiến lên Xã hội chủ nghĩa. Dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Mặt trận dân tộc thanh niên Việt Nam


đã có những đóng góp rất to lớn vào sự nghiệp đại đồn kết tồn dân, góp
phần làm nên những mốc son lớn trong lịch sử của dân tộc. Bài học lớn của
cách mạng nước ta đã được ghi trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
2


kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng là khơng ngừng củng cố khối đại
đồn kết tồn dân tộc thống nhất Việt Nam. Mặt trận Tổ quốc góp phần kế
thừa và phát huy truyền thống các tổ chức Mặt trận trước đây, nơi tập hợp xây
dựng khối đại đoàn kết toàn dân, động viên mọi tầng lớp nhân dân thực hiện
đường lối của Đảng.
Chính vì nhận thức được vai trò to lớn của Mặt trận Tổ quốc nên tơi đã
chọn làm đề tài học phần của mình là: “Vai trò của Mặt trận Tổ quốc trong
xây dựng Nhà nước Việt Nam”.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề xây dựng Nhà nước Việt Nam là một việc làm mà Đảng ta đã
và đang tiến hành. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với vai trò to lớn trong việc
liên kết giữa nhân dân với Đảng, tập hợp lực lượng đông đảo tạo sức mạnh to
lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hiện nay tình hình nghiên
cứu Mặt trận Tổ quốc cũng đã được một số nhà xuất bản quan tâm như: NXB.
Quốc gia Hà Nội; NXB. Quân đội nhân dân viết sách. Nhưng những sách đó
chủ yếu viết sơ lược hoặc không cụ thể về vấn đề nào của Mặt trận Tổ quốc.
Do đó tơi đã chọn một số điểm trọng tâm để viết bài “Vai trò của Mặt trận Tổ
quốc trong xây dựng Nhà nước Việt Nam”.
Bài viết sử dụng các phương pháp như: phương pháp logic, so sánh lịch
sử điều tra thực nghiệm…

3



B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I:
KHÁI QUÁT SỰ HÌNH THÀNH MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
1. Khái niệm
1.1. Khái niệm về tổ chức chính trị xã hội
Trong những yếu tố cấu thành hệ thống chính trị, ngồi Nhà nước và
các Đảng chính trị cịn có các tổ chức chính trị xã hội. Hoạt động của các tổ
chức chính trị - xã hội có ý nghĩa hết sức to lớn trong việc hình thành quyền
lực chính trị của các giai cấp, tầng lớp khác nhau trong xã hội.
“Các tổ chức chính trị - xã hội là những tổ chức có liên hợp tự nguyện
của những cộng đồng người xây dựng theo nguyên tắc tự quản và chủ động,
nhằm bảo vệ lợi ích những thành viên trong cộng đồng người đó”.
Sự ra đời của các tổ chức chính trị - xã hội do yêu cầu khách quan thực
sự của cuộc sống con người, do vậy chức năng của nó mang tính khách quan.
Có nghĩa là nó ra đời là do các cơng dân tự nguyện lập lên nhằm thoả mãn
nhu cầu, lợi ích chung của các thành viên, một tập hợp công dân.
Những mục tiêu mà tổ chức chính trị - xã hội đề ra là những mục tiêu
vừa thiết thực với mỗi bản than hội viên, vừa đáp ứng nhu cầu chung của đất
nước, của xã hội, của cách mạng. Ở mức độ hẹp nó là lợi ích kinh tế hoặc tình
cảm nhân đạo, hữu nghị, nhưng ở mức độ rộng, nó lại đáp ứng những mục
tiêu phát triển xã hội.
Khi các cá nhân tự nguyện vào hội, các tổ chức đó thường xuyên cung
cấp các kiến thức và phương pháp cho các hội viên hoạt động, xây dựng và
bồi dưỡng các chun gia hàng đầu, các mơ hình cho các hội viên noi theo.
Để thực hiện hiệu quả chức năng này, hầu hết các tổ chức đều có trụ sở làm
việc, các cơ quan ngôn luận để mở rộng mọi nguồn thơng tin, nâng cao trình
độ cho các thành viên, tun truyền thu hút them người vào tổ chức của
mình… Chất keo làm lên tổ chức chính trị là việc kết nợ chặt chẽ lợi ích của
các thành viên với lợi ích của tập thể và lợi ích xã hội.
4



* Một số tổ chức chính trị - xã hội ở nước ta:
Hội quần chúng ra đời khi xã hội lồi người xuất hiện, khi con người
có ý thức được sức mạnh tập thể, sức mạnh của sự hợp tác lẫn nhau giữa các
nhóm người, giữa các cộng đồng người. Sự phát triển của hội ngày càng gia
tăng và phong phú theo trình độ phát triển của xã hội lồi người và nhu cầu
ngày càng cao, càng đa dạng của các tầng lớp dân cư trong xã hội.
Hiện nay ở nước ta có các hội quần chúng như:
- Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam với 42 hội thành viên.
- Hội liên hiệp văn học nghệ thuật như hội nhà văn, hội nhà báo, hội
nhạc sĩ, tạo hình, điện ảnh…
Các hộ hữu nghị với chính sách mở cửa với việc giao lưu, học hỏi các
nước bạn về chính trị, kinh tế văn hố, giáo dục, ngoại giao…
Ngồi ra cịn có các hội khác như: hội chữ thập đỏ, hội người mù, hội
làm vườn, hội khuyến học, hội người cao tuổi…
1.2. Khái niệm Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam do Hồ Chí Minh và Đảng ta sáng
lập, lãnh đạo và khơng ngừng lớn mạnh, đã có những đóng góp vơ cùng to lớn
qua các thời kỳ cách mạng với những tên gọi khác nhau trở thành nhân tố
quyết định cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Ngày 18/11/1930, hội
phản đế đồng minh – hình thức tổ chức đầu tiên của Mặt trận dân tộc thống
nhất hiện nay là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
“Mặt trận Tổ quốc là một tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự
nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và
các cá nhân tiêu biểu cho các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các
tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài”.
Mặt trận Tổ quốc là một tổ chức liên minh chính trị. Liên minh chính
trị là sự liên kết các lực lượng với nhau thành một khối thống nhất để thực
hiện mục tiêu chính trị chung. Mục tiêu đó ở những giai đoạn cũng khác nhau,

phù hợp với nhiệm vụ cách mạng và lợi ích cơ bản của lực lượng tham gia
5


liên minh. Mục tiêu chung trong giai đoạn cách mạng hiện nay là giữ vững
độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và tồn vẹn lãnh thổ, phấn đấu thốt khỏi
nghèo nàn, lạc hậu tiến lên dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ
văn minh.
Mặt trận Tổ quốc là tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, nơi thể hiện ý
chí, nguyện vọng chính đáng và hợp pháp của mọi tầng lớp nhân dân trong
xã hội, góp phần xây dựng Đảng, xây dựng bộ máy Nhà nước các cấp ngày
càng trong sạch, vững mạnh; Mặt trận Tổ quốc là cầu nối thắt chặt mối quan
hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước. Thông qua Đảng và Nhà nước lắng
nghe ý kiến của các tầng lớp nhân dân để xây dựng và hồn thiện đường lối,
chủ trương, chính sách, luật pháp, đồng thời đưa chủ trương, đường lối,
chính sách, luật pháp đến với các tầng lớp nhân dân, biến thành phong trào
hành động thực tế của quần chúng, vận động nhân dân thực hiện đường lối,
chính sách đối nội, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước.
Mặt trận Tổ quốc góp phần thực hiện chức năng giám sát của nhân dân
đối với công tác và đạo đức, lối sống của Đảng viên, cán bộ, công chức, các
đại biểu dân cư và các cơ quan Nhà nước góp phần tích cực giải quyết những
mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân.
Xét về tính chất của tổ chức thì Mặt trận Tổ quốc là một tổ chức hiệp
thương cao nhất của cả nước, nơi phối hợp thống nhất hành động của các tổ
chức thành viên. Nếu Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất thì Mặt trận Tổ
quốc là tổ chức hiệp thương cao nhất, vì nó có chức năng hiệp thương để tiến
hành bầu cử ra các đại biểu quốc hội, đại biểu hội đồng nhân dân các cấp.
Khơng có một tổ chức chính trị - xã hội nào phản ánh dân được ý kiến nhiều
chiều, đa dạng, phong phú của tất thảy các tầng lớp nhân dân rộng rãi như
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Đối tượng tham gia vào Mặt trận Tổ quốc Việt Nam rất đa dạng,
phong phú, gồm: cơng nhân, nơng dân, trí thức, dân tộc thiểu số, đồng bào
theo đạo, nhân sĩ, người Việt Nam định cư ở nước ngoài và đại đoàn kết
6


không phân biệt: mọi giới, mọi lứa tuổi, đảng phái… trong điều kiện chỉ có
một đảng cầm quyền lãnh đạo tồn xã hội, thì việc phát huy đầy đủ vị trí, vai
trị của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam sẽ là một lợi thế quan trọng để Đảng và
Nhà nước khắc phục sai lầm, thiếu sót trong cơng tác lãnh đạo, quản lý đất
nước do tệ nạn quan lieu, xa rời quần chúng, xa rời thực tiễn gây ra. Đó cịn là
một giải pháp tích cực để làm trong sạch đội ngũ Đảng viên, cán bộ, công chức
Nhà nước, loại bỏ những phần tử xấu gây mất uy tín của Đảng và Nhà nước.
2. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử của cách
mạng Việt Nam
2.1. Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt nền móng về tư tưởng và tổ chức
chuẩn bị cho sự ra đời Mặt trận Tổ quốc thống nhất
Từ giữa thế kỷ XIX cho đến những năm đầu thế kỷ XX nước ta dưới sự
đàn áp của thực dân Pháp, từ chế độ phong kiến lạc hậu thành một xã hội thuộc
địa và nửa phong kiến. Vốn có truyền thống u nước, đồn kết, nhiều phong
trào đấu tranh kiên cường chống lại bọn thực dân đô hộ và tay sai nhưng không
giành thắng lợi. Đầu thế kỷ XX trên thế giới có cách mạng tư sản Pháp, cách
mạng Tân Hợi Trung Quốc và Minh Trị Duy Tân ở Nhật Bản đã có tác động
rất lớn vào cách mạng nước ta đòi tự do, dân sinh, dân chủ… nhưng hầu hết
các phong trào trên đều thiên về hướng ngoại, cầu viện dựa vào lực lượng bên
ngoài, chưa thấy và chưa biết phát huy sức mạnh nội lực dân tộc.
Một số người cầm đầu tuy đã kêu gọi, hô hào “đồng tâm”, “hiệp lực”,
“đồng bào”, “đồng chí” nhưng chưa coi trọng và chưa biết đồn kết. Các bậc
sĩ phu danh tiếng cũng chưa phân biệt được bạn, thù mặc dù rất kính trọng
bậc tiền bối song Hồ Chí Minh đã nhận xét: “cụ Phan Chu Trinh yêu cầu

người Pháp thực hiện cải cách chẳng khác gì “đến xin giặc rủ long thương”,
chủ trương của cụ Phan Bội Châu nhờ Nhật giúp đỡ để đuổi Pháp khác nào
“đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau”, chủ trương của cụ Hoàng Hoa Thám
tuy thực tế hơn nhưng cũng khơng có lối thốt đúng đắn rõ rang. Như chủ tịch
Hồ Chí Minh đúc kết: “Việc lớn chưa thành cơng khơng phải vì đế quốc mạnh
mà vì nhân dân ta chưa hiệp lực, đồng tâm”.

7


Với lòng nhiệt huyết và tài năng, Nguyễn Ái Quốc bơn ba tìm đường
cứu nước; cách mạng tháng Mười Nga và đặc biệt luận cương về vấn đề dân
tộc và thuộc địa của Lênin đã tạo sự chuyển biến về nhận thức của Người. Từ
đó Người đã tham gia hoạt động cách mạng ở quốc tế rồi truyền bá chủ nghĩa
Mác – Lênin vào nước ta.
Bằng nhiều hành động khác nhau tranh thủ và tận dụng mọi điều kiện
cho phép Nguyễn Ái Quốc đã mang hết tâm trí để đấu tranh và tập hợp lực
lượng; liên kết liên minh và phối hợp đấu tranh giữa nhân dân lao động ở chính
quốc với các dân tộc thuộc địa. Trong những năm 20 của thế kỷ XX Người đã
tham gia vào Đảng Cộng sản Pháp; năm 1923 tham dự Đại hội quốc tế nông
dân; 1924 dự Đại hội quốc tế phụ nữ… Người đã khẳng định sức mạnh to lớn
của lực lượng đồn kết tồn dân, sức mạnh “dân khí” hơn mọi thứ vũ khí: “dân
khí mạnh thì qn lính nào, súng ống nào cũng không chống lại nổi”.
Với sự truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào trong nước mạnh mẽ đã
làm thay đổi nhận thức của giai cấp công nhân chuyển từ đấu tranh tự phát
sang đấu tranh tự giác. Phong trào cách mạng cũng đã lên cao để đến cuối
1929 đã có ba tổ chức Đảng được thành lập khơng những là nền móng cho
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời mà cịn tạo cơ sở cho sự hình thành Mặt trận
Tổ quốc thống nhất.
2.2. Quá trình hình thành Mặt trận thống nhất phản đế

Trong cương lĩnh đầu tiên, Đảng Cộng sản Việt Nam đã giương cao
ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phù hợp với xu thế của thời đại
và đáp ứng nguyện vọng của nhân dân. Cương lĩnh tuy vắn tắt nhưng cũng
vạch ra những nguyên tắc về chiến lược, sách lược xây dựng Mặt trận dân tộc
thống nhất với những nội dung cơ bản là: Đảng của giai cấp vô sản phải lãnh
đạo quần chúng dựa vào dân cày nghèo. Lôi kéo về phía mình Tư sản, trí
thức, trung nơng…, đối với phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản Việt Nam
mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì đánh đổ. Như vậy ngay từ khi mới ra đời
Đảng đã có chủ trương đoàn kết các giai cấp, cá nhân, tổ chức chính trị phát
8


huy sức mạnh truyền thống yêu nước và chĩa mũi nhọn vào kẻ thù chung là
chủ nghĩa đế quốc và phong kiến để giành độc lập dân tộc. Cũng chính từ đây
mà Mặt trận cũng được triển khai rất mạnh mẽ mà đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh. Về nguyên tắc xây dựng hội phản đế đồng minh: bản chỉ thị xác định
phải bảo đảm tính chất cơng nơng đồng thời phải mở rộng tới các thành phần
trong dân tộc để Mặt trận thật sự là của toàn dân, Mặt trận ngày càng mở rộng
lực lượng, tiếp tục phát triển tới các tổ chức: công hội, nông hội, hội cứu tế
đỏ. Phong trào đã giành nhiều thắng lợi cho quần chúng; đã ra đời chính
quyền Xơ – Viết là chính quyền của nhân dân. Cũng chính vì vậy mà thực dân
Pháp tăng cường đàn áp khủng bố dùng mọi thủ đoạn lừa bịp, chia rẽ. Đây
cũng là giai đoạn thoái trào của cách mạng. Thực tiễn của những năm thối
trào cách mạng giúp cho Đảng ta hiểu thấm thía hơn tầm quan trọng chính trị
mối quan hệ giữa Đảng và quần chúng. Lúc này để phù hợp với tình hình
cách mạng, Hội phản đế liên minh được thành lập (1935). Nhằm mở rộng Mặt
trận dân tộc thống nhất, nghị quyết của Đảng cịn đề ra nhiều hình thức và
biện pháp thực hiện sự bắt tay, liên minh rất rộng rãi. Phản đế liên minh là
hình thức tổ chức tập hợp tất cả các lực lượng phản đế tồn Đơng Dương bao
gồm cả những bộ phận hay toàn thể các đảng phái, đồn thể tổ chức, lớp
nhóm có tính chất cách mạng kể cả những phần tử lẻ tẻ. Những chủ trương

đúng đắn đó góp phần quan trọng làm dấy lên cao trào cách mạng trong cả
nước, có tác dụng rèn luyện lực lượng cho cách mạng tháng Tám sau này.
2.3 Chủ trương lập Mặt trận dân chủ
Đầu 1936 chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp đã ra nhiều chính sách
dân chủ có điều kiện thuận lợi cho cách mạng phát triển, bên cạnh đó là sự
chống đối của bọn tay sai phản động và đế quốc Pháp. Trước tình hình đó,
tháng 4 – 1936 ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương gửi
thư cho Việt Nam Quốc Dân Đảng, các nhóm và các phe phái cách mạng, các
hội phản đế, tổ chức cải lương… để cùng đánh đổ chủ nghĩa đế quốc và tay
sai phản động, nhiệm vụ không thể tránh khỏi là liên kết lại để thành lập Mặt
9


trận nhân dân thống nhất, bỏ qua mọi hiểu lầm, tập trung lực lượng vào cùng
một phong trào phản đế. Chính sách lập Mặt trận nhân dân phản đế khơng phải
là chống người Pháp mà chỉ chống đế quốc Pháp, thực hiện dân chủ cho xứ
Đơng Dương. Cịn vấn đề độc lập hay tự trị thì phải dựa vào hành động thống
nhất của nhân dân Đông Dương. Mặt trận thống nhất nhân dân phản đế hoạt
động cơng khai để có cơ sở quần chúng rộng rãi. Qua sự chuyển hướng và từng
bước hồn chỉnh nhận thức của Đảng về cơng tác Mặt trận; cho thấy tính năng
động và thực tiễn của những người cách mạng Việt Nam khi quan niệm “một
chính Đảng khơng thể biết tuỳ theo hồn chủ nghĩa Mác – Lênin mà thay đổi
chính sách thì khơng bao giờ làm xong mục đích của cuộc cách mệnh”.
Thời kỳ này đấu tranh công khai rất sôi động khẳng định sự chuyển
hướng đúng đắn và kịp thời của Đảng Cộng sản Đông Dương kể từ khi hội
nghị trung ương 7 – 1936 đến tháng 3 – 1937. Hội nghị ban chấp hành trung
ương Đảng họp để kiểm điểm và đánh giá tình hình để có bước điều chỉnh kịp
thời, khắc phục những sai sót đã mắc phải. Tháng 9 – 1937 Đảng quyết định
lập: công hội, nông hội thay cho hội cứu tế đỏ, công hội đỏ, nông hội đỏ…
đồng thời chủ trương đẩy mạnh việc lập các Hội quần chúng công khai và

nửa công khai như hội ái hữu tương tế… tập hợp các đồn thể đó vào Mặt
trận thống nhất dân chủ.
Trong Mặt trận phải tôn trọng và khuyến khích mọi sáng kiến của các
bạn đồng minh. Bên cạnh đó Đảng cịn phải nhấn mạnh việc đẩy mạnh công
tác binh vận, đồng thời cũng phải cảnh giác đề phòng mọi sự thoả hiệp làm
rạn nứt và suy yếu Mặt trận.
Tháng 6 – 1938 Đảng ra lời kêu gọi lập Mặt trận dân chủ với ý thức:
“Đây là công cuộc của nền hồ bình nhân loại!... Hỡi quốc dân đồng bào,
hãy khăng khít đồn kết nhau lại… Hãy bước tới thành lập Mặt trận dân chủ
Đơng Dương…”
Những hình thức hoạt động của phong trào quần chúng trong thời kỳ
Mặt trận dân chủ Đông Dương rất phong phú, tiêu biểu:
10


- Báo chí cơng khai: Với khuynh hướng chính trị tiến bộ, truyền bá tư
tưởng yêu nước, công cụ truyền bá và tập hợp lực lượng cách mạng. Với các tờ
báo tiêu biểu: Tin tức, Đời nay (ở Hà Nội), Le people, Dânh chúng (ở Sài
Gịn), Sơng Hương lục bản (ở Huế), có tính chiến đấu cao, trở thành hạt nhân
dư luận xã hội ủng hộ Mặt trận dân chủ đòi các quyền tự do, dân sinh, dân chủ.
Tờ báo: Dân chúng ra đời không cần xin giấy phép (22 – 7 – 1938)
buộc bọn thực dân ở Nam Kỳ phải ban lệnh tự do báo chí ngày 30 – 8 – 1938
là sự kiện tiêu biểu của cao trào vận động dân chủ.
- Tranh cử và đấu tranh thị trường, ủng hộ phong trào dân chủ trên các
lĩnh vực: văn hoá, xã hội… Tiêu biểu hơn cả là phong trào Truyền bá quốc
ngữ nêu lên từ 1938 và tồn tại cho đến cách mạng tháng 8.
Đã giành nhiều thắng lợi to lớn trên đường cách mạng, nhiều bài học
kinh nghiệm quý báu cho quần chúng. Mặt trận dân tộc đã đi theo nguyện
vọng của nhân dân, như vậy mới là một phong trào quần chúng. Nó cũng dạy
chúng ta rằng: “phải hết sức tránh những bệnh chủ quan, hẹp hòi…”

2.4. Thành lập Mặt trận Việt minh nhằm thức tỉnh tinh thần dân tộc
Năm 1941, tình hình thế giới và trong nước đã có nhiều chuyển biến. Ở
bên trong Nhật, Pháp thi nhau đàn áp, vơ vét làm cho nhân dân kể cả các tầng
lớp tư sản, địa chủ, trí thức cũng phẫn uất và đẩy họ ngả về phía phe cách
mạng. Trước tình hình này, Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập hội nghị trung ương
lần thứ 8 đưa ra chủ trương tạm gác khẩu lệnh cách mạng thổ địa chĩa mũi
nhọn vào Nhật, Pháp. Đó khơng phải là bỏ nhiệm vụ đền địa, cũng không phải
đi lùi một bước “mà chỉ bước một bước ngắn hơn để có sức mà bước dài hơn”.
Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề độc lập, tự do cho toàn dân
tộc thì quyền lợi của quốc gia, các đồn thể cịn chịu mãi “kiếp trâu ngựa”.
Hơn ai hết Nguyễn Ái Quốc hiểu rõ nhiệm vụ cấp thiết là phải hiệu
triệu hết sự thống thiết, để thức tỉnh được tinh thần dân tộc. Cho nên Mặt trận
sẽ không gọi như trước mà dùng tên khác có tính dân tộc hơn, mãnh lực hiệu
triệu hơn. Do đó Mặt trận dân tộc thống nhất chống phát xít Nhật – Pháp lấy
tên là Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là Việt Minh.

11


Việc tổ chức thí điểm Mặt trận Việt Minh ở Cao Bằng và tổ chức các
hội cứu quốc đáp ứng yêu cầu cấp thiết của tầng lớp nhân dân. Đó là cở sở
thực tiễn để trung ương đánh giá tình hình và quyết định thành lập Mặt trận
Việt Minh.
Ngày 6 – 6 – 1941, đồng chí Nguyễn Ái Quốc cơng bố thư kính cáo
đồng bào. Người kêu gọi “con lạc cháu hồng” đồn kết để cứu giống nịi ra
khỏi nước sâu lửa nóng. Người khơi dậy truyền thống oanh liệt của các bậc
anh hùng và tinh thần yêu nước, đoàn kết đánh đuổi bọn xâm lược.
Đồng chí Trường Chinh cũng thay mặt trung ương Đảng để đưa ra
khẩu hiệu “dân tộc trên hết! Tổ quốc trên hết!”. Phong trào Việt Minh nhanh
chóng lan rộng, Cao Bằng trở thành trung tâm cách mạng của cả nước. Ngày

1 – 8 – 1941 ra báo Việt Nam độc lập (Việt Lập); 10 – 1941 Việt Minh cơng
bố Tun ngơn, chương trình, điều lệ; 25 – 1 – 1942 báo Cứu quốc được xuất
bản. Ngồi ra bộ Việt Minh cịn xuất bản nhiều cuốn sách mỏng, khổ nhỏ với
nhiều thứ tiếng như Dao, Tày, Nùng; cùng đó là truyền đơn và panơ áp phích
lưu động. Hoạt động này đã góp phần to lớn vào việc giành thắng lợi trước kẻ
địch. Cuối năm 1941 Cao Bằng đã có một số “xã hồn tồn”, “tổng hồn
tồn”. Sang 1942 Cao Bằng có 3 châu trong 9 châu là “châu hoàn toàn”. Với
thắng lợi này của lực lượng cứu quốc làm cho chính quyền địch ở nhiều tỉnh
bị tê liệt. Năm 1942 ở Hà Nội một số nhà văn nghệ sĩ được tập hợp vào hội
văn hoá cứu quốc triển khai thực hiện Đề cương về văn hoá Việt Nam; ngày 7
– 5 – 1944 tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị về sửa soạn khởi nghĩa: việc sửa
soạn vũ trang để khởi nghĩa. Trên cơ sở lực lượng vũ trang nhân dân đang
hình thành, tháng 12 – 1944 Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân do
Bác Hồ ra chỉ thị thành lâp. Những hoạt động của đội qn đầu tiên này có
nhiệm vụ dìu dắt các đội vũ trang của các địa phương trưởng thành và phối
hợp hành động với nhau, càng gây thêm thanh thế và ảnh hướng hưởng của
Việt Minh lan rộng khắp toàn dân.

12


Ngày 9 – 3 – 1945, Nhật đảo chính Pháp, ban thường vụ trung ương
Đảng ra chỉ thị “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, đây là
điều kiện chin muồi cho cách mạng. Kẻ thù của dân tộc lúc này là Nhật. Khẩu
hiệu hành động là: “Đánh đuổi phát xít Nhật”, phát động cao trào kháng Nhật
cứu nước, sẵn sang chuyển qua hình thức tổng khởi nghĩa khi có đủ điều kiện.
Với khí thế mạnh mẽ phong trào cách mạng diễn ra trên cả ba miền:
Đồng bằng, trung du, miền núi bằng chiến tranh du kích và vũ trang cách
mạng lập khu giải phóng Việt Bắc (gồm phần lớn 6 tỉnh: Cao Bằng, Bắc Cạn,
Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang và một số vùng ở các tỉnh

lân cận) thực hiện 10 chính sách của Việt Minh là hình ảnh của nước Việt
Nam mới. Việt Minh đưa ra khẩu hiệu “phá kho thóc, giải quyết nạn đói”, kêu
gọi hàng vạn nơng dân chống phát xít Nhật và bù nhìn tay sai; Việt Minh cịn
kêu gọi thực dân Pháp hợp tác đuổi Nhật nhưng nhiều tên thực dân còn giết
hại chiến sĩ của ta rất độc ác. Dù thế Việt Minh cũng đã thả người Pháp bị
Nhật giam ở Tam Đảo tháng 7 – 1945 và giúp họ chạy qua biên giới.
Đầu tháng 8 – 1945 trục phát xít đã tê liệt hồn tồn. Giờ quyết định cho
vận mệnh dân tộc ta đã điểm, hãy đứng dậy “đem sức ta mà giải phóng cho ta”.
Thời cuộc chuyển biến mau lẹ; Đảng ta đã “chớp thời cơ” này và ra quân lệnh
tổng khởi nghĩa, chỉ trong vòng gần hai tuần lễ, chính quyền của địch hồn
tồn sụp đổ, các uỷ ban nhân dân lâm thời thành lập và ra mắt nhân dân.
Ngày 25 – 8 – 1945 chủ tịnh Hồ Chí Minh từ chiến khu về tới Hà Nội
chuẩn bị cho việc chính phủ ra mắt đồng bào; 26 – 8 – 1945 Người đề nghị
mở rộng thành phần chính phủ và cơng bố danh sách chính phủ và việc đồng
chí Nguyễn Lương Bằng và một số đồng chí khác tự nguyện rời chính phủ để
các nhân sĩ u nước ngồi Việt Minh vào chính phủ được chính chủ tịch Hồ
Chí Minh nhận xét: “là mọt cử chỉ vô tư, tốt đẹp, không ham chuộng địa vị,
đặt lợi ích của dân tộc, của đồn kết tồn dân lên trên lợi ích cá nhân”. Ngày
30 – 8 – 1945 đồng chí Nguyễn Lương Bằng dẫn đại biểu của tổng bộ Việt
Minh vào Huế chứng kiến vua Bảo Đại thoái vị.
13


2.5.Hội liên hiệp quốc dân Việt Nam (Liên Việt) thành lập và hoạt
động của Mặt trận Việt Minh, Liên Việt
Trong tình hình mới, qua thực tiễn đấu tranh cho độc lập và dân chủ, uy
tín của Bác Hồ có sức tập hợp rất lớn đối với các giai tầng trước kia chưa
quan hệ với Việt Minh vì mặc cảm nào đó, nay muốn tham gia một tổ chức
thích hợp để góp sức mình cho nước nhà.
Đáp ứng u cầu mới này của Mặt trận dân tộc thống nhất thì Bác Hồ

và trung ương đã vận động thành lập Hội liên hiệp quốc dân Việt Nam. Ban
vận động gồm 27 người, Đại biểu cũ Việt Minh gồm Hồ Chí Minh, Võ
Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng…; các nhà yêu nước Huỳnh Thúc Kháng,
quan lại cũ có Bùi Bằng Đồn, trí thức có Phan Anh…; Việt Nam quốc dân
Đảng có Chu Bá Phương, Nguyễn Tường Tam… Sau một thời gian chuẩn bị,
ngày 29 – 5 – 1946 Hội liên hiệp quốc dân Việt Nam tuyên bố thành lập. Hội
đã đề ra chủ trương, cương lĩnh nhằm đưa khối đại đoàn kết ngày càng bền
chặt, rộng rãi. Việc thành lập Hội liên hiệp quốc dân Việt Nam (gọi tắt là Liên
Việt) là sự phát triển của Mặt trận dân tộc thống nhất. Mặt trận Việt Minh vẫn
là một thành viên tích cực của Hội Liên Việt.
Hội Liên Việt với sức mạnh tập hợp đông đảo lực lượng ngoài các tầng
lớp cách mạng trước nay tập hợp và thu hút về mình cả những tên có âm mưu
phản cách mạng. Điều đó cho thấy rõ thiện chí đồn kết vì mục đích chung, vì
dân, vì nước. Trong hoàn cảnh mới cách mạng Việt Nam vẫn đứng vững
trước những nguy cơ bị phá hoại. Đòi hỏi Mặt trận Việt Minh và Mặt trận
Liên Việt phải hết sức phát huy vai trị của mình để làm sao thật chủ động,
sáng tạo sát cánh bên nhau để hoàn thành kháng chiến thắng lợi và độc lập
dân tộc. Năm 1948 khi cuộc kháng chiến chuyển sang tổng phản công, đặt ra
yêu cầu to lớn “Một dân tộc, một Mặt trận”.
Ngày 3 – 3 – 1951 Tổ chức thống nhất Việt Minh – Liên Việt lấy tên là
Mặt trận liên hiệp quốc dân Việt Nam (gọi tắt là Mặt trận Liên Việt). Các cơ quan
của Việt Minh nay chuyển thành cơ quant rung ương của Mặt trận Liên Việt. Bác
14


chỉ rõ “…rừng cây đoàn kết đã nở hoa, quả và gốc rễ của nó đã ăn sâu, lan rộng
khắp tồn dân, nó có một tương lai “trường xn bất lão””.Cũng trong tháng 3 –
1951 Mặt trận Liên Việt cùng Mặt trận Khơme Itxarac, Mặt trận Lào Itxala đã
quyết định thành lập khối liên minh sát cánh kề vai làm cho Đơng Dương hồn
tồn độc lập đồn kết tồn dân chặt chẽ và rộng rãi đưa kháng chiến đến thắng lợi

đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ 7 – 5 – 1954.
2.6. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Mặt trận giải phóng Miền Nam
Việt Nam phát huy sức mạnh đoàn kết tiến tới thống nhất đất nước
* Đặc điểm lớn nhất của cách mạng Việt Nam, từ tháng 9- 1954 là đất
nước tạm thời bị chia cắt làm hai miền, tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ
chiến lược, nhưng đều có mục tiêu chung là hồn thành giải phóng dân tộc.
Mặt trận Liên Việt hồn thành sứ mệnh lịch sử đoàn kết toàn dân
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Đến nay nhiệm vụ chung của cả
nước và của mỗi miền đã thay đổi, vì vậy cần phải có Mặt trận mới thích
hợp, thu hút tất cả mọi tổ chức và cá nhân yêu nước và tiến bộ, nhất là
những người ở vùng mới giải phóng.
Miền Bắc nhiệm vụ hiện nay là Bảo vệ Tổ quốc, xây dựng xã hội chủ
nghĩa. Sau một thời gian vận động từ ngày 5 đến 10 – 9 – 1954 đại hội Mặt
trận thống nhất Việt Nam đã họp ở Hà Nội quyết định lấy tên là Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam với khả năng tập hợp rộng rãi lực lượng, hơn 30 Đảng phái
chính trị, đồn thể và nhiều tổ chức cá nhân gia nhập Mặt trận, “làm nó trở
thành tổ chức chính trị rộng lớn trong sự nghiệp cách mạng của tồn dân”.
Mặt trận đã hoạt động rất tích cực trong việc tham gia khôi phục kinh tế
và phát triển văn hoá, hàn gắn vết thương chiến tranh và làm hậu phương
vững chắc cho chiến trường miền Nam Việt Nam với các phong trào diệt
“giặc dốt”, “giặc đói” mà chất lượng cuộc sống và trình độ của nhân dân đã
có kết quả tốt đẹp. Cơng nghiệp và nơng nghiệp cũng được đầu tư phát triển
cho nên đã đạt được sản lượng và năng suất cao. Nhân dân có quyền tự
nguyện tham gia mọi hoạt động sản xuất, văn hóa, chính trị. Đây là điều kiện
thiết yếu để khối đại đoàn kết toàn dân ngày càng rộng lớn.

15


Với vai trò xây dựng xã hội chủ nghĩa và hàn gắn vết thương chiến

tranh, Mặt trận Tổ quốc ở miền Bắc đã đạt hiệu quả vô cùng to lớn; đồng thời
miền Bắc còn là hậu phương vững chắc chuẩn bị và tập hợp lực lượng kinh tế
và quốc phòng lớn mạnh giúp miền Nam ruột thịt đánh kẻ thù. Với tinh thần
“chắc tay búa, tay súng” luôn giương cao khẩu hiệu “thóc khơng thiếu một
cân, qn khơng thiếu một người”, miền Bắc trở thành cầu nối, là mạch máu
truyền sinh lực cho miền Nam ruột thịt. Đánh giá vai trò to lớn của Mặt trận
Đảng Lao Động Việt Nam khẳng định: “thực tiễn Cách mạng Việt Nam đã
chỉ rõ rằng hiện nay Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với tinh thần yêu nước và
yêu chủ nghĩa xã hội một nhân tố thắng lợi của cách mạng nước ta, rất xứng
đáng với dân tộc Việt Nam anh hùng”.
* Sau Hiệp định Giơnevơ nhiệm vụ cách mạng hai miền được đề ra.
Miền Nam lúc này đấu tranh chống Mỹ - Diệm để đi tới thống nhất nước
nhà. Nhân dân miền Nam phải đấu tranh chống lại các phong trào “tố cộng”,
“diệt cộng” của Mỹ - Diệm. Địch còn dùng khu “trù bị”, “ấp chiến lược”…
để bắt và giết hại nhân dân. Lúc này với sức mạnh quân sự Mỹ - Nguỵ đã
làm tổn thất ta quá lớn đặt vai trò của Đảng và Mặt trận dân tộc thống nhất
lúc này ỏ một tầm to lớn.
Để đáp ứng yêu cầu lịch sử và nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân,
ngày 20 – 12 – 1960 tại vùng giải phóng Tây Ninh Mặt trận dân tộc giải
phóng miền Nam Việt Nam ra đời. Mặt trận ra lời kêu gọi “tất cả hãy đứng
lên, tất cả hãy đoàn kết lại!... đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và Ngơ
Đình Diệm”. Cùng với Mặt trận Tổ quốc ở miền Bắc. Mặt trận dân tộc giải
phóng miền Nam Việt Nam đã kiên cường đánh các chiến tranh kiểu mới của
Mỹ: chiến tranh một phía, Chiến tranh Đặc Biệt, Chiến tranh Cục Bộ, Việt
Nam hoá chiến tranh. Buộc Mỹ Nguỵ phải xuống thang ký Hiệp định Pari và
tiếp tục chịu thua cuộc trên khắp các chiến trường trên cả hai miền. Với sự
chuẩn bị lực lượng về kinh tế, chính trị, quân sự, Mặt trận cả hai miền đã
nhanh chóng đi đến thắng lợi là đại thắng mùa xuân 30 – 4 – 1975. Đất nước
hoàn toàn thống nhất; Bắc Nam sum họp một nhà.
16



* Với thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, nhân
dân ta đã hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và
cùng đi lên chủ nghĩa xã hội với hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Trong kháng chiến chống Mỹ đất nước chia ra làm hai miền mỗi
miền thực hiện một nhiệm vụ của mình để đi đến cuối cùng là thống nhất đất
nước. Nhưng việc thống nhất các tổ chức Mặt trận là nguyện vọng, là đòi hỏi
tất yếu sau khi đất nước giành độc lập.
Yêu cầu hiện nay là thành lập một Mặt trận duy nhất. Đại hội Mặt trận
dân tộc thống nhất Việt Nam họp tại Thành phố Hồ Chí Minh ngày 31 – 1 đến
ngày 4 – 2 – 1977. Đại hội đã nhất trí quyết định thống nhất các tổ chức Mặt trận
ở hai miền thành một Mặt trận chung lấy tên lf Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
3. Cơ cấu tổ chức của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Với vai trị là tổ chức có khả năng tập hợp đơng đảo các lực lượng cho
nên thành phần cấu thành nên Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cũng rất đa dạng,
phong phú với các tổ chức thành viên:
3.1. Đảng Cộng sản Việt Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam do chính chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và
rèn luyện, đã lãnh đạo nhân dân tiến hành cách mạng tháng 8 thành công, lập
nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (nay lf nghiên cứu Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam), đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược, xoá bỏ chế
độ thực dân, phong kiến hồn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc thống nhất
đất nước, tiến hành công cuộc khởi nghĩa, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo
vệ vững chắc nền độc lập của Tổ quốc.
3.2. Quân đội nhân dân Việt Nam
Là bộ phận chủ yếu của lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam.
Quân đội nhân dân Việt Nam sinh ra và lớn lên trong chiến tranh cách
mạng sôi nổi, rộng khắp và liên tục, là đội quân công – nông mang bản
chất công nhân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Kế thừa

truyền thống quân sự được nhân dân tin yêu, giúp đỡ, đánh thắng nhiều
17


quân xâm lược. Từ khi thành lập đến nay Quân đội nhân dân Việt Nam có
hàng nghìn đơn vị, cán bộ chiến sĩ được tuyên dương danh hiệu anh hùng
lực lượng vũ trang nhân dân.
3.3. Tổng liên đoàn lao động Việt Nam
Là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp cơng nhân, trí thức
và những người lao động tự nguyện lập ra nhằm mục đích tập hợp đồn kết
lực lượng, xây dựng giai cấp cơng nhân Việt Nam lớn mạnh về mọi mặt; đại
diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động, xây
dựng Việt Nam giàu mạnh đi lên chủ nghĩa xã hội.
Tổng liên đoàn lao động Việt Nam là thành viện của tổ chức Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, có quan hệ hợp tác
với Nhà nước và phối hợp với các tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức
chính trị xã hội khác; hoạt động trong khn khổ hiến pháp và pháp luật của
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
3.4. Hội nông dân Việt Nam
Là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp nông dân do Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo và là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, cơ sở
chính trị của Nhà nước Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
3.5. Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh
Là tổ chức chính trị - xã hội của thanh niên Việt Nam do Đảng Cộng
sản Việt Nam và chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện.
Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là thành viên của hệ thống
chính trị hoạt động trong khn khổ hiến pháp và pháp luật của Nhà nước xã
hội chủ nghĩa Việt Nam.
3.6. Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam
Là tổ chức chính trị - xã hội, tập đồn rộng rãi các tầng lớp phụ nữ Việt

Nam. Hội là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thành viên của liên
đoàn phụ nữ dân chủ quốc tế và liên đoàn các tổ chức phụ nữ ASEAN.

18


3.7. Hội cựu chiến binh Việt Nam
Hội cựu chiến binh Việt Nam là một đồn thể chính trị - xã hội, thành
viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân
dân, một tổ chức trong hệ thống chính trị do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo, hoạt động theo đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, hiến pháp,
pháp luật của Nhà nước và điều lệ của hội.
3.8. Liên hiệp các hội Khoa học kỹ thuật Việt Nam
Tập hợp đồn kết trí thức khoa học và công nghệ trong cả nước; áp
dụng tiến bộ khoa học – công nghệ vào sản xuất và đời sống.
Tư vấn, phản biện và giám định xã hội nhằm góp phần xây dựng cơ sở
khoa học cho việc phát triển khoa học – công nghệ, kinh tế - xã hội, tăng
cường an ninh và quốc phòng cả Đảng và Nhà nước.
3.9. Liên hiệp các hội văn học nghệ thuật Việt Nam
Là tổ chức chính trị - xã hội nghề nghiệp, là Mặt trận của các hội văn
học, nghệ thuật trong cả nước gồm: các hội văn học nghệ thuật chuyên ngành
toàn quốc và các hội văn học nghệ thuật tỉnh, thành phố.
3.10. Liên hiệp các tổ chức hoà bình, đồn kết, hữu nghị Việt Nam
Là tổ chức chính trị - xã hội trên phạm vi cả nước, có chức năng xây
dựng và phát triển mối quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa nhân dân Việt Nam
với nhân dân các nước trên thế giới.
Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam có các tổ chức thành viên là
các tổ chức hữu nghị tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
3.11. Hội luật gia Việt Nam
Là tổ chức chính trị - xã hội đoàn thể thống nhất của những công nhân

Việt Nam đã hoặc đang làm công tác pháp luật trong cả nước. Hội luật gia
Việt Nam là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
3.12. Hội liên hiệp thanh niện Việt Nam
Hội là tổ chức xã hội rộng rãi của thanh niên và các tổ chức thanh
niên Việt Nam yêu nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh và lý tưởng của Đảng
19


Cộng sản Việt Nam. Hội liên hiệp thanh niên Việt Nam là thành viên của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
3.13. Hội nhà báo Việt Nam
Là tổ chức chính trị - xã hội – nghề nghiệp của những người làm báo
Việt Nam, là một bộ phận trong hệ thống chính trị của nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam.
Hội nhà báo Việt Nam hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản
lý của Nhà nước, của chính phủ. Hội hoạt động theo pháp luật của nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và điều lệ hội.
3.14. Hội Chữ thập đỏ Việt Nam
Là tổ chức chính trị - xã hội nhân đạo quần chúng. Hội tập hợp những người
Việt Nam, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, nam, nữ… tự nguyện hoạt động vì
mục đích nhân đạo hồ bình, hữu nghị xã hội công bằng dân chủ, văn minh.
3.15. Tổng hội y dược học Việt Nam
Là tổ chức xã hội – nghề nghiệp tự nguyện của những hội y được có
hội viên là những cơng dân Việt Nam làm công tác chuyên môn nghiên cứu y
dược công và tư, đang tại chức hay đã nghỉ hưu, cùng nhau phấn đấu góp
phần chăm sóc, bảo vệ và tăng cường sức khoẻ cho nhân dân, xây dựng nền y
dược học Việt Nam, từng bước đi lên chính quy hiện đại. Tổng hội là thành
viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
3.16. Hội đông y Việt Nam
Là tổ chức xã hội nghề nghiệp của công dân Việt Nam hành nghê

đông y. Hội tập hợp và đoàn kết những người làm nghề y dược đông y
Việt Nam, tự nguyện đem khả năng, kiến thức và kinh nghiệm chuyên
môn cống hiến cho sự nghiệp bảo vệ sức khoẻ nhân dân, hội phối hợp với
các ngành y tế để kế thừa, phát huy và phát triển đông y Việt Nam. Kết
hợp chặt chẽ đông y với tây y để phục vụ sức khoẻ nhân dân trong sự
nghiệp cơng nghiệp hố – hiện đại hố.

20


3.17. Hội khoa học lịch sử học Việt Nam
Hội sử học là tổ chức xã hội nghề nghiệp của công dân Việt Nam hoạt
động trong các ngành khoa học lịch sử và những ngành có liên quan mật thiết.
Mục đích của hội là tập hợp đoàn kết và giúp đỡ nhau nhằm nâng cao trình độ
chun mơn bảo vệ quyền lợi cho hội viên, góp phần phát triển khoa học lịch
sử Việt Nam, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh, đoàn kết hữu nghị giữa các dân tộc.
3.18. Uỷ ban đồn kết cơng giáo Việt Nam
Là một tổ chức thành viên của uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, hoạt động theo hiến pháp và pháp luật của nước cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, trụ sở tại Hà Nội, thủ đô nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam.
3.19. Giáo hội phật giáo Việt Nam
Được viết tắt là GHPGVN hay hiệu của giáo hội phật giáo Việt Nam
hình trịn ở giữa vịng trịn có hoa sen trắng, trên nền xanh lá cây đậm vương
gương sen, 8 hột; vịng ngồi có chữ “giáo hội phật giáo Việt Nam” màu
trắng. Trụ sở của giáo hội đặt tại chùa Quán Sứ, số 73 phố Quán Sứ Hà Nội.
3.20. Tổng hội thánh tin lành Việt Nam
Mục đích của hội thánh tin lành là hội họp những người Việt Nam có

lịng kính thờ đức chúa trời và có lịng tin cậy tin lành – cứu rỗi của đức chúa
Jêsu để thành lập hội thánh duy nhất theo như giáo lý đã được bày tỏ trong
kinh thánh – cực tân ước cùng lo truyền bá đao tin lành.
3.21. Hội người mù Việt Nam
Hội mang tính đặc thù, hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng, được
Nhà nước bảo trợ, được xã hội và nhân dân giúp đỡ. Hội có mối quan hệ
chặt chẽ với các đồn thể và các tổ chức xã hội. Hội là thành viên của

21


Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, là thành viên quốc gia của hội người mù thế
giới và khu vực Châu Á – Thái Bình Dương.
3.22. Hội làm vườn Việt Nam
Là tổ chức nghề nghiệp xã hội mang tính chất kinh tế - kỹ thuật của
quần chúng rộng rãi, hoạt động tự nguyện đoàn kết, kết hợp giúp đỡ phát triển
kinh tế VAC nhằm tăng thu nhập nâng cao đời sống, bảo vệ quyền lợi chính
đáng của người làm VAC, góp phần xây dựng phát triển một nền nông nghiệp
bền vững, sản xuất hàng hố, cải thiện mơi trường. bảo vệ tài nguyên đất
nước làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
3.23. Hội đồng minh các hợp tác xã Việt Nam
Là tổ chức phi chính phủ có tư cách pháp nhân được tổ chức ở trung
ương và các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, hoạt động dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, theo pháp luật Việt Nam và điều lệ hội.
3.24. Hội sinh vật cảnh Việt Nam
Hội là một tổ chức quần chúng tập hợp rộng rãi những người yêu thích
sinh vật cảnh, những người sản xuất kinh doanh làm dịch vụ sinh vật cảnh,
những nhà khoa học, mỹ thuật và nghệ nhân hoạt động cho sự bảo vệ và phát
triển của sinh vật cảnh. Hội là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
3.25. Hội dân số và Kế hoạch hố gia đình Việt Nam

Hội là tổ chức quần chúng đồn kết tập hợp những cơng dân Việt Nam
trong và ngồi nước khơng phân biệt nam, nữ, tơn giáo, tự nguyện ủng hộ cho
chương trình sức khoẻ sinh sản và kế hoạch hó gia đình Việt Nam.
3.26. Hội người cao tuổi Việt Nam
Là tổ chức xã hội của người cao tuổi Việt Nam, do Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo và Nhà nước quản lý, hoạt động theo pháp luật của nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
3.27. Hội bảo trợ người tàn tật và trẻ em mồ côi Việt Nam

22


Là tổ chức xã hội từ thiện, hội tập hợp những người Việt Nam, tự
nguyện góp phần vào sự nghiệp “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh” vì lợi ích của người tàn tật và trẻ em mồ côi Việt Nam.
3.28. Hội khuyến học Việt Nam
Là tổ chức tự nguyện của mọi người Việt Nam tích cực tham gia phong
trào “trồng người”, tham gia xã hội hố giáo dục, nâng cao dân trí, bồi dưỡng
người tài cho đất nước.
3.29. Hội châm cứu Việt Nam
Là tổ chức nghề nghiệp theo y học cổ truyền không dùng thuốc trong
ngành y tế - công và tư, đang tại chức hay về hưu góp phần chăm sóc quân,
dân xây dựng nền y học Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
3.30. Hội liên lạc với người Việt Nam ở nước ngoài
Là tổ chức rộng rãi, tự nguyện.
3.31. Phịng thương mại và cơng nghiệp Việt Nam
Là tổ chức quốc gia tập hợp và đại diện cho cộng đồng doanh nghiệp,
người sử dụng lao động và đại diện cho cộng đồng doanh nghiệp góp phần
hợp tác quốc tế, phát triển thương mại mà trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi.
3.32. Hội nạn nhân chất độc da cam – Đioxin Việt Nam

Là tổ chức xã hội – từ thiện. Hội đoàn kết tập hợp những người bị ảnh
hưởng của chất độc hoá học và cụ thể là chất độc da cam – Đioxin do các
công ty Mỹ sản xuất và sử dụng trong chiến tranh ở Việt Nam, tự nguyện
tham gia khắc phục hậu quả chất độc Đioxin góp phần vào việc phát triển đất
nước vì lợi ích của những nạn nhân chất độc da cam Việt Nam.

23


CHƯƠNG II:
VAI TRÒ MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
1. Đại đoàn kết dân tộc
Đại đoàn kết là sức mạnh chiến thắng mọi kẻ thù trong và ngoài nước,
là sức mạnh cho mọi sự thành cơng. Bác Hồ đã khẳng định:
“Đồn kết, đồn kết, đại đồn kết
Thành cơng, thành cơng, đại thành cơng”
Đồn kết trên mọi mặt trận, mọi giai cấp, tầng lớp bất luận thế nào để
phát huy tiềm lực to lớn khơng gì bẻ gãy được sức mạnh vơ địch đó. Trong
thư chúc Tết Mậu Tý 1948, chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói:
“Tồn dân đại đồn kết
Cả nước một lịng
Thống nhất chắc chắn được
Độc lập quyết thành cơng”
Nước ta với truyền thống dân tộc vẻ vang, tập hợp dưới ngọn cờ của
Đảng, đoàn kết chặt chẽ trong mặt trận, nhân dân ta từ cảnh đời nô lệ.
Nước mất nhà tan đã đứng lên làm cách mạng tháng 8 – 1945 giành lại
quyền làm người và làm chủ đất nước, lập nên Nhà nước dân chủ nhân dân
đầu tiên ở Đông Nam Á. Trong kháng chiến cứu nước lâu dài, gian khổ và vô
cùng vẻ vang, chiến thắng lừng lẫy Điện Biên Phủ 1954 và đại thắng mùa
xuân 1975 bảo vệ nền độc lập và thống nhất Tổ quốc.

Bằng sức mạnh của mấy ngàn năm văn hiến, bằng ý chí sắt đá của cả
dân tộc “thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định
không chịu làm nơ lệ”. Đó là bản thiên anh hùng ca của cả dân tộc Việt Nam.
Ngày nay vượt qua khó khăn trong nước và ngồi những thách thức do
tình hình thế giới diễn biến phức tạp, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản
Việt Nam và Mặt trận rộng rãi, đất nước ta ngày càng phát triển, dân chủ ngày
càng mở rộng, quan hệ hữu nghị hợp tác ngày càng không ngừng phát triển.

24


Đạt được những thành tựu đó là do cơng sức của nhân dân, của mọi người dân
Việt Nam yêu nước thuộc các giai cấp, các tầng lớp xã hội các dân tộc, các
tôn giáo, từ miền ngược đến miền xuôi, từ thành thị đến nông thôn, đồng bào
trong nước và đồng bào sinh sống ở nước ngoài; mọi người đều đồng tâm
nhất trí, đồn kết chặt chẽ, hăng hái thực hiện đường lối, chính sách pháp luật
của Đảng và Nhà nước.
Là dân tộc đã từng trải qua những hy sinh to lớn trong chiến tranh và
những nỗ lực vượt bậc trong xây dựng, nhân dân Việt Nam có nguyện vọng
một cuộc sống độc lập tự do, hạnh phúc. Nhưng con đường này cịn nhiều
chơng gai, thử thách. Hiện nay nước ta vẫn cịn trong tình trạng nghèo nàn lạc
hậu, thu nhập thấp hơn so với các nước trên thế giới và trong khu vực, mất ổn
định như tham nhũng, buôn lậu, các tệ nạn xã hội khác làm cho tình hình càng
thêm phức tạp. Sinh thời, Bác Hồ thường nhắc nhở: “dẫu trăm lần khơng dân
cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”; hơn lúc nào hết chúng ta phải ra
sức xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân cả nhân dân trong nước
và ở nước ngồi trong đại gia đình dân tộc Việt Nam để thực hiện mục tiêu
cao cả: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Liên mịnh công nhân, nơng dân, trí thức nước ta là lực lượng chủ yếu
trong Mặt trận, làm nòng cốt tập hợp, động viên mạnh để tiến hành thắng lợi

sự nghiệp cơng nghiệp hố – hiện đại hố đất nước.
- Giai cấp cơng nhân Việt Nam là lực lượng tiên phong của dân tộc và
cũng đang đi đầu trong sự nghiệp đổi mới. Cơ cấu kinh tế nước ta đang có
chuyển dịch lớn, gắn với sự phát triển của đất nước. Trong nền kinh tế thị
trường nhiều thành phần công nhân không chỉ tham gia trong doanh nghiệp
Nhà nước mà cả trong doanh nghiệp tư nhân và nước ngồi. Cơng nghệ hiện
đại hợp tác mở rộng, cần nâng cao trình độ cơng nhân để họ dần làm chủ máy
móc trang thiết bị, hợp tác đa phương trên cơ sở pháp luật của Nhà nước,
quyền lợi hợp pháp của giới chủ, đồng thời bảo đảm lợi ích chính đáng của
người lao động.
25


×