Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

SKKN Giúp học sinh phát hiện vấn đề xã hội trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.74 KB, 16 trang )

GIÚP HỌC SINH PHÁT HIỆN VẤN ĐỀ XÃ HỘI TRONG TÁC PHẨM
CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA CỦA NGUYỄN MINH CHÂU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Việc đổi mới chương trình giáo khoa, đổi mới phương pháp dạy học nhằm
phát huy vai trò chủ động, tích cực, sáng tạo của học sinh trong học tập ngày
nay đang được áp dụng và triển khai rầm rộ. Trong đó, học sinh đóng vai trò
chủ động, tích cực khám phá và chiếm lĩnh tri thức. Có thể nói đó là vấn đề thiết
thực, tiến bộ, phù hợp với thời đại.
Qua một vài năm nay, cá nhân tôi nhận thấy học sinh đã thực sự trở thành
những chủ thể tích cực và sáng tạo, hiệu quả giáo dục đã được cải thiện và khởi
sắc. Ngành giáo dục đã cho ra đời những con người tài giỏi, năng nổ, thúc đẩy
và đóng góp lớn vào quá trình phát triển của đất nước. Đó là điều đáng mừng.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, dư luận xã hội và các phương tiện thông
tin đại chúng cũng đang báo động về tình trạng xuống cấp đạo đức của con
người : sống vô trách nhiệm, vô cảm, bạo lực học đường, bạo hành gia đình, lối
sống thực dụng, hưởng thụ , …Đó cũng là vấn đề mà những người làm công tác
giáo dục có tâm với nghề cần phải suy nghĩ, trăn trở …
Có thể nói qúa trình giáo dục nhân cách học sinh gồm có nhiều yếu tố. Trong
đó các môn học xã hội đóng vai trò chủ đạo. Tuy nhiên điều đáng nói là trong
những năm gần đây, hiện tượng học lệch ngày nay ở phần lớn học sinh đã dẫn
đến việc các em coi thường, học lệch, học qua loa đối phó, … đối với phần lớn
các môn xã hội, trong đó có môn Ngữ văn. Mặc dù đây là bộ môn khoa học có
những giá trị lớn lao về nhận thức, giáo dục, thẩm mĩ, góp phần quan trọng
trong việc hình thành và phát triển nhân cách của con người một cách tự nhiên
và hiệu quả nhất.
Là một giáo viên dạy văn, tôi tâm niệm, dạy văn trước hết là dạy làm người,
học văn trước hết là học làm người, tôi rất quan tâm và trăn trở về vấn đề nhân
cách học sinh. Vì vậy trong nhiều năm qua tôi rất chú trọng việc giáo dục nhân
cách học sinh trong quá trình dạy học Ngữ văn bằng cách thức giúp các em tích
cực, chủ động khám phá ra các vấn đề xã hội trong tác phẩm văn chương, từ
đó nhận thấy văn học rất gần gũi, gắn liền với đời sống và nhận thức được giá


trị giaó dục của văn học, hình thành, phát triển và hoàn thiện nhân cách. Ở đây,
1
tôi không lấn sân sang bộ môn gíao dục công dân, chỉ xin phát huy giá trị giáo
dục lớn lao của văn học nên chia sẻ với quý đồng nghiệp một kinh nghiệm nhỏ
qua đề tài : GIÚP HỌC SINH PHÁT HIỆN VẤN ĐỀ XÃ HỘI TRONG TÁC
PHẨM CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA CỦA NGUYỄN MINH CHÂU
II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận
Văn học là một bộ môn nghệ thuật. Tác phẩm văn học có nhiều giá trị.
Trước hết tác phẩm văn học là một tấm gương phản chiếu cuộc sống. Tác
phẩm văn học là kết quả của quá trình nhà văn khám phá, lí giải cuộc sống rồi
chuyển hóa những hiểu biết đó vào nội dung tác phẩm. Ở đó qua lăng kính nghệ
thuật nhà văn trực tiếp hay gián tiếp chuyển tải những vấn đề xã hội vào trong
tác phẩm văn chương. Cho nên văn học là cuộc sống, gần gũi và gắn bó với mỗi
người. Vì vậy đọc văn là hoạt động nhằm thỏa mãn nhu cầu nhận thức của con
người. Nó giúp chúng ta hiểu biết rõ hơn, sâu hơn về cuộc sống xung quanh và
thậm chí chính bản thân mình, từ đó tác động vào cuộc sống hiệu quả hơn.
Thông qua cuộc sống và hình ảnh của nhiều người khác nhau được trình bày
trong các tác phẩm cụ thể, văn học còn giúp cho mỗi người đọc hiểu được bản
chất của con người nói chung ( chẳng hạn như đâu là mục đích tồn tại của con
người ? Đâu là tư tưởng, tình cảm, khát vọng và sức mạnh của con người ? v.v
…) Đồng thời chính từ cuộc đời người khác, mỗi người đọc có thể liện hệ, tự so
sánh, đối chiếu để hiểu bản thân mình hơn với tư cách là một con người cá
nhân.
Trong khi đó, nhà văn khi phản ánh hiện thực cuộc sống thông qua tác
phẩm văn học, dù trực tiếp hay gián tiếp bao giờ cũng bộc lộ một thái độ tư
tưởng, tình cảm, một sự nhận xét, đánh giá của mình, … như vậy, tất cả đều sẽ
tác động đến người đọc. Bởi con người ta nhận thức không chỉ để nhận thức mà
nhận thức là để hành động. Con người không chỉ có nhu cầu hiểu biết mà còn có
nhu cầu hướng thiện, khao khát một cuộc sống tốt lành. Chính vì vậy văn học

có khả năng đem đến cho người đọc những bài học quý giá về lẽ sống để họ tự
rèn luyện bản thân mình ngày một tốt đẹp hơn.Về tư tưởng, văn học hình thành
2
trong người đọc một lí tưởng tiến bộ, giúp cho học có thái độ và quan điểm
đúng đắn về cuộc sống. Về tình cảm, văn học giúp con người trở nên lành
mạnh, trong sáng, cao thượng hơn. Về đạo đức, văn học nâng đỡ cho nhân cách
của con người phát triển, giúp cho học biết phân biệt phải – trái, tốt - xấu, đúng
- sai, có quan hệ tốt đẹp và biết gắn bó cuộc sống của cá nhân mình với cuộc
sống của mọi người. Tóm lại là văn học có giá trị giáo dục lớn lao, nó có thể
thay đổi hoặc nâng cao tư tưởng, tình cảm con người theo chiều hướng tích cực,
tốt đẹp, tiến bộ, đồng thời làm cho con người ngày càng hoàn thiện về đạo đức.
Tuy nhiên đặc trưng giáo dục của văn học hoàn toàn khác với những
nguyên tác áp đặt của pháp luật hay những lời giáo huấn trực tiết trong những
bài giảng về đạo đức.,bởi văn học giáo dục con người bằng con đường đi từ cảm
xúc đến nhận thức, bằng cái thật, cái đúng, cái đẹp của những hình tượng sinh
động, đầy sức thuyết phục. Có lẽ vì thế tác dụng giáo dục của văn học không
phải ngay lập tức mà dần dần thấm sâu nhưng rất lâu bền, nó gợi ra những cảm
nghĩ sâu xa về cuộc đời và con người, nó gián tiếp đưa ra những bài học những
đề nghị về cách sống. Với những khả năng ấy, văn học không những góp phần
hoàn thiện nhân cách con người mà còn hướng họ tới những hành động cụ thể,
thiết thực, vì một cuộc đời ngày càng tốt đẹp hơn. Mặt khác văn học còn có khả
năng giúp con người biết cảm nhận và rung động một cách tinh tế, sâu sắc
trước mọi vẻ đẹp của cuộc đời, hướng họ đến chân, thiện , mĩ.
Dựa vào những cơ sở những giá trị của văn học, đặc biệt là giá trị giáo dục,
chúng tôi đề xuất cách thức giúp học sinh tích cực, chủ động phát hiện vấn đề
xã hội trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Nguyễn Minh Châu
nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn Ngữ văn, nhất là hiệu quả giáo dục
nhân cách học sinh thông qua tác phẩm văn học cụ thể.
2. Thực trạng của việc dạy học giúp học sinh tích cực, chủ động phát hiện
vấn đề xã hội trong tác phẩm văn học.


a. cách thức khảo sát thực trạng:
Đi và thực hiện đề tài, tôi đã tiến hành khảo sát hực trạng của việc dạy học
giúp học sinh phát hiện vấn đề xã hội trong tác phẩm văn chương ở trung học
phổ thông bằng nhiều cách như: Dự giờ thăm lớp, phỏng vấn giáo viên, thăm dò
ý kiến giáo viên và học sinh, dùng phiếu trả lời trắc nghiệm…
b. Những biểu hiện cụ thể của thực trạng:
3
* Về phía giáo viên:
Đa số giáo viên đều có ý thức trong việc đổi mới phương pháp dạy học và
vận dụng nó trong giờ dạy học môn Ngữ văn nói chung. Về việc vận dụng cách
thức giúp học sinh phát hiện vấn đề xã hội trong giờ học tác phẩm văn chương,
phần đông giáo viên nhận thức được rằng đây là một trong những yêu cầu quan
trọng phát huy được tính tích cực chủ động của học sinh góp phần đáng kể vào
việc nâng cao chất lượng dạy và học văn.
Tuy nhiên, trong thực tế, nhiều giáo viên còn nặng về diễn giảng, đôi lúc say
sưa “độc tấu” hoặc hỏi rồi tự trả lời khiến bài học trở nên đơn điệu, chưa tạo
được niềm say mê, hứng thú và hấp dẫn học sinh trong giờ học.
* Về phía học sinh:
Học sinh hầu như chỉ tái hiện kiến thức một cách thụ động, rất ít sáng tao
trong các tình huống cụ thể của bài học. Vì thế, trong giờ đọc- hiểu phần lớn
hoạt động của học sinh chỉ dừng lại ở mức độ nghe giảng ghi chép. Các em ngại
phát biểu xây dựng bài, khi được giá viên mời trả lời thường lúng túng. Giờ văn
vì thế mà trở nên nặng nề, mệt mỏi dẫn đến kết qủa học tập chưa cao.
* Kết luận:
Từ việc tìm hiểu thực trạng dạy học Ngữ văn ở trường trung học phổ thông
nói chung và thực trạng của việc vận dụng cách thức giúp học sinh tích cực chủ
động phát hiện vấn đề xã hội trong tác phẩm văn chương nói riêng, tôi xác định
nhiệm vụ trọng tâm của đề tài là: Làm thế nào để tổ chức giờ dạy đọc- hiểu có
hiệu quả cao hơn, khiến học sinh hứng thú với bài học hơn, biết cách liên hệ với

các vấn đề trong thực tế xã hội từ đó nâng cao chất lượng dạy học bộ môn Ngữ
văn.
3. Giải pháp và tổ chức thực hiện

3.1 Giải pháp
* Đối với giáo viên:
- Hướng dẫn học sinh cách thức làm việc.
- Xác định những vấn đề xã hội trọng tâm được phán ánh trong tác phẩm, hệ
thống câu hỏi, dự kiến nội dung trả lời của học sinh để có thể chủ động xử lí
tình huống.
- Dự kiến thời gian thực hiện.
4
- Cách thức cho điểm, khen ngợi, khích lệ, động viên học sinh tham gia phát
biểu, thảo luận.
* Đối với học sinh:
- Nắm vững cách thức thực hiện.
- Tiếp nhận tác phẩm văn học ( Đọc kĩ văn bản, nắm được về giá trị nội dung
nghệ thuật của tác phẩm,… )
- Phát hiện những vấn đề xã hội trọng tâm được phản ánh trong tác phẩm.
- Bày tỏ ý kiến cá nhân về những vấn đề đó dưới dạng đề cương.
- Chuẩn bị phát biểu tranh luận trước lớp.
3.2. Cách thức tiến hành
Bước một: Gíao viên cho học sinh nêu vấn đề xã hội mà các em đã phát hiện
trong quá trình chuẩn bị bài ở nhà và tìm hiểu tác phẩm trên lớp. Nếu học sinh
chưa nêu được những vấn đề xã hội trọng tâm theo yêu cầu, giáo viên có thể đặt
ra hệ thống câu hỏi định hướng, gợi mở vấn đề.
Bước hai: Sau khi học sinh đã nêu ra được những vấn đề xã hội trọng tâm
được phản ánh trong tác phẩm văn học, giáo viên tổ chức cho học sinh thảo luận
và trình bày ý kiến của bản thân về vấn đề đó trước lớp.
Bước ba: Giaó viên nhận xét, đánh giá, cho điểm phần trình bày của học

sinh.
* Ứng dụng cụ thể trong bài học Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh
Châu
Bước 1: Theo phân phối chương trình, tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa được
học trong 3 tiết ( tiết 69,70,71 ban cơ bản). Sau khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu
văn bản trên lớp(2 tiết: 69, 70) giáo viên dành 1 tiết cuối ( tiết 71) yêu cầu học
sinh nêu vấn đề xã hội được đặt ra trong tác phẩm mà các em đã phát hiện ra.
Gíao viên cũng có thể định hướng bằng cách kết hợp nhiều hình thức nêu vấn đề
theo từng nhân vật. Cụ thể như sau:

5
a: Nhân vật người đàn bà hàng chài
- Giáo viên nêu vấn đề theo kiểu tái hiện kết hợp với suy lí để học sinh
nhận biết đặc điểm ngoại hình và phát hiện về số phận và tính cách qua
ngoại hình nhân vật:
+ Ngoại hình nhân vật người đàn bà góp phần hé mở số phận như thế nào?
- Giáo viên tiếp tục nêu vấn đề theo kiểu giả định hoặc cho học sinh hóa
thân vào nhân vật để hiểu nhân vật hơn:
+ Giả sử là người đàn bà hàng chài bị chồng đánh đập như thế, anh
( chị) sẽ phản ứng như thế nào?
+ Giả sử được trực tiếp gặp người đàn bà ở tòa án huyện cùng với Đẩu và
Phùng, anh ( chị) hãy phát biểu cảm nghĩ của mình về câu chuyện của người
đàn bà?
- Giáo viên có thể nêu vấn đề theo kiểu khái quát:
+ Thông điệp nhà văn muốn gửi đến độc giả qua nhân vât người đàn bà là
gì?
Như vậy, sự thay đổi linh hoạt các cách nêu vấn đề như thế giúp cho giờ
học sinh động, học sinh thật sự bị “cuốn” vào bài học.

b: Nhân vật người đàn ông

- Giáo viên có thể nêu vấn đề theo kiểu trao đổi và tổ chức cho học sinh
đàm thoại với nhau để nhận thức vấn đề sâu sắc hơn. Hình thức nêu vấn đề như
thế này tạo không khí dân chủ, thân thiện trong lớp học, giúp học sinh tư duy
độc lập từ đó thúc đẩy nhanh quá trình nhận thức.
+ Tại sao người đàn ông không dùng cách khác để giải quyết bi kịch của
mình mà trút nỗi bực dọc vào việc đánh vợ rất tàn nhẫn?
+ Tác giả muốn gửi gắm thông điệp gì qua nhân vật này?

c: Nhân vật Bé Phác
- Giáo viên cho học sinh nêu cảm nghĩ về hành vi của Phác đối với bố?
- Cho học sinh hóa thân vào nhân vật để nêu cảm xúc và suy nghĩ của Phác
khi thấy mẹ bị bố hành hạ, sau hành động đánh lại bố và lúc lau nước mắt cho
mẹ?
- Cho học sinh tưởng tượng cách ứng xử khác của Phác?
- Suy nghĩ về nạn bạo hành gia đình?
- Giáo viên có thể tổ chức cho học sinh đóng vai để nói lên tiếng nói tự bên
6
trong của nhân vật?
- Nỗi lo âu đầy trách nhiệm của nhà văn qua nhân vật bé Phác là gì?

d: Nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng
- Giáo viên cho học sinh hóa thân vào nhân vật Phùng để nói lên cảm xúc
khi chứng kiến cảnh bạo hành của gia đình hàng chài
- Qua nhân vật Phùng tác muốn người đọc nhận thức gì về cách nhìn cuộc
sống và mối quan hệ giữa nghệ thuật với cuộc đời?

e: Chánh án Đẩu
- Giáo viên nêu vấn đề kiểu phỏng đoán, kết quả phỏng đoán được kiểm
nghiệm theo hệ thống hỏi- đáp
+ Anh (chị) hãy phỏng đoán chánh án Đẩu đang suy nghĩ gì và đã “vỡ ra’

điều gì khi nghe xong câu chuyện của người đàn bà?
+ Bài học rút ra từ nhân vật Đẩu?

Bước hai: Sau khi học sinh phát hiện ra vấn đề xã hội rút ra từ tác phẩm,
giáo viên tổ chức cho học sinh thảo luận nhanh và phát biểu ý kiến về vấn đề đó
trước lớp .
Bước ba: Giáo viên nhận xét, đánh giá ý kiến phát biểu của học sinh. Và
có thể nhấn mạnh một số ý sau:

Nhân vật người đàn bà hàng chài trong tác phẩm gây ấn tượng về một
cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ, cay cực, nạn nhân của sự bạo hành từ người chồng
vũ phu nhưng bên cạnh đó chị còn hiện lên với vẻ đẹp sâu xa.
Ngoại hình: trạc ngoài bốn mươi, thân hình thô kệch, mặt rỗ lúc nào cũng
mệt mỏi, tái ngắt.
Dưới cái vẻ bề ngoài thô kệch, thậm chí xấu xí lại là một sức sống bền bỉ,
một tâm hồn đầy tình thương và giàu đức hy sinh: khi bị chồng đánh không
chống trả, không tìm cách chạy trốn, nhất quyết gắn bó với người đàn ông vũ
phu dù bị “ ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”.
Thấp thoáng trong người đàn bà ấy là bóng dáng của biết bao phụ nữ
Việt Nam nhân hậu, bao dung, vị tha, giàu đức hy sinh.

Thông qua câu chuyện cuộc đời của người đàn bà, nhà văn muốn gửi
7
đến thông điêp: Không thể dễ dãi, đơn giản trong việc nhìn nhận mọi sự việc,
hiện tượng cuộc sống. Đây chính là hình tượng nhân vật ám ảnh nhất trong các
nhân vật của thiên truyện.
Người đàn ông xuất hiện trong vẻ độc dữ gây ác cảm với mọi người
Ngoại hình: “ Tấm lưng rộng và cong như lưng một chiếc thuyền. mái
tóc tổ quạ. Lão đi chân chữ bát, bước những bước chắc chắn, hàng lông mày
cháy nắng rủ xuống hai con mắt đầy vẻ độc dữ lúc nào cũng nhìn dán vào tấm

lưng áo bạc phếch và rách dưới, nửa thân dưới ướt sũng của người đàn bà”.
Hành vi: “Lão đàn ông lập tức trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút trong
người ra một chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa, có vẻ như những điều
phải nói với nhau họ đã nói hết,chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như lửa
cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà , lão
vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất
xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng đau đớn…”
Có lẽ cuộc sống đói nghèo, vất vả, quanh quẩn bao nhiêu lo toan đã biến
“anh con trai cục tính nhưng hiền lành” xưa trở thành một người chồng vũ phu,
một lão đàn ông độc ác. Cứ khi nào thấy khổ là lão đánh vợ, đánh như để giải
tỏa uất ức, để trút sạch nỗi tức tối, buồn phiền. Trong đời vẫn có những kẻ như
thế, nói như Nam Cao chỉ để thỏa mãn lòng ích kỉ, chúng tự cho mình cái quyền
được hành hạ người khác để giải tỏa những bực dọc trong lòng. Người đàn ông
này vừa đáng bị lên án bởi sự độc ác, thói vũ phu, tính ích kỉ nhưng ở anh ta có
chỗ để cảm thông, chia sẻ bởi xét đến cùng anh ta cũng chỉ là một nạn nhân của
cuộc sống khắc nghiệt. Trong sự bủa vây của nghèo đói, muốn đưa gia đình
thoát khỏi bi kịch nhưng điều kiện làm ăn sinh sống không thuận lợi, bản thân
không đủ năng lực người đàn ông đã không trộm cắp, cờ bạc…mà chỉ chọn
cách hành hạ vợ. Phải chăng đó là dấu hiệu của trách nhiệm với cuộc đời? Và,
phải chăng khuất lấp bên trong vẻ độc dữ của người đàn ông là một đốm sáng
cưa nhân cách? Từ đó tác giả gửi đến một thông điệp: không thể nhìn người,
nhìn đời một phía, phải tìm hiểu những nguyên nhân sâu xa dẫn đến hành vi
con người trước khi kết luận về tính cách hay phán xét họ; phải làm sao để
nâng cao phần thiện- cái phần người trong những kẻ thô bạo ấy.
Nhân vật người đàn ông hàng chài gợi liên tưởng tới các nhân vất của
Nam Cao như chí Phèo( Chí Phèo), Hộ( Đời thừa)…Các nhân vật này đều có
điểm chung: vốn là những con người hiền lành, lương thiện nhưng do những xô
8
đẩy dữ dội của hoàn cảnh mà thay đổi tính cách, trở nên dữ dằn, tàn nhẫn. Từ sự
tha hóa của người đàn ông hàng chài qua điểm nhìn của một người lính đã từng

chiến đấu bảo vệ mảnh đất này, Nguyễn Minh Châu muốn nói đến một cuộc
chiến mới không kém phần khó khăn gian khổ so với hai cuộc kháng chiến
chống kẻ thù xâm lược đã qua: Cuộc chiến đấu bảo vệ nhân tính, thiên lương và
vẻ đẹp tâm hồn con người hơn thế nữa nhà văn luôn thể hiện niềm tin ở con
người, luôn tìm kiếm để khẳng định các giá trị nhân bản bền trong việc hướng
con người đến tới sự thức tỉnh, sự nhận thức để hoàn thiện nhân cách.
Qua chi tiết Phùng chứng kiến gã đàn ông đánh vợ bằng chiếc thắt lưng
của lính ngụy, ở nơi có chiếc xe tăng hỏng của Mĩ Ngụy có lẽ Nguyễn Minh
Châu muốn kí thác một điều: không phải hễ cứ đánh đuổi được ngoại xâm, giải
phóng được dân tộc là có thể giải phóng được con người, lại càng không thể
đem vinh quang của quá khứ mà bào chữa cho thực tại còn đầy khó khăn. Tàn
dư của xã hội cũ vẫn còn đó trong nạn bạo hành gia đình. Kết thúc tác phẩm là
sự bỏ lửng, nó nhấn sâu hơn bức thông điệp khắc khoải, đau đáu về số phận
con
người sau chiến tranh. Rằng: cuộc chiến chống đói nghèo, lạc hậu còn diễn ra
dai dẳng. Nó cũng khốc liệt chắng khác gì cuộc chiến chống ngoại xâm vừa
qua.
Bé Phác
Giáo viên tổ chức cho học sinh đóng vai phỏng vấn (PV) và người trả lời
phỏng vấn (TLPV) để rút ra vấn đề xã hội qua nhân vật này.
+ PV: Vì sao Phác giật chiếc thắt lưng quật lại bố rồi cầm dao ngăn bố?
TLPV: Vì bố hành hạ mẹ, tôi muốn bảo vệ mẹ.
+ PV: nhưng người đó lại là bố, Phác không sợ mất bố sao?
TLPV: Ông ấy quá độc ác, người như thế không phải là bố tôi.
+ PV: Đành là thế. Phác không còn cách hành xử nào khác sao?
TLPV: Tôi không biết.
+ PV: Phác có cảm xúc gì và suy nghĩ như thế nào sau hành động đánh lại bố
và lúc lau nước mắt cho mẹ?
TLPV: Tôi rất thương mẹ, tôi lau những giọt nước mắt trên mặt mẹ như
muốn xóa đi những đau khổ bất hạnh của mẹ. Tôi tuyên bố nếu tôi còn có mặt ở

dưới biển này thì mẹ tôi không bị đánh… Tôi không hiểu nổi tại sao bố độc ác
còn mẹ lại chịu đựng như thê. Tôi rất đau khổ khi sống trong gia đình không có
9
tình thương.
Sau cuộc phỏng vấn, học sinh nhận thức được:
Phác đáng trách ở hành vi đối với bố, đáng mến ở tình thương mẹ dào
dạt, đáng thương xót bởi phải chịu cảnh bạo hành gia đình.
Đề cập tình trạng bạo lực trong gia đình cậu bé Phác, nhà văn đã dấy lên
trong lòng người đọc nỗi lo âu đầy trách nhiệm về tình trạng phụ nữ và trẻ em
bị ngược đãi, về nguy cỏ trẻ em sớm nhiễm thói vũ phu, thô bạo do bị tổn
thương tâm hồn, đánh mất niềm tin vào cuộc sống đồng thời kêu gọi mọi người
hãy bảo vệ trẻ em, chống nạn bạo hành gia đình và trách nhiệm của cha mẹ đối
với con cái. Cha mẹ sinh ra con cái phải có trách nhiệm đối với chúng – cho
chúng một không khí gia đình hòa thuận hạnh phúc, nuôi dạy chúng nên người,
không vì hạnh phúc, sự ích kỉ cá nhân mà làm gia đình tan vỡ, làm tổn hại tâm
hồn và tương lai của con trẻ. Nhà văn cũng chỉ ra một nguy cơ đáng sợ: Nếu
không giải phóng con người khỏi đói nghèo, tăm tối thì không thể tiêu diệt được
các ác.
Nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng
Qua nhân vật Phùng, tác giả muốn người đọc nhận thức rằng: cuộc đời
không đơn giản, xuôi chiều mà chứa đựng nhiều nghịch lí. Cuộc sống luôn tồn
tại những mặt đối lập, những mâu thuẫn: xấu- đẹp, thiện- ác…khi nhìn nhận,
đánh giá con người và sự vật, hiện tượng trong cuộc sống không nên nhầm lẫn
hiện tượng với bản chất, hình thức bên ngoài với nội dung bên trong; đừng vội
đánh giá con người, sự vật, hiện tượng khi chưa thấu thị.
Mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống: Nghệ thuật không thể chỉ dừng
lại ở vẻ đẹp bề ngoài mà còn phải thấu thị tới bề sâu, bề sâu của cuộc đời
không hề đơn giản mà tâm điểm chính là con người với số phận đa đoan, với
,mọi nhọc nhằn và cả khổ đau, không hiếm những ngang trái bi kịch. Hành trình
của gia đình kì lạ kia đã phá vỡ những quan niệm giản đơn về tình yêu và hạnh

phúc, về lòng nhân ái và sự khoan dung.
Chánh án Đẩu: Nhận thức vấn đề xã hội qua nhân vật Đẩu
Đẩu có lòng tốt, sẵn sàng bảo vệ công lí nhưng anh chưa thực sự đi sâu vào
đời sống nhân dân. Lòng tốt đáng quý nhưng chưa đủ. Luật pháp là cần thiết
nhưng cần phải đi sâu vào đời sống. Cả lòng tốt và luật pháp đều phải được đặt
vào những hoàn cảnh cụ thể, không thể áp dụng cho bất kì đối tượng nào. Con
10
người cần phải vượt lên, từ bỏ cái nhìn và lối nghĩ đơn giản để nhìn thấu cái
phức tạp đa đoan của hiện thực cuộc đời còn không ít những nghịch lí và từ bỏ
ảo tưởng về sự thay đổi dễ dãi cuộc sống con người sau chiến tranh.
4. Kiểm nghiệm
Tôi kiểm nghiệm hiệu quả của việc triển khai sáng kiến kinh nghiệm bằng
thực nghiệm sư phạm và đánh giá kết quả thực nghiệm.
a. Mục đích của thực nghiệm:
Mục đích của thực nghiệm là kiểm tra tính khả thi của vấn đề nêu trong sáng
kiến kinh nghiệm qua đó đánh giá khả năng ứng dụng cách thức giúp học sinh
tích cực chủ động phát hiện vấn đề xã hội trong tác phẩm văn học vào hoạt động
dạy học môn ngữ văn, trên cơ sở đó đối chiếu kết quả giữa lớp thực nghiệm và
lớp đối chứng để xác định tính đúng đắn và mức độ thành công của đề tài.
b. Đối tượng:
Tôi chọn học sinh của 4 lớp khối 12 ban cơ bản trường THPT Triệu Sơn IV,
2 lớp dùng dạy thực nghiệm, 2 lớp dùng đối chứng, trình độ học sinh tương đối
đồng đều, sĩ số bằng nhau, điều kiện học tập bình thường.
c. Tổ chức dạy học thực nghiệm 1 tiết ( tiết 71 theo PPCT ban cơ bản)
- Tôi tiến hành dạy thực nghiệm theo hướng đã trình bày như trên, tiến trình
bình thường, đảm bảo tính khách quan
- Kiểm tra đánh giá chất lượng học sinh sau giờ dạy: Cả hai lớp thực nghiệm
và đối chứng có cùng một đề kiểm tra và đáp án. Tôi trực tiếp chấm bài kiểm tra
và xử lí bằng phương pháp toán học.
d. Đánh giá kết quả thực nghiệm:

- Căn cứ vào không khí giờ học ( sôi nổi chủ động hay im lặng thụ động)
- Căn cứ vào phản ứng của học sinh trước tình huống có vấn đề ( học sinh tỏ
ra phấn khởi hào hứng hay thờ ơ)
- Căn cứ vào dung lượng kiến thức được chuyển tải trong tiết học
- Căn cứ vào mức độ tư duy của hoc sinh ( hăng hái tham gia trao đổi thảo
luận hay chậm chạp, không linh hoạt)
e. kết quả thực nghiệm
11
Bảng đánh giá tổng hợp kết quả bài kiểm tra của học sinh lớp đối chứng
(ĐC) và lớp thực nghiệm (TN)
Đối
tượng
Điểm bài kiểm tra
Điểm 1-2 Điểm 3-4 Điểm 5-6 Điểm 7-8 Điểm 9-10
SL % SL % SL % SL % SL %
TN
92 HS
00 00 10 12.3 42 47.4 32 35.1 8 5.2
ĐC
92 HS
5 5.3 21 22.8 51 54.8 13 14.5 2 2.6
* Bảng điểm cho thấy:
- Ở lớp thực nghiệm:
+ Tỉ lệ bài đạt điểm khá, giỏi cao hơn so với lớp đối chứng ( TN: 40.3% >
ĐC: 17.1%).
+ Số học sinh trung bình và yếu giảm xuống, đặc biệt tỉ lệ học sinh yếu giảm
đáng kể ( TN: 12,3% < ĐC: 22.8%).
+ Đa phần đạt bài trung bình trở lên. Không có điểm 0,1,2
* Tóm lại: Qua giờ dạy thực nghiệm tôi nhận thấy rằng việc vận dụng cách
thức giúp học sinh tích cực chủ động phát hiện vấn đề xã hội trong tác phẩm

Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu nói riêng và giờ đọc- hiểu ở nhà
trường trung học phổ thông nói chung là hoàn toàn có thể thực hiện được. Điểm
trung bình cộng của lớp thực nghiệm cao hơn điểm trung bình cộng của lớp đối
chứng. Điều này cho phép ta kết luận: Những kết quả của cách thức giúp học
sinh tích cực, chủ động phát hiện vấn đề xã hội trong tác phẩm Chiếc thuyền
ngoài xa của Nguyễn Minh Châu theo chiều hướng đề xuất của đề tài đã góp
phần tạo tâm thế và hứng thú cho học sinh trong tiết học, giúp không khí học
tập sinh động. Đây cũng là phương thức đối thoại giữa học sinh với nhà văn,
giữa học sinh với giáo viên và học sinh với học sinh, rèn luyện kĩ năng diễn đạt
và tranh luận… giúp học sinh thấy tác phẩm văn học không tách rời hiện thực
cuộc sống mà rất gần gũi, gắn bó với cuộc sống từ đó giúp các em rèn luyện kĩ
năng làm văn nghị luận xã hội. Điều này thực sự góp phần nâng cao chất lượng
học tập môn Ngữ văn của học sinh.
12
III. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
1. Để có thể tổ chức hiệu quả những tiết dạy học tác phẩm văn chương theo
cách thức giúp học sinh chủ động tích cực phát hiện những vấn đề xã hội trong
tác phẩm văn học, giáo viên cần lưu ý một số vấn đề sau :
Mỗi tác phẩm văn chương nghệ thuật chứa đựng những hình tượng nghệ
thuật đa nghĩa, phản ánh nhiều vấn đề xã hội khác nhau. Vì vậy trước hành động
tích cực tiếp nhận của người đọc, nó hiện lên như một cấu trúc vừa ổn định vừa
biến đổi của những hình ảnh mang ý nghĩa thẩm mĩ. Nội dung ý nghĩa của tác
phẩm là một hệ thống mở đối với những cách lí giải khác nhau. Cho nên mỗi sự
phát hiện, cắt nghĩa, lí giải đúng đắn, hợp lí về ý nghĩa tác phẩm đều có khả
năng mang lại cho học sinh những tác động ảnh hưởng nhất định, tạo nên hệ quả
đa chiều. Vì vậy trong giờ đọc văn, giáo viên cần tránh giới hạn, gò ép vào một
kết quả diễn giảng duy nhất, vào quan điểm, ý đồ của nhà văn mà cần gợi ra
cho học sinh nhiều chiều hướng lí giải khác nhau về ý nghĩa tác phẩm. Đặc biệt
cần tránh tình trạng chỉ chú trọng khai thác khía cạnh xã hội mà không có sự
đầu tư thỏa đáng cho việc tiếp nhận những giá trị khác của tác phẩm văn học.

Ngoài ra, việc tiếp nhận văn học của học sinh bao giờ cũng vừa mang tính cá
nhân gắn liền với cảm xúc, vốn sống, thị hiếu, trình độ, tâm lí riêng của từng cá
thể lại vừa mang tính tập thể xã hội, thể hiện sự gặp gỡ, quan điểm chung, tiếng
nói hòa đồng của tập thể lớp. Cho nên giáo viên cần phải tác động và xử lí
thông qua các định hướng sư phạm thích hợp, tinh tế nhằm cân bằng ở chừng
mực nhất định, tạo ra được sự nhất trí thỏa đáng trên tinh thần chung của lớp
học, đồng thời nhấn mạnh và phát huy tính tích cực sáng tạo, năng động chủ
quan của học sinh. Muốn vậy, giáo viên cần có những định hướng cho từng đối
tượng học sinh, phải nhạy bén nắm bắt, kích thích và phát huy tính sáng tạo của
các em, khơi gợi các hoạt động bên trong của mỗi học sinh để các em tiếp nhận
tác phẩm, tự tin và hào hứng phát biểu ý kiến, bộc lộ cái riêng của mình.
Trong quá trình dạy học, gíao viên cần vận dụng nhiều phương pháp, nhất là
phương pháp đối thoại, thảo luận nhóm, … tạo không khí học tập nhẹ nhàng,
linh hoạt, thân thiện nhưng vẫn bảo đảm hiệu quả sư phạm, phát huy được tối đa
tính chủ động, sáng tạo của học sinh trong học tập. Mặt khác, việc giáo viên
nhận xét, đánh giá ý kiến phát biểu của học sinh cũng hết sức quan trọng. Nó là
một trong những yếu tố tạo hứng thú học tập cho học sinh, tác động trực tiếp
13
đến hiệu quả giáo dục. Vì vậy giáo viên cần nắm vững kĩ năng sư phạm, nhạy
bén, xử lí tình huống hợp lí, có sự định hướng, nhận xét và đánh giá thỏa đáng,
điều chỉnh, uốn nắn những quan niệm, cách nghĩ, cách hiểu lệch lạc, sai quỹ
đạo chung, đồng thời, động viên khen ngợi, thưởng điểm cho những học sinh
đúng lúc sẽ giúp các em hứng thú, chủ động, tích cực hơn trong việc học văn.

2. Qua viêc thực hiện đề tài, tôi mạnh dạn đề xuất một vài ý kiến sau:
Thống nhất quan điểm giáo dục tích cực là dạy học phát huy tính chủ động,
sáng tạo của chủ thể học tập nhưng không nên tuyệt đối hóa vai trò của học sinh
mà coi nhẹ văn bản văn học và vai trò của giáo viên. Mô hình dạy học tối ưu là
mô hình tương tác nhiều chiều với ba điểm nhìn: Nhà văn, giáo viên và học sinh
Không thể biệt lập hóa, chuyên biệt hóa phương pháp của các bộ môn vốn

có nhuwnngx điểm giao thoa. Ví dụ: Có những điểm gần gũi giữa dạy học nêu
vấn đề của môn Ngữ văn với thảo luận nhóm hay thuyết trình trong giờ học các
bộ môn, khác chăng là ở tư liệu học tập.
Không có phương pháp, biện pháp dạy học nào là tối ưu, điều quan trọng là
trong quá trình tổ chức soạn giảng giáo viên phải biết lựa chọn kết hợp sao cho
các phương pháp, biện pháp phát huy được những thế mạnh của nó để đem lại
hiệu quả cao trong dạy học.
Cách thức dạy học giúp học sinh tích cực, chủ động phát hiện vấn đề xã hội
trong tác phẩm văn học cần được quan niệm một cách “mềm dẻo” hơn, sử dụng
một cách linh hoạt hơn để nó thực sự “là yếu tố cấu thành, là động lực cho tiến
trình giảng dạy môn Ngữ văn.
3. Tất cả những đề xuất của đề tài xuất phát từ những yêu cầu cơ bản của việc
đổi mới phương pháp dạy học văn trong nhà trường trung học phổ thông hiện
nay, là kết quả của sự tìm tòi học hỏi với quan niệm giáo viên là động lực của
quá trình đổi mới phương pháp. Tuy nhiên, những vấn đề mà tôi đặt ra trong
sáng kiến kinh nghiệm khó có thể tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, tôi rất
mong nhận được sự đóng góp ý kiến của quý thầy cô và các bạn đồng nghiệp để
đề tài được phát triển và thực nghiệm trên diện rộng, nâng cao hơn nữa giá trị
thực tiễn.
Thanh Hóa, ngày tháng 5 năm 2013
14
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Tôi xin cam đoan đây là SKKN
của mình viết, không sao chép
nội dung của người khác
Thiều Thị Thanh Lê
MỤC LỤC
I. Lí do chọn đề tài ……………………………………………… Trang 01
II. Nội dung đề tài ………… ………………………………… Trang 02
1. Cơ sở lí luận …………………………………………………… Trang 02
2. Thực trạng của việc dạy học giúp học sinh tích cực,

chủ động phát hiện vấn đề xã hội trong tác phẩm văn học Trang 03…
15
3. Giải pháp và tổ chức thực hiện ……………………………Trang 04
4. Kiểm nghiệm …………………………………………… Trang 11
III. Kết luận và đề xuất Trang 13
16

×