Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

tiểu luận Biểu hiện stress trong học tập của học sinh lớp 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (225.41 KB, 30 trang )

MỤC LỤC
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong thời đại ngày nay, thời đại mà nhân loại đang tiến vào nền văn
minh trí tuệ, thời đại bùng nổ thông tin, thời đại tiến bộ và phát triển như vũ
bão của khoa học và công nghệ, kiến thức gia tăng về cả số lượng và chất
lượng, cả về tốc độ và phạm vi lĩnh vực. Vì vậy, yêu cầu của xã hội đối với
con người cũng rất cao. Điều đó đã làm cho mỗi cá nhân gặp nhiều áp lực, là
nguyên nhân khiến nhiều người rơi vào trạng thái stress. “Cuộc sống không
có stress sẽ chẳng có thách thức gì, chẳng có trở ngại nào phải vượt qua,
chẳng có địa hạt mới nào để chiếm lĩnh, chẳng có lý do gì để trau dồi trí tuệ
hoặc nâng cao năng lực. Nếu không có stress thì có thể dẫn tới cái chết của
con người, nó là chất muối làm cho cuộc đời thêm thi vị.” Nhưng, tress có
thể làm phá vỡ sự cân bằng trong cuộc sống, làm nảy sinh nhiều căn bệnh
tâm sinh lý nguy hiểm làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống của con
người.
Trong nhiều năm qua, việc tìm hiểu về stress đã thu hút được sự quan
tâm của nhiều nhà nghiên cứu và cũng đã đạt được nhiều thành tựu cả về mặt
lí luận và thực tiễn. Tuy nhiên, nghiên cứu về stress ở học sinh lớp 12 cho
đến nay vẫn chưa được chú trọng nhiều. Do áp lực của học tập, của hai kì thi
tốt nghiệp THPT và đại học nên nhiều học sinh lớp 12 đang ở trong trạng
thái stress ở mức độ khá cao, trạng thái này ảnh hưởng xấu đến kết quả học
tập cũng như sức khoẻ của các em.
Việc tìm hiểu biểu hiện stress trong học tập của học sinh lớp 12 nhằm
đề xuất các biện pháp giúp học sinh tránh được những ảnh hưởng xấu của
stress. Từ đó, giúp các em có trạng thái tâm lý bình thường, ổn định để học
tập tốt hơn, thực hiện được ước mơ của mình.
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Biểu hiện stress trong học tập của học sinh lớp 12 trường THPT Đông
Hà – Quảng Trị”


2
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu biểu hiện stress trong học tập nhằm đề xuất các
biện pháp giúp học sinh lớp 12 trường THPT Đông Hà – Quảng Trị giảm bớt
sự căng thẳng, lo âu.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xác lập cơ sở lí luận của đề tài nghiên cứu
- Khảo sát, đánh giá mức độ và những biểu hiện stress trong học tập
của học sinh lớp 12 trường THPT Đông Hà – Quảng Trị
- Đề xuất các biện pháp giúp học sinh giảm bớt sự căng thẳng
4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Biểu hiện stress trong học tập của học sinh lớp 12 trường THPT Đông
Hà – Quảng Trị
4.2. Khách thể nghiên cứu
Học sinh lớp 12 trường THPT Đông Hà – Quảng Trị
5. Phạm vi nghiên cứu
5.1. Phạm vi nội dung nghiên cứu
Stress là một vấn đề rộng, khi nghiên cứu đề tài này chúng tôi chỉ tập
trung vào các nội dung cơ bản sau:
- Khảo sát, đánh giá mức độ, biểu hiện stress trong học tập của học
sinh
- Bước đầu tìm hiểu những nguyên nhân cơ bản, trên cơ sở đó đề xuất
các biện pháp làm giảm trạng thái stress trong học tập của học sinh lớp 12
trường THPT Đông Hà – Quảng Trị
5.2. Phạm vi khách thể nghiên cứu
Nghiên cứu trên 92 học sinh hai lớp chọn: 12A1, 12B1 trường THPT
Đông Hà - Quảng Trị
6. Giả thuyết khoa học
Do áp lực học tập nên nhiều học sinh lớp 12 trường THPT Đông Hà –

Quảng Trị ở trong trạng thái stress. Nếu xác định được các biểu hiện của
3
stress ở các em thì sẽ đề xuất được các biện pháp tác động giúp các em giảm
bớt sự căng thẳng, lo âu.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu lí thuyết: như phân tích, tổng hợp, khái
quát hoá nhằm xác lập cơ sở lí luận cho đề tài và lựa chọn cho các công cụ
nghiên cứu.
7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1.Phương pháp trắc nghiệm tâm lý: nhằm đo mức độ stress của
học sinh
7.2.2.Phương pháp điều tra bằng anket
Nhằm tìm hiểu:
- Biểu hiện stress trong học tập của học sinh
- Nguyên nhân dẫn đến stress
7.2.3. Phương pháp phỏng vấn: nhằm thu thập thêm thông tin và xác
minh cụ thể hơn về nguyên nhân và biểu hiện stress trong học tập của học
sinh.
7.2.4. Phương pháp quan sát: nhằm thu thập thêm thông tin về sức
khoẻ, những biểu hiện stress trong học tập của học sinh
7.2.5. Phương pháp thống kê toán học: xử lí số liệu thu được bằng
cách tính %, tính điểm trung bình
4
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1. Khái niệm Stress
Stress là một thuật ngữ được dùng đầu tiên trong vật lý học để chỉ một
sức nén mà vật liệu phải chịu đựng. Đến thế kỷ thứ 17 Stress từ ý nghĩa sức
ép trên vật liệu được chuyển sang dùng cho người với ý nghĩa một sức ép
hay một xâm phạm nào đó tác động vào con người gây ra một phản ứng căng
thẳng. Hiện nay Stress là một thuật ngữ được dùng rộng rãi. Tuy nhiên nhiều

tác giả sử dụng với những sắc thái khác nhau. Theo HanSelye: “Stress là một
phản ứng sinh học không đặc hiệu của cơ thể trước những tình huống căng
thẳng.” Theo J.Delay: “Stress là một trạng thái căng thẳng cấp diễn của cơ
thể buộc phải huy động các khả năng phòng vệ để đối phó với một tình
huống đang đe dọa.”
Theo Giáo Sư Tô Như Khuê, một người đã nhiều năm nghiên cứu sự
căng thẳng cảm xúc của các chiến sĩ quân đội nhân dân Việt Nam trong
chiến đấu cho rằng: “Stress tâm lý cũng chính là những phản ứng tâm lý
không đặc hiệu xảy ra một cách chung khắp, do các yếu tố có hại về tâm lý
xuất hiện trong các tình thế mà con người chủ quan thấy là bất lợi hoặc đe
dọa, ở đây vai trò quyết định không chủ yếu do tác nhân kích thích, mà do sự
đánh giá chủ quan về tác nhân đó.”
Dưới góc độ Tâm lý học, Lazarus định nghĩa stress như một quá trình
tương giao giữa con người và môi trường, trong đó đương sự nhận định sự
kiện từ môi trường là có tính chất đe dọa và có hại, và đòi hỏi đương sự phải
cố gắng sử dụng các tiềm năng thích ứng của mình (Lazarus,
1966; Lazarus, Folkman, 1984).
Như vậy đúc kết lại ta nên hiểu Stress dùng cho cả 2 nghĩa (sinh lý và
tâm lý) bao gồm: tình huống Stress dùng để chỉ tác nhân xâm phạm hay kích
thích gây ra Stress (Stressor) và đáp ứng Stress dùng để chỉ trạng thái phản
ứng với Stress (Reaction), bao gồm phản ứng sinh lý và tâm lý.
Stress bình thường là một tình huống stress nhẹ, đối tượng chịu đựng
được và phản ứng thích nghi tốt. Đối tượng thu xếp được cân bằng mới thoả
5
đáng. Stress trở nên bệnh lý khi tình huống stress xuất hiện bất ngờ và quá
mạnh hoặc không mạnh nhưng lặp đi lặp lại nhiều lần vượt quá khả năng
chịu đựng của đối tượng gây ra các rối loạn liên quan stress.
1.2. Một số biểu hiện của trạng thái stress
Biểu hiện của trạng thái stress rất đa dạng và phong phú, song về cơ
bản người ta chia làm 4 nhóm biểu hiện về mặt cơ thể, về trí tuệ, cảm xúc và

hành vi.
1.2.1. Biểu hiện về mặt cơ thể
Khi ở trong trạng thái stress, về mặt cơ thể thường có các biểu hiện
như: mệt mỏi, đau đầu, đau lưng đau cơ bắp, chóng mặt, đổ mồ hôi, tức ngực
khó thở, tay chân bủn rủn, ăn không ngon, ăn quá nhiều hoặc quá ít, khó ngủ,
mất ngủ, tim đập nhanh, thở gấp, bị tiêu chảy hoặc táo bón …
1.2.2. Biểu hiện về mặt trí tuệ
Stress ảnh hưởng khá nghiêm trọng đến mặt trí tuệ của mỗi người, các
biểu hiện thường thấy như: mất khả năng tập trung, liên tưởng chậm, phán
đoán không chính xác, trí nhớ giảm sút, khả năng nhận định, đánh giá kém…
1.2.3. Biểu hiện về mặt cảm xúc
Trạng thái stress thường biểu hiện rõ ở mặt cảm xúc với các biểu hiện
thường gặp như: lo âu, dễ nổi nóng, nổi cáu, hồi hộp, chán nản, sợ hãi, không
hài lòng về bản thân (tự đổ lỗi cho bản thân), cảm thấy trống rỗng mất
phương hướng, cảm thấy dễ bị tổn thương, căng thẳng…
1.2.4. Biểu hiện về mặt hành vi
Khi bị stress, các biểu hiện về mặt hành vi thường gặp như là: hạn chế
tham gia các hoạt động; hay tranh luận quá khích; né tránh học tập; diễn đạt
không lưu loát; ngại tiếp xúc; nghịch, trêu bạn; mắt nhìn vô định, ngơ ngác;
cãi lại thầy cô; uống rượu bia …
6
1.3. Các nguyên nhân dẫn đến stress trong học tập ở học sinh lớp
12 trường THPT Đông Hà – Quảng Trị
1.3.1. Học tập
Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, ông Nguyễn Vinh Hiển cho biết,
xét toàn bộ chương trình SGK mới thì không nặng nhưng xét về cục bộ còn
nặng và chồng chéo. Các trường THPT gặp không ít khó khăn trong quá
trình thực hiện. Đại diện Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Nam Định, ông
Nguyễn Công Thành đưa ra nhận xét: "Các môn đều tham, nhồi nhét nhiều
kiến thức, trong khi đó nội dung có sự trùng lặp ở một số môn như: Công

nghệ và Vật lý, An ninh quốc phòng và Lịch sử". Bộ GD&ĐT cũng nhận
thấy sự quá tải của chương trình, vì vậy đã tăng thời gian học từ 35 lên 37
tuần. Lượng kiến thức mà học sinh THPT tiếp nhận quá nhiều dẫn đến tình
trạng học nhồi nhét, học không hiểu. Bản thân giáo viên đứng lớp giảng dạy
cũng gặp không ít khó khăn, lúng túng khi áp dụng Chương trình và SGK
mới. Mục tiêu đặt ra là giảm tải chương trình nhưng một số môn còn quá
nặng, thời gian để học sinh củng cố kiến thức và luyện tập chưa có. Như vậy,
chương trình dạy học và sách giáo khoa nặng là một trong những nguyên
nhân làm cho các em bị stress.
Đồng thời, ngoài việc học trên lớp, hầu hết các em đều đi học thêm.
Với lịch học dày đặc như vậy các em cũng rất dễ rơi vào trạng thái căng
thẳng, stress.
Mặt khác, dạy kỹ năng sống cũng chưa được quan tâm nhiều trong
chương trình SGK mới. Trong khi giáo dục kỹ năng sống đối với lứa tuổi
học sinh THPT, lứa tuổi đang có chuyển biến trong tâm sinh lý là rất cần
thiết. Nó có thể giúp các em ứng phó tích cực với các tình huống dễ gây ra
tâm trạng căng thẳng, stress.
7
1.3.2. Quan hệ xã hội
a. Quan hệ với bạn bè
Học sinh trung học phổ thông là lứa tuổi khá nhạy cảm, nhu cầu giao
tiếp ở mức cao, bạn bè đối với các em có vai trò rất quan trọng, là nơi để các
em chia sẻ những niềm vui và nối buồn, cùng giúp nhau vươn lên trong cuộc
sống. Thế nhưng, trong quan hệ bạn bè, nhiều lúc nảy sinh những mâu thuẫn,
những đố kị, ghen tức, xích mích nhau, sự bất đồng quan điểm ý kiến, bị bạn
hiểu nhầm, bị bạn tẩy chay và đây cũng là một trong những nguyên nhân
dẫn đến tình trạng căng thẳng ở các em.
b. Quan hệ với thầy cô
Thầy cô quá nghiêm khắc, thiên vị hay có những ứng xử thiếu tính sư
phạm … với học sinh cũng có thể làm cho các em bị stress.

c. Quan hệ với người thân (Ông bà, bố mẹ, anh chị em …)
Nhiều học sinh lớp 12 mang một nỗi ngán ngẩm lớn khi đối mặt với
chương trình học cuối cấp. Không riêng những học sinh “chơi bời” hơi nhiều
ở những năm trước, những học sinh khá giỏi cũng không thoát khỏi tâm
trạng lo lắng về việc học và thi. Những bậc phụ huynh lại cắt đứt ngay những
thú vui thường ngày của con cái như xem TV, internet, thể thao với mục đích
duy nhất: tập trung học hành chuẩn bị cho thi cử.
“Cha mẹ muốn gì ở con cái?
- 73,5%: muốn con trở thành trí thức
- 23,7%: muốn con giàu có
- 26,6%: muốn con thành người có chức quyền.
Xấu hổ vì con cái:
- Xấu hổ vì con học hành không bằng con người khác: 78,3%
- Xấu hổ vì mình nghèo hơn người khác: 42,4%”
(Nguồn: Điều tra xã hội học năm 2003)
Phải vào được ĐH là mục tiêu mà tất cả các gia đình Việt Nam hướng
đến, dần dà hình thành tâm lý: ai vào được ĐH là người chiến thắng, còn lại
là những kẻ thất bại khiến bố mẹ càng kỳ vọng và gây sức ép cho con cái.
8
Nhiều học sinh lớp 12 mang một nỗi ngán ngẩm lớn khi đối mặt với chương
trình học cuối cấp. Không riêng những học sinh “chơi bời” hơi nhiều ở
những năm trước, những học sinh khá giỏi cũng không thoát khỏi tâm trạng
lo lắng về việc học và thi. Những bậc phụ huynh lại cắt đứt ngay những thú
vui thường ngày của con cái như xem TV, internet, thể thao với mục đích
duy nhất: tập trung học hành chuẩn bị cho thi cử…
Ngoài ra, những bất đồng, xung đột khác với ông bà, cha mẹ, anh chị
em … cũng là một trong những nguyên nhân gây ra stress cho các em.
1.3.3. Từ bản thân
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến stress, các nhà khoa học cho rằng
stress có tính chất tích tụ, diễn tiến trong thời gian dài.

Nguyên nhân sinh ra stress có thể xuất phát từ môi trường bên ngoài,
cũng có thể xuất phát từ chính bên trong con người. Nhìn chung nguyên nhân
xuất phát từ chính bản thân mỗi người là nguyên nhân quan trọng và có ảnh
hưởng lớn đến mức độ stress. Cùng một sự kiện tác động đến những con
người khác nhau có thể gây ra mức độ stress khác nhau. Sự khác biệt đó xuất
hiện chính là do ở mỗi người khác nhau quá trình nhận thức diễn ra không
như nhau. Stress liên quan đến việc nhận định của cá nhân về một sự kiện là
có tính đe dọa, có hại hoặc thách thức
Trong học tập, có nhiều học sinh THPT đặt ra những yêu cầu quá cao
so với năng lực hiện có. Khi những yêu cầu, mục tiêu đó không đạt được,
như khi bị điểm thấp các em dễ rơi vào cảm giác tự ti, mặc cảm, chán nản,
thất vọng về bản thân. Các em thường tự trách móc dày vò bản thân, tâm
trạng luôn bực bội, có nhiều em còn nghĩ đến cái chết. Các em học sinh lớp
12 sắp phải đối diện với hai kì thi cực kì quan trọng đó là tốt nghiệp và đại
học. Phần lớn các em đã có định hướng về việc thi trường vào trường nào.
Tuy nhiên, không phải em nào cũng có sự lựa chọn đúng đắn. Có những em
chọn trường quá cao so với năng lực học tập của mình. Điều này làm cho các
em học sinh lớp 12 dễ bị stress.
9
1.3.4. Một số nguyên nhân khác
Ngoài những nguyên nhân trên thì vấn đề về sức khoẻ, bệnh tật, hoàn
cảnh gia đình, các mối quan hệ xã hội khác, tình yêu học trò, cũng có thể là
những nguyên nhân gây ra những căng thẳng mệt mỏi ở sinh viên.
1.4. Ảnh hưởng của stress đến học tập và đời sống của học sinh
THPT
Theo Hans Selye, “Stress không phải lúc nào cũng là kết quả của sự
tổn thương, ngược lại có hai loại stress khác nhau, đối lập nhau. Stress bình
thường khỏe mạnh hay stress tích cực là Eustress, stress độc hại hay stress
tiêu cực là Distress.”
Ảnh hưởng tích cực là stress tạo sức đề kháng cho cơ thể, tăng khả

năng thích nghi với môi trường xung quanh về mặt sinh lí. Và về mặt tâm lí
stress làm cho nhân cách ngày càng hoàn thiện. Stress tích cực làm cho học
sinh tích cực, chủ động chiếm lĩnh các tri thức. Eutress còn kích thích sự tìm
tòi khám phá, trải nghiệm qua rất nhiều hình thức học tập. Ngoài các giờ học
trên lớp học sinh còn xuất hiện rất nhiều trên các hình thức học tập khác như:
tự học, thảo luận nhóm, học trực tuyến…. Có thể nói trong xã hội hôm nay
thì con người không thể thiếu stress. Nếu thiếu stress con người khó tồn tại
và phát triển và có thể sẽ đi đến diệt vong.
Mặt khác, hiện nay, học sinh THPT học tập không chỉ học những gì
giáo viên truyền thụ trên lớp, mà còn phải tự nghiên cứu sâu bằng các sách
tham khảo, nâng cao. Có như vậy mới có khả năng thi đậu vào trường Đại
học. Càng đi sâu thì thời gian đòi hỏi càng nhiều, phải tập trung cao độ để
chiếm lĩnh. Trong quá trình học tập cũng như sau quá trình học tập, học sinh
sẽ dễ bị căng thẳng, mệt mỏi và hậu quả của nó có thể tác động tiêu cực đến
học tập cũng như đời sống của các em.
Ảnh hưởng tiêu cực của trạng thái stress là gây ra các rối nhiễu tâm lý,
các rối loạn sinh học và các lệch lạc ứng xử. Cụ thể, các rối nhiễu tâm lý
như: lo lắng, sợ hãi, lú lẫn và dễ phát cáu, giảm hiệu quả trong giao tiếp, co
mình lại và trầm nhược, cảm giác bị xa lánh và ghét bỏ, buồn chán và không
10
toại nguyện trong học tập, mệt mỏi tinh thần và trí lực giảm sút, mất khả
năng tập trung, mất tính sáng tạo Các rối loạn sinh học như: sự mệt mỏi về
thể xác, các chức năng; nhức đầu, rối loạn giấc ngủ, tăng nhịp tim và huyết
áp, các chứng bệnh ngoài da… Và các triệu chứng ứng xử: sự chần chừ và né
tránh học tập, thành tích học tập giảm, các quan hệ với bạn bè xấu đi
1.5. Đặc điểm tâm lý của học sinh THPT
Nhận thức cảm tính của HS THPT có những nét mới về chất. Cảm
giác, tri giác đạt tới mức độ tinh, nhạy cảm của người lớn. Tính có ý thức, có
mục đích của cảm giác, tri giác biểu hiện rõ rệt trong quá trình học tập cũng
như trong mọi hoạt động khác của HS THPT.

Cấu trúc hoạt động trí tuệ của HS THPT phức tạp và có tính phân hóa
rõ rệt so với lứa tuổi nhỏ. Các em có khả năng suy nghĩ độc lập và bước đầu
hình thành khả năng tự học. Do sự phát triển về thể lực và trí tuệ cũng như
tính xã hội hóa ngày càng cao, nhân cách của HS THPT có những nét phát
triển mới, khác về chất so với trước.
Khả năng đánh giá của trẻ tuổi thanh niên sâu sắc và tốt hơn thiếu
niên, tuy chưa thật sự ổn định. Trẻ thường ngầm so sánh mình với những
người xung quanh, đối chiếu ý kiến của mình với ý kiến người lớn. Nhưng
do còn nhiều hạn chế về kinh nghiệm sống, nên việc tự đánh giá gặp không ít
khó khăn và đôi khi gây ra ngộ nhận.
Đời sống cảm xúc, tình cảm của HS đầu tuổi thanh niên rất phong phú,
đa dạng. Tình bạn thường được các em lý tưởng hóa.
Một loại tình cảm đặc trưng của lứa tuổi này là tình yêu nam nữ. Đó là
một trạng thái mới mẻ nhưng rất tự nhiên trong đời sống tình cảm của lứa
tuổi đầu thanh niên, nó thường trong sáng, hồn nhiên, mãnh liệt và giàu cảm
xúc. Tuy nhiên, do chưa thật sự bước vào đời, chưa có đầy đủ các cơ sở để
xây dựng tình yêu một cách đúng đắn nên tình yêu ở lứa tuổi này thường
bồng bột, thiếu suy nghĩ chín chắn, vì thế dễ đi đến tan vỡ, gây nên những
tổn thương tình cảm, ảnh hưởng xấu đến học tập và rèn luyện các em.
11
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ BIỂU HIỆN STRESS TRONG
HỌC TẬP CỦA HỌC SINH LỚP 12 TRƯỜNG THPT ĐÔNG HÀ
2.1. Khái quát về địa bàn và khách thể nghiên cứu
Qua quá trình xây dựng và trưởng thành, trường THPT Đông Hà đã
gặt hái được nhiều thành tích to lớn về các mặt. Từ lúc mới thành lập trường
chỉ có 275 học sinh, đến nay qui mô số lượng tăng lên trên 1900 học sinh,
với 40 lớp. Tỉ lệ tốt nghiệp hằng năm đều đạt từ 95 - 99,5%; tỉ lệ thi đỗ vào
các trường Đại học, Cao đẳng đều đạt từ 30 - 45%, trong những năm gần đây
tỉ lệ đạt trên 50 - 60%; có 26 học sinh đạt giải trong các kì thi học sinh giỏi
quốc gia.

Khối 12 có tổng số là 634 học sinh, trong đó có 305 nam và 329 nữ
đến từ các địa phương khác nhau trong tỉnh. Tuy nhiên đề tài chỉ giới hạn
trong 92 học sinh, thuộc 2 lớp chọn: 12A1, 12B1.
2.2. Thực trạng về biểu hiện stress trong học tập của học sinh lớp
12 trường THPT Đông Hà – Quảng Trị
Khách thể nghiên cứu phần thực trạng là 92 học sinh lớp 12 trường
THPT Đông Hà – Quảng Trị, trong đó có 45 nữ, 47 nam.
2.2.1. Mức độ stress của học sinh lớp 12 trường THPT Đông Hà –
Quảng Trị
Chúng tôi sử dụng thang đo tự đánh giá về stress của Cohen. Thang đo
này gồm 10 câu, nhằm đo lường mức độ căng thẳng mà chủ thể nhận thấy
cuộc sống của họ trong 1 tháng qua là không thể dự đoán trước, không kiểm
soát được và quá tải, mỗi nhận định như vậy có 5 mức lựa chọn: không bao
giờ; gần như không bao giờ; đôi lúc; thường xuyên; rất thường xuyên. Các
chỉ số định tính này được chuyển sang định lượng từ 0 – 4 cho các câu 1, 2,
3, 6, 9, 10; riêng các câu 4,5,7,8 thì tính điểm ngược lại từ 4 – 0, nghĩa là 4
điểm = không bao giờ; 3 điểm = gần như không bao giờ… Điểm số được
tính từ 0 đến 40, điểm càng cao cho thấy mức độ stress càng nặng. Dưới 24
điểm: stress cấp tính, có thể kiểm soát được; từ 24 – 30 điểm: bắt đầu quá tải
12
vì stress, không đủ năng lực kiểm soát các trở ngại gặp phải, cần được hỗ trợ
để vượt qua; trên 30 điểm: bị stress nặng, cần được khám và điều trị.
Trong phạm vi đề tài chúng tôi nghiên cứu: tìm hiểu mức độ stress của
sinh viên nhìn từ góc độ tổng quát, góc độ giới tính, tìm hiểu những biểu
hiện của nó và nguyên nhân chủ yếu gây ra stress trong học tập của sinh
viên.
2.2.1.1. Mức độ stress của học sinh lớp 12 trường THPT Đông Hà
– Quảng Trị nhìn từ góc độ tổng quát
Mức độ stress của học sinh lớp 12 trường THPT Đông Hà – Quảng Trị
nhìn từ góc độ tổng quát được thể hiện qua bảng số liệu sau:

Bảng 2.1: Mức độ stress của học sinh lớp 12 trường THPT Đông
Hà – Quảng Trị nhìn từ góc độ tổng quát
Điểm stress Số lượng Tỉ lệ %
Dưới 24 điểm 64 69.6%
Từ 24 - 30
điểm
28
30.4%
Trên 30 điểm 0 0%
Qua bảng 2.1 chúng ta thấy đa phần học sinh dưới 24 điểm, chiếm
69.6%. Như vậy, phần lớn học sinh chỉ ở trong trạng thái stress cấp tính, có
thể kiểm soát được. Tuy nhiên, vẫn có đến 30.4% học sinh ở mức từ 24 – 30
điểm, tức là ở mức độ bắt đầu quá tải vì stress, không đủ năng lực kiểm soát
các trở ngại gặp phải, cần được hỗ trợ để vượt qua. Điều đáng mừng là
không có em nào trên 30 điểm, tức không có em nào bị stress nặng, cần được
khám và điều trị.
Thời điểm chúng tôi tiến hành điều tra là sau kì nghỉ tết nguyên đán,
các em đã có một khoảng thời gian nghĩ ngơi, vui chơi để giải tỏa những
căng thẳng trong học tập, thế nhưng vẫn có đến 1/3 học sinh ở mức độ bắt
đầu quá tải vì stress, không đủ năng lực kiểm soát các trở ngại gặp phải, cần
được hỗ trợ để vượt qua. Điều này chứng tỏ trạng thái stress ở học sinh lớp
12 (lớp chọn) là rất đáng báo động. Vì vậy, cần có được sự hỗ trợ để kiểm
13
soát các trở ngại gặp phải, để giảm mức độ stress xuống mức thấp nhất nhằm
đạt đựợc kết quả cao trong các kì thi nhất là kì thi tôt nghiệp, đại học.
2.2.1.2. Mức độ stress của học sinh lớp 12 trường THPT Đông Hà
– Quảng Trị nhìn từ góc độ giới tính
Kết quả mức độ stress của sinh viên nam và sinh viên nữ được thể
hiện ở bảng sau:
Bảng 2.2: Mức độ stress của học sinh lớp 12 trường THPT Đông

Hà – Quảng Trị nhìn từ góc độ giới tính
Điểm stress
Nam Nữ
Số lượng Tỉ lệ % Số lượng Tỉ lệ%
Dưới 24 điểm 33 73.3 31 65.9
Từ 24 - 30 điểm 12 26.7 16 34.1
Trên 30 điểm 0 0 0 0
Nhận xét:
Quan sát bảng số liệu 2.2 ta thấy có sự chênh lệch nhỏ về mức độ
stress giữa nam và nữ:
- Ở mức độ stress cấp tính thì học sinh nam chiếm tỉ lệ cao hơn học sinh
nữ (nam: 73.9%, nữ: 65.9%).
- Ở mức độ bắt đầu quá tải nữ cao hơn nam (nam 26.7%, nữ 34.1%)
Sở dĩ có sự khác biệt giữa học sinh nam và học sinh nữ về mức độ
stress là do nữ sinh thường nhạy cảm hơn nam sinh và đặc biệt rất hay lo
lắng cho việc học của bản thân. Các em hay nghĩ đến tương lai và dễ chán
nản thất vọng khi bị điểm kém hoặc bị thầy cô trách phạt hơn học sinh nam.
2.2.1.3. Mức độ stress của học sinh lớp 12 trường THPT Đông Hà
– Quảng Trị nhìn từ góc độ học lực
Bảng 2.3: Mức độ stress của học sinh lớp 12 trường THPT Đông
Hà – Quảng Trị nhìn từ góc độ học lực
Điểm stress
Trung bình Khá Giỏi
SL TL% SL TL% SL TL%
Dưới 24 điểm 8 80 45 68.2 11 68.8
Từ 24 - 30 điểm 2 20 21 31.8 5 31.2
Trên 30 điểm 0 0 0 0 0 0
14
Theo kết quả điêu tra chúng ta thấy, học sinh có học lực khá, giỏi bị
stress nhiều hơn so với những em có học lực trung bình, chiếm tỉ lệ lần lượt

là 31.8%, 31.2%.
Theo như tìm hiểu được, các em có học lực trung bình ở hai lớp chọn
này bị học lực trung bình là do học lệch, các em chỉ tập trung học những môn
thi đại học và tốt nghiệp, các môn còn lại các em không đầu tư cho nên
thường bị 1, 2 môn dưới điểm. Phỏng vấn một vài em có học lực trung bình
chúng tôi được biết, các em không quan tâm đến học lực loại gì, quan trọng
là học tốt 3 môn thi đại học để thi đỗ kì thi đại học. Chính vì vậy đa số các
em học tập thoải mái hơn những bạn khá, giỏi. Chỉ có 2/10 em có học lực
trung bình bị stress vì áp lực từ gia đình, thầy cô và mặc cảm với bạn bè .
Nhiều em có học lực khá, giỏi đang bị căng thẳng bởi vì các em đầu tư
học đều tất cả các môn. Mặt khác, các em học khá, giỏi thường đặt ra yêu
cầu quá cao so với năng lực bản thân, dẫn đến nỗ lực quá sức. Đồng thời các
em bị áp lực từ phía gia đình và mọi người xung quanh, là học sinh lớp chọn
nếu không thi đỗ đại học thì sợ bị chê cười.
2.2.2. Biểu hiện của stress trong học tập của học sinh lớp 12
trường THPT Đông Hà – Quảng Trị
Để tìm ra được những biểu hiện stress trong học tập của học sinh, tôi
tiến hành điều tra về 4 nhóm biểu hiện cơ bản: biểu hiện cơ thể, biểu hiện
cảm xúc, biểu hiện trí tuệ, biểu hiện hành vi ứng xử. Cách tính điểm: cho
điểm theo các mức độ: rất thường xuyên (4 điểm), thường xuyên (3 điểm),
thỉnh thoảng (2 điểm), không bao giờ (1 điểm).
2.2.2.1. Biểu hiện về cơ thể
15
Bảng 2.4. Biểu hiện về cơ thể khi bị stress trong học tập của học
sinh lớp 12 trường THPT Đông Hà – Quảng Trị
Mức độ
Biểu hiện
Số lượng
Điểm
TB

Rất thường
xuyên
Thường
xuyên
Thỉnh
thoảng
Không
bao giờ
Mệt mỏi 12 36 38 6 2.6
Đau đầu 8 32 39 13 2.4
Đau lưng, đau cơ
bắp 5 18 46 23 2.1
Chóng mặt 5 7 53 27 1.9
Đổ mồ hôi 4 11 28 49 1.7
Tức ngực, khó
thở 2 6 24 60 1.5
Tay chân bủn
rủn (run) 1 8 35 48 1.6
Ăn không ngon,
ăn quá nhiều
hoặc quá ít 7 17 32 36 1.9
Khó ngủ 15 22 26 29 2.3
Bụng cồn cào 13 25 26 28 2.3
Tim đập nhanh,
thở gấp 8 9 32 43 1.8
Bị tiêu chảy
hoặc táo bón 1 4 20 67 1.3
1.95
Quan sát bảng 2.3 ta có nhận xét, biểu hiện về mặt cơ thể của học sinh
lớp 12 trường THPT Đông Hà nhìn chung ở trong mức thỉnh thoảng (ĐTB:

1.95). Chứng tỏ mức độ stress của các em chưa quá cao, chưa đến mức bệnh
lý. Điều này phù hợp với kết quả điều tra ở trên. Nếu có những hỗ trợ kịp
thời sẽ giúp các em kiểm soát và ứng phó tích cực với nó.
Trong đó, biểu hiện về mặt cơ thể phổ biến ở học sinh lớp 12 là mệt
mỏi (ĐTB: 2.6), đau đầu (ĐTB: 2.4), khó ngủ (ĐTB: 2.3), bụng cồn cào
(ĐTB: 2.3).
16
Tiếp đến là những biểu hiện đau lưng, đau cơ bắp (ĐTB: 2.1), ăn
không ngon, ăn quá nhiều hoặc quá ít (ĐTB: 1.9), chóng mặt (ĐTB: 1.9), tim
đập nhanh, thở gấp (ĐTB: 1.8).
Ngoài ra sinh viên còn có những biểu hiện như: Đổ mồ hôi (ĐTB:
1.7), tay chân bủn rủn (ĐTB: 1.6), tức ngực khó thở (ĐTB: 1.5) và biểu hiện
ít gặp nhất là bị tiêu chảy hoặc táo bón (ĐTB: 1.3). Cũng có một số ý kiến
khác cho rằng các em còn có biểu hiện tái mặt khi bị stress trong học tập.
Sở dĩ có những biểu hiện trên là do trong quá trình học tập, nhất là
trong quá trình giải quyết các bài tập khó các em thường tập trung trí nhớ, tư
duy, tưởng tượng ở mức độ cao gây căng thẳng thần kinh. Khi thần kinh phải
làm việc ở mức độ cao sẽ huy động năng lượng tích trữ ở gan, mô mỡ, cơ.
Khi giải phóng năng lượng cần một lượng oxy nhiều hơn mức bình thường
làm cho các cơ giải phóng axitlactic gây nên mệt mỏi cơ thể và cơ thể có
cảm giác thiếu năng lượng. Để bù lại năng lượng đã mất trong cơ thể xảy ra
cơ chế giảm hoạt động của một số cơ quan bộ phận làm giãn cơ, gây ức chế
vận động. Do vậy học sinh thường xuyên có trạng thái mệt mỏi, đau đầu,
bụng cồn cào, đau lưng, đau cơ bắp… Đây là những biểu hiện học sinh đang
trong giai đoạn báo động của cơ thể để lập lại cân bằng.
2.2.1.2. Biểu hiện về cảm xúc
Bảng 2.5. Biểu hiện về cảm xúc khi bị stress trong học tập của học
sinh lớp 12 trường THPT Đông Hà – Quảng Trị
Mức độ
Biểu hiện

Số lượng
Điểm
TB
Rất thường
xuyên
Thường
xuyên
Thỉnh
thoảng
Không
bao giờ
Lo âu 15 34 31 12 2.6
Dễ nổi nóng,
nổi cáu 10 35 32 15 2.4
Hồi hộp 8 28 34 22 2.2
Chán nản 8 26 43 13 2.3
Sợ hãi 8 22 37 25 2.1
Không hài lòng
về bản thân (Tự
2.5
17
đổ lỗi cho bản
thân) 14 29 35 14
Cảm thấy trống
rỗng, mất
phương hướng 14 21 35 22 2.3
Cảm thấy dễ bị
tổn thương 6 19 33 34 2.0
Căng thẳng 23 31 32 16 2.9
2.36

Theo kết quả điều tra cho thấy, biểu hiện về cảm xúc của stress trong học
tập của học sinh lớp 12 trường THPT Đông Hà – Quảng Trị nhìn chung xuất
hiện khá rõ hơn so với biểu hiện về cơ thể, ở trong mức độ thường xuyên
(ĐTB: 2.36).
Các biểu hiện về cảm xúc xuất hiện tương đối đồng đều hay nói cách
khác là có sự chênh lệch không đáng kể. Trong đó, cảm xúc căng thẳng, lo
âu và không hài lòng về bản thân xuất hiện nhiều hơn cả, có điểm trung bình
lần lượt 2.9, 2.6, 2.5.
Tuy chúng tôi tiến hành điều tra không vào dịp ôn thi, mà lại là dịp sau tết
nhưng mức độ của các biểu hiện stress thể hiện qua kết quả ở trên cho thấy
học sinh đang trong tình trạng báo động. Điều này dễ hiểu bởi học sinh lớp
12 ngoài việc học tập để đạt điểm cao trong các bài kiểm tra 15 phút, 1 tiết,
kỳ thi học kì, các em còn gặp những căng thẳng bởi sức ép và mức độ quan
trọng của kì thi tốt nghiệp cũng như kì thi đại học. Vừa căng thẳng trong các
môn học cộng thêm những áp lực của các kì thi đã làm cho những biểu hiện
stress về cảm xúc ở sinh viên cũng đang ở trong mức độ thường xuyên.
Biểu hiện không hài lòng về bản thân (hay tự đổ lỗi cho bản thân) có
điểm trung bình cao (2.5) chứng tỏ các em có chí tiến thủ, có ý chí vươn lên,
không hài lòng với những kiến thức mình có, những kết quả học tập đã đạt
được. Song, nếu quá mức sẽ làm cho các em dễ có mặc cảm tự ti, ảnh hưởng
đến hoạt động học tập của bản thân.
Đi kèm với các trạng thái tâm lý trên là những phản ứng quá mức với
hoàn cảnh xung quanh, biểu hiện nổi bật ở tinh dễ nổi nóng với bạn bè về
18
những việc, những tình huống nhỏ nhặt (ĐTB: 2.4). Đây là một trong những
nguyên nhân khiến cho học sinh căng thẳng, quan hệ bạn bè đi đến dễ hiểu
lầm nhau ảnh hưởng đến sinh hoạt trong cuộc sống cũng như trong học tập.
Đồng thời, các em cũng thường xuyên chán nản, cảm thấy trống rỗng mất
phương hướng (ĐTB: 2.3). Nguyên nhân là do điểm thấp, bị thầy cô trách
phạt, bố mẹ so sánh với những bạn khác học giỏi hơn hay vì hoàn cảnh kinh

tế gia đình …
Cuối cùng là các biểu hiện: hồi hộp (ĐTB: 2.2), sợ hãi (ĐTB: 2.1), cảm
thấy dễ bị tổn thương (2.0).
19
2.2.2.3. Biểu hiện về mặt trí tuệ
Bảng 2.6. Biểu hiện về trí tuệ khi bị stress trong học tập của học sinh
lớp 12 trường THPT Đông Hà – Quảng Trị
`Qua bảng 2.6 chúng ta thấy, biểu hiện về trí tuệ của stress trong học
tập của học sinh lớp 12 trường THPT Đông Hà – Quảng Trị nhìn chung ở
trong mức độ thường xuyên (ĐTB: 2.32). Trong đó, mất khả năng tập trung
là biểu hiện có mức độ cao nhất (ĐTB: 2.7). Tiếp đến là các biểu hiện trí nhớ
giảm sút (ĐTB: 2.4), liên tưởng chậm, phán đoán không chính xác (ĐTB:
2.3). Có mức độ thấp nhất là biểu hiện khả năng đánh giá, nhận định kém
(ĐTB: 1.9).
Từ kết quả nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy rằng khả năng nhận thức
của học sinh có biểu hiện giảm sút rất nhiều. Điều này ảnh hưởng rất lớn
trong quá trình học tập của học sinh.
Sự mệt mỏi về cơ thể cũng như về trí tuệ ảnh hưởng nghiêm trọng đến
khả năng tập trung chú ý của học sinh, các em dễ bị phân tán chú ý trong học
tập trên lớp cũng như ở nhà. Theo ý kiến của một học sinh nam lớp 12 A1
Mức độ
Biểu hiện
Số lượng
Điểm
TB
Rất thường
xuyên
Thường
xuyên
Thỉnh

thoảng
Không
bao giờ
Mất khả năng
tập trung 13 36 41 2 2.7
Liên tưởng
chậm 8 25 46 13 2.3
Phán đoán
không chính
xác 8 22 52 10 2.3
Trí nhớ giảm
sút 14 23 44 11 2.4
Khả năng
đánh giá, nhận
định kém 4 10 49 29 1.9
2.32
20
cho biết: trong khi học bài ở trên lớp, tâm trạng của bạn không được ổn định.
Điều đó khiến cho bạn khó tập trung vào công việc học tập, có khi ngồi cả
buổi cũng không nhớ đã tiếp thu được gì trong bài học đó.
Hoạt động học tập bên cạnh đòi hỏi cao về trí nhớ thì khả năng liên
tưởng, phán đoán chính xác cũng có vai trò quan trọng trong quá trình giải
quyết các bài toán khó như môn hình học không gian Nhưng qua điểm
trung bình từ kết quả điều tra cho thấy, những biểu hiện này nằm trong mức
độ thường xuyên là điều rất đáng lo ngại cho các em.
Nguyên nhân là do các em bị áp lực trong từng môn học cũng như
chuẩn bị ôn tập cho các bài kiểm tra, các kỳ thi sắp tới tạo nên một áp lực
tổng hợp dẫn đến trạng thái căng thẳng, lo lắng. Nội dung chương trình học
nặng buộc các em phải ghi nhớ và tiếp nhận tri thức một cách liên tục. Do đó
việc đòi hỏi phải có phương pháp học tập khoa học, kết hợp với nghỉ ngơi

giải trí để trí tuệ được minh mẫn là vấn đề cấp bách đặt ra cho học sinh.
21
2.2.2.4. Biểu hiện về hành vi
Bảng 2.7. Biểu hiện về hành vi khi bị stress trong học tập của học
sinh lớp 12 trường THPT Đông Hà – Quảng Trị
Qua bảng 2.7 chúng ta thấy, biểu hiện về hành vi khi bị stress trong
học tập của học sinh lớp 12 trường THPT Đông Hà – Quảng Trị nhìn chung
ở trong mức độ thỉnh thoảng (ĐTB: 1.88).
Trong các biểu hiện về hành vi ứng xử, biểu hiện rõ nét nhất, nằm
trong mức độ thường xuyên (ĐTB: 2.4) khi bị stress là nghịch, trêu bạn.
Điều này cũng dễ hiểu, bởi người ta thường nói “nhất quỷ nhì ma thứ
ba học trò”. Đặc điểm chung của lứa tuổi này là nghịch ngợm. Khi được hỏi
“vì sao khi bị stress em thường nghịch, trêu bạn?”, đa số các em cho rằng
nghịch, trêu bạn thì cảm thấy vui vẻ, thoải mái, nó giúp các em giải tỏa căng
thẳng trong học tập.
Mức độ
Biểu hiện
Số lượng
Điểm
TB
Rất thường
xuyên
Thường
xuyên
Thỉnh
thoảng
Không
bao giờ
Hạn chế tham gia
các hoạt động

6 23 35 28 2.1
Hay tranh luận
quá khích 0 26 32 34 1.9
Né tránh học tập 2 21 34 35 1.9
Diễn đạt không
lưu loát 0 28 39 25 2.0
Ngại tiếp xúc
6 18 40 28 2.0
Nghịch, trêu bạn
22 19 24 27 2.4
Cãi lại thầy cô 3 2 31 56 1.5
Mắt nhìn vô định,
ngơ ngác 8 12 39 33 1.9
Uống rượu bia 2 4 15 71 1.3
1.88
22
Tiếp theo là biểu hiện hạn chế tham gia các hoạt động (ĐTB: 2.1),
ngại tiếp xúc, diễn đạt không lưu loát (ĐTB: 2.0).
Một trong những biện pháp xả stress hữu hiệu là tham gia các hoạt
động, trò chuyện với bạn bè, thông qua hoạt động, giao lưu giải tỏa được
những căng thẳng trong học tập, quên đi những áp lực để tận hưởng những
thời gian vui chơi trong giây phút hiện tại với bạn bè. Thế nhưng các biểu
hiện này lại thuộc mức độ thường xuyên. Đặc biệt là đối với các nữ sinh ít
khi tham gia các hoạt động thể thao. Đồng thời, khi bị stress các em cũng
thường diễn đạt không lưu loát, khó nói lên đúng ý của bản thân.
Bên cạnh đó là biểu hiện hay tranh luận, né tránh học tập, mắt nhìn vô
định ngơ ngác (ĐTB: 1.9). Nguyên nhân chính gây ra stress là áp lực học tập,
do đó khi căng thẳng quá mức khiến cho một số em cảm thấy chán nản trong
học tập, không muốn học tập. Thể hiện rõ là sau thời gian nghĩ tết các em
thường đi học chưa đầy đủ. Trong khi đây là hai lớp chọn của trường, tức là

hai lớp có số học sinh có học lực khá giỏi phần nhiều. Nếu để tình trạng né
tránh học tập kéo dài sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến kết quả học tập của các
em.
Trong các biểu hiện về mặt hành vi, uống rượu bia và cãi lại thầy cô
có điểm trung bình thấp nhất (1.3, 1.5). Tuy vậy, đây là các biểu hiện rất
đáng ngại, cần có biện pháp để kiểm soát kịp thời.
Tiểu kết: Qua những biểu hiện stress trong học tập của học sinh lớp 12
ta thấy được: trong học tập, học sinh lớp 12 đang thường xuyên phải đối mặt
với những tình trạng stress có hại tới sức khoẻ cả về thể chất và tinh thần của
bản thân. Trong 4 mặt biểu hiện của stress trong học tập, biểu hiện về cảm
xúc và trí tuệ thể hiện rõ hơn so với biểu hiện về thể chất và hành vi. Biểu
hiện rõ nét nhất của stress trong học tập về thể chất là làm cho học sinh cảm
thấy mệt mỏi, đau đầu, khó ngủ, bụng cồn cào, đau lưng đau cơ bắp. Về mặt
cảm xúc là căng thẳng, lo âu và không hài lòng về bản thân. Về mặt trí tuệ là
mất khả năng tập trung, trí nhớ giảm sút, liên tưởng chậm, phán đoán không
23
chính xác. Về hành vi là nghịch, trêu bạn, hạn chế các hoạt động, mắt nhìn
vô định và né tránh học tập.
Những biểu hiện stress có hại trong học tập sẽ giảm đi đáng kể nếu
như chúng ta tiến hành trợ giúp, tham vấn cho học sinh. Để các em có những
hiểu biết cơ bản về stress, về phương pháp phản ứng với stress trong cuộc
sống nói chung và trong học tập nói riêng.
2.2.3. Những nguyên nhân dẫn đến stress trong học tập của học
sinh lớp 12 trường THPT Đông Hà – Quảng Trị
Bảng 2.8. Những nguyên nhân dẫn đến stress trong học tập của
học sinh lớp 12 trường THPT Đông Hà – Quảng Trị
TT Nguyên nhân Số lượng Tỉ lệ %
1 Kiến thức nhiều và khó 71 77.1
2 Làm bài thi và kiểm tra nhiều 34 36.9
3 Lịch học dày đặc 56 60.9

4 Bị điểm thấp 32 34.8
5 Quan hệ với bạn bè (Bất hòa
trong quan hệ với bạn, bị bạn hiểu
nhầm, bị bạn tẩy chay)
15 16.3
6 Quan hệ với thầy cô 19 20.7
7 Quan hệ với người thân 36 39.1
8 Bản thân đặt ra những yêu cầu
quá cao so với năng lực
31 33.7
Qua bảng 2.8 ta thấy rằng, có khá nhiều nguyên nhân dẫn đến tình
trạng stress trong học tập của học sinh lớp 12 trường THPT Đông Hà –
Quảng Trị. Trong đó, hầu hết học sinh cho rằng nguyên nhân gây stress trong
học tập là do kiến thức nhiều và khó, chiếm 77.1% . Chương trình sách giáo
khoa mới của THPT hiện nay phải nói là quá nặng đối với các em học sinh.
Nó bao gồm rất nhiều môn học và môn học nào nội dung cũng rất lớn. Trong
khi đó, kì thi đại học còn đòi hỏi cả kiến thức lớp 11. Chính vì vậy nó làm
cho các em hết sức căng thẳng và lo lắng.
Đa số ý kiến cũng cho rằng nguyên nhân gây stress là lịch học dày
đặc, chiếm 60.9%. Sở dĩ lịch học dày đặc là một nguyên nhân quan trọng
gây nên tình trạng stress cho học sinh là vì: ngoài giờ học trên lớp, các em
24
còn đi học thêm vào các ngày trong tuần. Theo phỏng vấn chúng tôi được
biết, đa phần các em đều đi học thêm, và mỗi em học thêm khoảng 2 đến 3
môn, một môn trung bình 3 buổi/ tuần, các môn này chính là các môn thi đại
học của các em. Là những học sinh có học lực khá giỏi cho nên dù gia đình
có khó khăn cũng cố gắng cho các em học thêm. Chính lịch học dày đặc làm
cho các em ít có thời gian nghĩ ngơi, gây nên stress.
Tiếp theo, có 39.1% học sinh chọn tác nhân là quan hệ với người thân.
Kết hợp với phỏng vấn chúng tôi được biết, bố mẹ nặng lời trách mắng khi bị

điểm kém, bố mẹ so sánh các em với những bạn khác giỏi hơn… là những
điều làm cho các em cảm thấy rất khó chịu, căng thẳng. Ngoài ra, một số em
khác cũng thường bị stress khi có mâu thuẫn với anh chị em trong gia đình.
Bên cạnh đó, một bộ phận học sinh cho rằng làm bài thi và kiểm tra
nhiều là nguyên nhân gây stress cho mình (36.9%). Các em ngoài việc học
bài cũ để thầy cô kiểm tra miệng hằng ngày còn phải vừa ôn tập để kiểm tra
15 phút, kiểm tra 1 tiết. Kết hợp với phỏng vấn chúng tôi được biết, có nhiều
thầy cô cho làm bài kiểm tra nhiều hơn so với quy định, mục đích là để bài
nào điểm cao thì lấy. Tuy nhiên, nó cũng dễ gây cho các em rơi vào trạng
thái căng thẳng, lo âu thường xuyên.
Tiếp theo, bị điểm thấp cũng là nguyên nhân được khá nhiều em lựa
chọn chiếm 34.8%. Đây là điều dễ lý giải, bởi lẽ khi bị điểm thấp các em
thường có tâm trạng không hài lòng về bản thân, tự trách cứ, dày vò bản
thân. Mặt khác, thầy cô, bố mẹ la mắng làm cho các em chán nản, cảm giác
bị áp lực.
Có một bộ phận nhỏ học sinh cho rằng nguyên nhân bị stress trong học
tập của các em là “Bản thân đặt ra những yêu cầu quá cao so với năng lực” ,
chiếm 33.7%. Các em đang ở lứa tuổi có nhiều mơ ước, dự tính cho tương
lai, nhưng không phải em nào cũng biết đặt ra mục tiêu phù hợp với bản
thân, không quá viễn vông hay xa vời. Như vậy, đặt ra những mục tiêu phù
hợp với năng lực bản thân là điều quan trọng nhằm giúp các em không rơi
vào, giảm nhẹ tình trạng stress trong học tập.
25

×