Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

luận văn Tìm hiểu thái độ của học sinh một số trường PTTH ở Hà Nội khi được giáo dục sức khỏe sinh sản vị thành niên SKSSVTN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (326.19 KB, 56 trang )

LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian tìm hiểu và nghiên cứu , đề tài của chúng em đã hoàn
thành . Tuy có nhiều cố gắng , song với thời gian có hạn & lượng kiện thức còn
hạn chế - nên đề tài không tránh khỏi những thiếu sót . Chúng em mong nhận
được sự chỉ bảo của các thầy cô và sự góp ý của các bạn để đạt kết quả tốt hơn
trong những lần nghiên cứu sau .
Chúng em xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc tới Thầy giáo TS. Nguyễn Hồi
Loan – người đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ chúng em trong quá trình nghiên cứu .
Chúng em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới thầy Trần Thành Nam
cung các Thầy Cô trong khoa đã dạy bảo chúng em học tập và giúp đỡ chúng em
hoàn thành báo cáo này .
Chúng em cũng chân thành cảm ơn Ban giám hiệu va học sinh các trường
Quang Trung, Trần Phú, Đinh Tiên Hoàng đã nhiệt tình giúp đỡ trong quá trình
thu số liệu thực tế để hoàn chỉnh báo cáo .
Các tác giả : Trần Ngọc Ánh
Đỗ Minh Phương
Nguyễn Thanh Huyền
MỤC LỤC
NỘI DUNG TRANG

Phần I: Những vấn đề chung 02
I. Lí do chon đề tài 02
II. Đối tượng- khách thể- phạm vi nghiên cứu 03
III. Mục đích- nhiệm vụ nghiên cứu 04
IV. Phương pháp nghiên cứu 04
V. Giả thuyết nghiên cứu 04
VI. Kế hoạch nghiên cứu 05
Phần II: Nội dung chính 06
Chương I: Cơ sở lí luận 06
A. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 06
I. Lịch sử nghiên cứu thái độ 06


II. Lịch sử vấn đề giáo dục sức khoẻ vị thành niên 09
B. Các khái niệm: 10
I. Thái độ: 1. Định nghĩa 10
2. Đặc điểm 12
3. Chức năng 12
4. Cấu trúc 13
5. Yếu tố quyết định sự hình thành và phát triển 14
II. Học sinh phổ thông: 1. Quan niệm về lứa tuổi 18
2. Đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi 19
III. Khái niêm giáo dục SKSSVTN : 21
1. Giáo dục giới tính ( GDGT ) 21
2. Giáo dục SKSSVTN ( GDSKSSVTN ) 22
C. Vài nét về những vấn đề liên quan tới ở SKSS Việt Nam 24
Chương II. Kết quả nghiên cứu thực tiễn 26
A. Vài nét về khách thể nghiên cứu 26
B. Thực trạng thái độ của HSPT khi được GDSKSSVTN 26
I . Thực trạng nhận thức 26
II . Thực trạng xúc cảm - tình cảm 37
III . Thực trạng hành vi 45
Phần III : Kết luận và khuyến nghị 51
I . Kết luận 51
II . Khuyến nghị 53
Tài liệu tham khảo 55
2
PHẦN I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI :
Cùng với sự phát triển của xã hội hiện nay, nhu cầu tìm hiểu về giới tính
của thanh thiếu niên ( TTN ) là rất lớn . Tuy nhiên , sự đáp ứng về nhu cầu tìm
hiểu vấn đề này chưa thoả mãn đã dẫn tới nhiều hành vi sai lệch như những mối
quan hệ vô đạo đức, thiếu văn hoá giữa những người khác giới, thực trạng nạo

phá thai ở tuổi vị thành niên (VTN ) ngày càng cao…( Theo thống kê của tổ chức
Y tế thế giới thì ở Việt Nam, số lần sinh của các bà mẹ tuổi dưới 19 chiếm 15%
tổng số lần sinh trong cả nước và 30% tổng số lần nạo phá thai ở những em gái
chưa kết hôn. )
Đảng và Nhà nước đã rất quan tâm tới việc giáo dục giới tính trong lứa tuổi
VTN , đây là việc làm rất cần thiết trong công tác giáo dục toàn diện thế hệ trẻ
(bên cạnh việc giáo dục về văn hoá…) để đáp ứng sự kỳ vọng của xã hội, đó là
đào tạo thế hệ vừa có tri thức khoa học, vừa có sức khoẻ… phục vụ nhu cầu xây
dựng và bảo vệ tổ quốc .
Trên thế giới cũng như ở nước ta , những vấn đề liên quan đến SKSSVTN
đang nổi cộm lên và là mối quan tâm lớn của cộng đồng , của xã hội bởi hai lý do
sau:
- Bối cảnh xã hội hiện đại có nhiều nguy cơ đe doạ đến SKSSVTN
- GDSKSS vừa đem lại lợi ích, vừa phát huy được tiềm năng của chính cá
nhân đó.
Từ những thực tế nói trên, chúng ta thấy sự quan tâm đến giáo dục và bảo
vệ SKSSVTN đã trở thành một vấn đề cấp bách, không chỉ là nhiệm vụ của ngành
y tế mà là của toàn xã hội. Nó thực sự cần thiết trong giáo dục toàn diện, kiểm
soát dân số và bảo vệ con người. Nhận thức được vấn đề trên , chúng tôi tiến hành
đi sâu tìm hiểu vấn đề GDSKSSVTN - một trong những vấn đề cốt yếu của giáo
dục giới tính (GDGT) nói riêng và giáo dục con người nói chung .
3
Hiện nay, một số trường phổ thông đã áp dụng GDSKSSVTN trong nhà
trường dưới nhiều hình thức và mức độ khác nhau. Có rất nhiều tổ chức xã hội
với những hoạt động đoàn thể đã quan tâm tới vấn đề đó và triển khai các hoạt
động giáo dục. Phần lớn xoay quanh nghiên cứu về cơ sở hình thành và những
hiểu biết cần thiết thiết về giới tính, những yếu tố và mức độ ảnh hưởng của môi
trường xã hội tới sự phát triển của thế hệ trẻ, từ đó đưa ra những cảnh báo, những
nguy cơ có thể xảy ra và đề xuất những giải pháp cần thiết để cải thiện tình hình.
Học sinh phổ thông ( hspt ) là đối tượng trực tiếp cần được giáo dục về vấn

đề này. Tuy nhiên, hiện nay ở nước ta, do điều kiện còn hạn chế nên việc đưa giáo
dục giới tính và SKSSVTN vào trường PTTH chưa được phổ cập ở cả nước mà
mới chỉ được áp dụng ở một số tỉnh, thành phố lớn. Chúng tôi lấy đối tượng là
học sinh PTHH ở một số trường tại Hà Nội để nghiên cứu, bởi đây là một trong
những thành phố lớn của cả nước và đang được áp dụng hình thức đào tạo trên.
Hơn nữa đây cũng là trung tâm văn hoá- xã hội- kinh tế- chính trị, là môi trường
dễ tiếp nhận những nền văn hoá hiện đại qua việc mở cửa hội nhập nền kinh tế thị
trường, có nhiều cám dỗ, những ảnh hưởng xấu từ mặt trái của xã hội hiện đại đã
tác động tới nhận thức của thanh thiếu niên, mà nếu không có những biện pháp
kịp thời sẽ làm hình thành những nhân cách lệch lạc của thế hệ trẻ.
Với đề tài “Tìm hiểu thái độ của học sinh một số trường PTTH ở Hà Nội
khi được giáo dục SKSSVTN”, chúng tôi muốn tham gia dưới góc độ tìm hiểu thái
độ của học sinh các trường PTTH đối với việc giáo dục SKSSVTN, từ đó có
những kết luận và kiến nghị để nâng cao hiệu quả của hoạt động giáo dục trên.
II. ĐỐI TƯỢNG, KHÁCH THỂ, PHẠM VI NGHIÊN CỨU.
1. Đối tượng nghiên cứu: Thái độ của học sinh PTHH khi được giáo dục
SKSSVTN.
2. Khách thể nghiên cứu: 150 học sinh PTTH tại một số trường PTTH có
đưa vấn đề giáo dục SKSSVTN và chương trình giáo dục của nhà trường.
4
3. Phạm vi nghiên cứu: Các trường PTTH Đinh Tiên Hoàng, Trần Phú…
trong thời gian
III. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU.
1. Mục đích nghiên cứu:
- Đánh giá mức độ hiểu biết về SKSS của học sinh PTTH ở Hà Nội
- Tìm hiểu thái độ và cách ứng xử của các em khi được học về giáo dục
SKSSVTN
- Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động giáo dục
SKSSVTN.
2. Nhiệm vụ nghiên cứu.

2.1. Nghiên cứu lý luận: Tìm hiểu về lịch sử vấn đề nghiên cứu, các tài
liệu và khái niệm liên quan đến vấn đề nghiên cứu để xây dựng cơ sở lý luận cho
đề tài.
2.2. Nghiên cứu thực tiễn: Khảo sát 150 học sinh PTTH để tìm hiểu thái
độ của các em khi được giáo dục SKSSVTN qua bảng hỏi và phỏng vấn sâu, từ
đó phân tích kết quả điều tra để đưa ra kết luận và những kiến nghị nhằm nâng
cao thái độ tích cực của các em cũng như nâng cao hiệu quả của vấn đề giáo dục
SKSSVTN.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
1. Nghiên cứu tài liệu: Sử dụng các tài liệu có liên quan đến vấn đề nghiên
cứu (giáo trình, sách, báo, khoá luận…) để xây dựng cơ sở lý luận, phân tích kết
quả của đề tài nghiên cứu.
2. Điều tra bằng bảng hỏi (Ankét): Là phương pháp nghiên cứu chính để
thu thập số liệu thực tế cho đề tài nghiên cứu bằng hệ thống các câu hỏi đóng và
câu hỏi mở.
3. Phương pháp phỏng vấn sâu: Kết hợp với phương pháp Ankét để bổ
sung, làm rõ những vấn đề mà bảng hỏi chưa làm rõ được.
4. Phương pháp thống kê toán học. Sử dụng chương trình SPSS để xử lý
số liệu điều tra.
5
V. GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU .
Học sinh có nhiều thái độ khác nhau, đa số đều có thái độ tích cực trên cơ
sở nhận thức được tầm quan trọng của việc tìm hiểu về SKSSVTN. Tuy nhiên,
hiệu quả của việc áp dụng những hiểu biết về SKSS chưa cao, dẫn tới nhiều
trường hợp đáng tiếc xảy ra.
VI. KẾ HOẠCH NGHIÊN CỨU.
1. Thời gian nghiên cứu:
- Từ 11/8/2003 - 31/8/2003: Tiếp cận đề tàI và lập kế hoạch nghiên cứu.
- Từ 1/9/2003 - 15/9/2003: Soạn thảo đề cương tổng quát.
- Từ 16/9/2003 - 31/12/2003: Tiếp cận chi tiết vấn đề bằng các phương

pháp nghiên cứu tàI liệu.
- Từ 1/1/2004 - 1/2/2004: Phát phiếu điều tra, tiến hành phỏng vấn và thu
thập số liệu.
- Từ 2/2/2004 - 25/3/2004: Hoàn thành đề tàI nghiên cứu.
2. Nhân lực:
Nhóm thực hiện gồm 3 người.
3. Hỗ trợ:
- Có giáo viên hướng dẫn.
- Giới thiệu đến các tổ chức và trường học.
- Kinh phí thực hiện đề tài.
6
PHẦN II: NỘI DUNG CHÍNH
Chương I
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
A. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU.
I. NGHIÊN CỨU VỀ THÁI ĐỘ.
Thái độ là một thuật ngữ được sử dụng thường xuyên trong tâm lý học và
nhiều ngành khoa học khác. Lịch sử nghiên cứu thái độ không diễn ra một cách
thuận lợi, đây là một vấn đề mà các nhà nghiên cứu chưa tìm được sự thống nhất
hoàn toàn. Thực tế trên thế giới, có rất nhiều các trường phái nghiên cứu thái độ ở
những khía cạnh khác nhau, không đồng nhất với nhau.
1. Nghiên cứu thái độ trong tâm lý học Phương Tây.
Ngay từ cuối thế kỷ XIX, từ darwin & spence, ý nghĩa quan trọng của thái
độ đã được xem xét trong mối quan hệ với sự định hướng. Nhà tâm lý học
shikirep đã chia thành 3 thời kỳ cơ bản (theo “Những vấn đề lý luận và phương
pháp luận tâm lý học- 1, tr 318).
- Thời kỳ 1918- Chiến tranh thế giới thứ II: Đây là thời kỳ của sự phát triển
mạnh mẽ, khái niệm thái độ được sử dụng như một đặc tính quan trọng của các
vấn đề xã hội bởi hai nhà nghiên cứu người Mỹ W.I.thomas và F.znanieoke. Theo
hai ông “Thái độ là trạng thái tinh thần (state of mind) của cá nhân đối với giá trị”

(1, tr 138). Yêu cầu được đưa ra là nghiên cứu thái độ ở các cấp cá nhân và xã
hội. Chính từ nghiên cứu này mà bùng nổ các cuộc chiến tranh khác nhau khi
nghiên cứu thái độ.
- Thời kỳ 1940 - cuối 1950: Nét nổi bật trong nghiên cứu thái độ thời kỳ
này là sự hoài nghi vai trò của thái độ trong việc chi phối hành vi. Kết luận của La
piere đã đặt cơ sở cho chủ nghĩa hoài nghi và khiến cho sự quan tâm của các nhà
tâm lý học đối với vấn đề thái độ xã hội bị giảm sút (1, tr 320).
7
- Thời kỳ cuối 1950 - nay: Đây là thời kỳ phục hồi, tái phát triển trở lại,
xuất hiện nhiều ý tưởng, quan điểm mới nhưng cũng kèm theo thực trạng khoa
học (1, tr 318). Thái độ đã có vị trí xứng đáng trong tâm lý học xã hội. Đặc điểm
mới của thời kỳ này là việc xuất hiện các thang thái độ như “phương pháp”,
“đường ống giả vờ” của edward joner và harold sigall (1971) cho phép đo thái độ
một cách chính xác.
Bên cạnh đó, các nhà tâm lý học cũng đưa ra những lý thuyết lý giải mối
quan hệ giữa thái độ và hành vi “bất đồng nhận thức” (thuyết tự bào chữa- 1957),
leon festinger cho rằng “bất đồng nhận thức diễn ra khi thái độ mâu thuẫn với
hành vi tự nhiên, sự căng thẳng giữa các hành vi và thái độ đó được chúng ta làm
giảm bớt bằng cách tự bào chữa cho suy nghĩ chứ không phải hành động của
mình” (1, tr 333).
Cũng nghiên cứu về mối quan hệ giữa thái độ và hành vi, allan wicher
(1969) sau khi nghiên cứu tổng kết các vấn đề đã đưa ra kết luận: “Thái độ của
con người hình như chẳng dự báo gì hành vi của họ” (1, tr 327).
shikhirep cho rằng, đặc điểm của thực trạng nghiên cứu thái độ ngày nay ở
phương tây là có nhiều công trình và phương pháp nghiên cứu thái độ nhưng lại
bế tắc về phương pháp luận trong việc lý giải các số liệu thực nghiệm (2, tr 9).
2. Nghiên cứu thái độ trong tâm lý học Liên Xô (cũ).
Thái độ trong tâm lý học Liên Xô chịu sự chi phối rất lớn vào nền tảng tâm
lý học hoạt động của A.N.Lêonchiep, thuyết tâm thế của P.N.Uznatre, thuyết định
vị của Iadov và thuyết thái độ nhân cách của Miaxiev.

Theo P.N.Uznatre, thái độ được hiểu là “tâm thế”, là “sự biến dạng hoàn
chỉnh của chủ thể”, là trạng thái sẵn sàng hướng tới một hành động nhất định, là
trạng thái vô thức xuất hiện khi có nhu cầu và hoàn cảnh thoả mãn nhu cầu (1, tr
321).
Dựa trên tư tưởng của A.P. Lazuski và xuất phát từ lập trường Mác- xit,
V.N.Miaxiev đã đề ra thuyết tâm lý về thái độ chủ quan của con người (3, tr 390).
8
Ông coi nhân cách như một hệ thống thái độ và thường sử dụng các thuật ngữ
“thái độ cá nhân”, “thái độ tâm lý” để phân tích các dạng, các thức của chúng.
Ông cho rằng “thái độ là khía cạnh chủ quan bên trong, là hệ thống toàn vẹn của
các mối liên hệ cá nhân, có chọn lọc, có ý thức của nhân cách với các khía cạnh
khác nhau của hiện thực khách quan. Hệ thống này xuất phát từ toàn bộ lịch sử
phát triển của con người, nó thể hiện kinh nghiệm cá nhân, quy định hoạt động và
các thể nghiệm cá nhân từ bên trong (3, tr 490).
Như vậy, khi nghiên cứu thái độ, Miaxiev đã nhìn nó với con mắt xã hội
lịch sử, chú ý thái độ trong mối quan hệ với hành vi, những việc coi hàng loạt các
thuộc tính, quá trình tâm lý là thái độ thì chưa có cơ sở khoa học. Chính vì những
đóng góp to lớn mà ông trở thành một trong những người đặt nền móng cho tâm
lý học thái độ theo quan điểm Mác- xít (một lĩnh vực có triển vọng cần được
nghiên cứu của tâm lý học xã hội và tâm lý học nhân cách).
Với cách tiếp cận hoạt động - nhân cách, gắn thái độ với nhu cầu và điều
kiện hoạt động, coi thái độ là hệ thống có thứ bậc, tâm lý học Liên Xô đã đưa ra
cách giải quyết hợp lý về sự hình thành thái độ, vị trí trong cấu trúc nhân cách,
chức năng trong điều chỉnh hành vi xã hội và hoạt động của cá nhân.
3. Nghiên cứu thái độ ở Việt Nam.
Những nghiên cứu thái độ ở Việt Nam chịu ảnh hưởng rất nhiều của hệ
thống lý luận tâm lý học Liên Xô. Nghiên cứu lý luận về thái độ chưa nhiều, chủ
yếu là các quan điểm của một số nghiên cứu tâm lý đầu ngành: Nguyễn Khắc
Viện, Phạm Minh Hạc…
Khi bàn về thái độ, Nguyễn Khắc Viện cho rằng: “Trước một hoạt động

nhất định, nhiều người thường có những phản ứng tức thì, tiếp nhận dễ dàng hay
khó khăn, đồng tình hay chống đối như đã có sẵn, nhưng cơ cấu tâm lý tạo ra định
hướng cho việc ứng phó. Từ những thái độ sẵn có, tri giác về đối tượng cũng như
tri thức bị chi phối, về vận động thì thái độ gắn liền với tư thế” (4, tr 356). Ta thấy
9
quan điểm: thái độ đối với một đối tượng nào đó sẽ chi phối hoạt động của họ với
đối tượng ấy.
Trong cuốn “sổ tay tâm lý học xã hội” của William Mc Guice thì “thái độ
và sự thay đổi thái độ vẫn là một trong những đề tài được nghiên cứu nhiều nhất
trong tâm lý học xã hội. Sự cố gắng của các nhà tâm lý học trong nghiên cứu về
thái độ nhằm hiểu rõ, dự đoán, kiểm soát và thay đổi hành vi của con người đã
mang lại rất nhiều kết quả”. Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng, thái độ là một khái
niệm tâm lý học khó xác định một cách chính xác. Vì vậy, mặc dù được nghiên
cứu nhiều nhưng còn gây nhiều tranh cãi (5, tr 317).
II. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ GIÁO DỤC SKSSVTN.
Chưa bao giờ GDGT, đặc biệt là GDSKSS được quan tâm nhiều như hiện
nay trên phạm vi toàn thế giới, nhất là sau 2 hội nghị quốc tế ở Cairo 1994 (dân số
và phát triển) và Bắc Kinh 1995 (diễn đàn phụ nữ) vì xã hội đã nhận thấy những
nguy cơ hiển nhiên của việc không coi trọng đúng mức ý nghĩa giáo dục và phòng
ngừa của bộ môn khoa học này, đặc biệt là những nước đang phải đối phó với
những vấn đề hành vi xã hội và hành vi tính dục của vị thành niên
ở một số nước trên thế giới vấn đề này đã trở thành môn học cụ thể trong
nhà trường. Giáo dục mối quan hệ nhân văn và có trách nhiệm giữa nam và nữ
(Nam Tư cũ)
- Giáo dục đời sống gia đình (Thái Lan)
- Vệ sinh tình dục (Thuỵ Điển)
Ở Thái Lan, vào giữa những năm 70, hoạt động tình dục ở thanh thiếu niên
tăng mạnh, vấn đề này làm đau đầu chính phủ ở thời kỳ đó. Trên 60% thiếu niên
nam quan hệ tình dục với bạn gái hoặc gái điếm. Chính phủ Thái Lan đã chấp
nhận triển khai chương trình giáo dục về SKSSVTN ở trường học.

Ở Trung Quốc, trên 20% nữ ở phổ thông có quan hệ tình dục dù nhà trường
giáo dục, răn đe nhiều, tuổi dậy thì sớm hơn bình thường. Vì thế, giáo dục giới
tính được đưa vào nhà trường năm 1985 với sự tham dự tích cực của học sinh.
10
Sự tiếp cận giáo dục SKSS ở Việt Nam bắt đầu từ thế kỷ 60, khi nhà nước
phát động cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch. Sau đó, với sự ra đời của các văn
bản luật hôn nhân- gia đình (1986), luật bảo vệ sức khoẻ (1989)… thì việc giáo
dục SKSS đã phát triển hơn dưới nhiều hình thức.
Những năm 80, Bộ giáo dục đã lắp ghép môn học gọi là giáo dục dân số,
một số vấn đề liên quan đến giới tính và sinh lý sinh sản, được giảng dạy ở cấp
phổ thông và đại học.
Đến năm 1988, qua dự án VIE/88/P09, GDSKSS mới được giảng dạy thử
nghiệm tại một số trường phổ thông ở 17 tỉnh, thành phố và sau đó được hoàn
chỉnh trong thời kỳ 1994- 1996, thông qua dự án VIE/94/P01, chú ý tới giáo dục
giới tính và phần nào tới GDSKSS (Nguyễn Quang Viện- Viện KHGD).
Như vậy, ở nước ta, giáo dục SKSS trở thành môn học trong nhà trường
phổ thông chưa lâu, và cho đến nay, không phải tất cả các trường PTTH ở Việt
Nam đều coi giáo dục giới tính là 1 môn học, nó chỉ áp dụng ở một số tỉnh, phố
lớn. Điều này không TLT với tầm quan trọng của nó, mà nó càng thúc giục ta
phải nâng cao vị trí của vấn đề đó lên sao cho xứng đáng với ý nghĩa thực tiễn của
nó.
B. CÁC KHÁI NIỆM LIÊN QUAN.
I. THÁI ĐỘ.
1. Định nghĩa thái độ: Thái độ cũng như nhiều khái niệm tâm lý khác, có
rất nhiều quan điểm khác nhau, không chỉ giữa các trường phái tâm lý lớn (TLH
Liên Xô- TLH Phương Tây- TLH Hành vi- TLH Macxit), ngay cả các nhà tâm lý
học cùng trường phái cũng chưa có sự thống nhất hoàn toàn. Cùng với rất nhiều
các nghiên cứu khác nhau về thái độ thì đồng thời cũng xuất hiện những định
nghĩa khác nhau của các nhà tâm lý học về thái độ.
Định nghĩa đầu tiên về thái độ được đưa ra bởi hai nhà tâm lý học người

Mỹ là W.L.Thomas và F.Znanieki vào năm 1918: “Thái độ là trạng thái tinh thần
của cá nhân đối với giá trị” (1, tr 318). Đến năm 1935, G.W.Allport cho rằng:
11
“Thái độ là trạng thái sẵn sàng về tinh thần và thần kinh được tổ chức thông qua
kinh nghiệm, sử dụng sự điều chỉnh mọi ảnh hưởng năng động trong phản ứng
của cá nhân với tất cả các khách thể và tình huống mà nó có mối quan hệ”.
T.Newcomb lại đưa ra định nghĩa: “Thái độ là thường hướng hoạt động
nhận thức, tư duy, cảm nhận của chủ thể với khách thể liên quan” (1, tr 319).
Theo đó, ông cho rằng thái độ nhận định đối với khách thể sẽ quy định sự sẵn
sàng phản ứng của chủ thể.
R.Martens thì định nghĩa: “Thái độ là xu hướng thường xuyên đối với các
tình huống xã hội, nó biểu thị sự thống nhất của ý nghĩ, tình cảm và hoạt động;
thái độ của con người có mối quan hệ chặt chẽ với hành vi bởi thái độ được xác
định bằng tính thống nhất bên trong (9, tr 16). Ông khẳng định thái độ là một cấu
trúc có hệ thống, thái độ được biểu hiện ra hành vi và thể hiện cho những ý nghĩ,
tình cảm bên trong của con người.
Miaxiev lại điều tra khái niệm thái độ dưới góc độ tâm lý học nhân cách:
“Thái độ là nòng cốt của nhân cách, là điều kiện khách quan bên trong của hệ
thống các hành vi của con người”.
Qua các khái niệm trên, ta thấy rõ các tác giả đều khẳng định khía cạnh tâm
lý cá nhân trong thái độ. Họ đều có chung quan điểm cho rằng thái độ là cái rất
riêng của cá nhân như là sự sẵn sàng ổn định của cá nhân hay là cơ thể. Những
thực sự thì thái độ không chỉ đề cập đến khía cạnh cá nhân, mà phải được xem xét
trong mối quan hệ với những yếu tố khác mang tính chất phức tạp và đa dạng của
xã hội, thậm chí ngay trong mỗi cá nhân đã bao hàm yếu tố xã hội.
Trong từ điển Tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên), cho rằng: “Thái độ là tổng
thể nói chung những biểu hiện ra bên ngoài (nét mặt, cử chỉ, lời nói, hành động)
có ý nghĩa, tình cảm của cá nhân đối với con người hay sự việc nào đó; là cách
nghĩ, cách nhìn, cách hành động theo một hướng nào đó trước một vấn đề…” (6,
tr 356).

12
Còn trong từ điển thuật ngữ tâm lý và phân tâm học thì cho rằng: “Thái độ
là một trạng thái ổn định bền vững, do tiếp thu được từ bên ngoài, hướng vào sự
ứng xử một cách nhất quán đối với một nhóm đối tượng nhất định, không phải
như chúng ra sao mà nhận thức ra sao, thái độ nhận biết ở sự nhất quán mà những
phản ứng đối với một nhóm đối tượng. Trạng thái sẵn sàng cao ảnh hưởng trực
tiếp lên xúc cảm và hành động có liên quan đến đối tượng” (7, tr 12). Từ điển tâm
lý học đã khẳng định: “Thái độ là những phản ứng tức thì tiếp nhận dễ dàng hay
khó khăn, đồng tình hay chống đối như đã có sẵn những cơ cấu tâm lý tạo ra định
hướng cho sự ứng phó” (8, tr 356). Rõ ràng, quan điểm của Việt Nam về thái độ
tương đối thống nhất với cách nhìn về vấn đề này trên thế giới.
Như vậy, cho dù nhìn nhận thái độ ở góc độ nào và hình thức diễn đạt có
khác nhau thì các nhà tâm lý học đều nghiên cứu thái độ từ quan điểm chức năng-
tức là thái độ định hướng hành vi ứng xử của con người với các vấn đề xã hội, là
trạng thái tinh thần được điều chỉnh và quy định tính sẵn sàng của phản ứng trên
cơ sở những nhận thức đã có về đối tượng. Điều này có nghĩa là về mặt lý luận
cũng như thực tiễn, có thể xem xét thái độ thông qua chức năng của nó đối với
hoạt động, hay nói cách khác: Con đường cơ bản để nghiên cứu thái độ là đi sâu
nghiên cứu những hành vi và hoạt động cụ thể của cá nhân.
2. Đặc điểm của thái độ.
Năm 1935, G.W.Allport đã đưa ra 5 đặc điểm chung của thái độ như sau:
- Thái độ là trạng thái nhận định của tinh thần và hệ thần kinh
- Thái độ thể hiện sự sẵn sàng phản ứng
- Thái độ là trạng thái có tổ chức
- Thái độ dựa trên kinh nghiệm thu được trước đó
- Thái độ có ảnh hưởng, tác động và điều khiển hành vi
Rubixtein- Nhà tâm lý học Liên Xô đưa ra 3 đặc điểm của thái độ:
13
- Thái độ là hệ thống các điều kiện bên trong đáp lại những tác động bên
ngoài và quy định hành vi cụ thể trong sự tác động qua lại với các điều kiện bên

ngoài.
- Thái độ luôn luôn phát triển trong sự phụ thuộc và tồn tại xã hội có thực
- Thái độ cần được coi như các hệ thống chức năng, xem xét về mặt sinh lý
học thần kinh.
3. Chức năng của thái độ.
Chúng ta có khả năng ứng xử trong các tình huống tâm lý khác nhau theo
công thức nhất định, phần nhờ kiểu mẫu thái độ xã hội mà chúng ta có. Nó có vai
trò rất lớn trong đời sống tâm lý, thái độ hình thành nhằm thoả mãn nhu cầu nào
đó của con người. Các nghiên cứu này cho rằng thái độ có những chức năng sau:
- Chức năng : Thể hiện ở việc chúng ta biết ứng xử như thế nào trong các
tình huống khác nhau một cách phù hợp để tiết kiệm thời gian và công sức.
- Chức năng thích nghi: Chúng ta thường sống trong nhóm nhất định, áp
lực của nhóm là rất lớn, làm chúng ta có xu hướng thoả hiệp hoặc a dua. Thái độ
giúp cá nhân hướng tới đối tượng, nhằm đạt mục đích bằng thái độ được mọi
người ủng hộ và chấp nhận.
- Chức năng biểu hiện: Là phương tiện giúp con người giải toả những ức
chế nội tâm và thể hiện mình như một nhân cách.
- Chức năng tự bảo vệ: Trong tình huống xung đột nội tâm, cá nhân thường
tìm cách tự bào chữa, tìm lý do giải thích để hợp lý hoá hành vi của mình. Điều
này dẫn tới sự thay đổi thái độ tương ứng. Thái độ mới giúp chúng ta tránh những
xung đột mới có thể xảy ra.
4. Cấu trúc của thái độ
Năm 1842, M.Smith đưa ra 3 thành phần trong cấu trúc thái độ . Cấu trúc
của thái độ bao hàm 3 mặt : nhận thức- Xúc cảm, tình cảm-Hành vi
Nhận thức : là quá trình lĩnh hội tri thức, kinh nghiệm của Xã hội loài
người, tuy nhiên nó không chỉ đơn thuần là sự tiếp nhận tri thức mà còn là cả quá
trình nhận biết khấm phá bản chất vấn đề. Nhận thức chính là sự hiểu biết của con
14
người về đối tượng cảu thái độ, cho dù sự hiểu biết đó là đúng hay sai, có tương
ứng hay không. Điều đó có nghĩa là khi một sự vật hiện tượng, một tình huống tác

động đến cá nhân, để có một thái độ nhất định đối với đối tưựng trước hết cá nhân
phải hiểu biết về nó. Quá trình nhận thức đối tượng cũng chính là quá trình tìm
tòi, khám phá đối tượng từ đó cá nhân có thái độ nhất định .
Cảm xúc – tình cảm: Là các cảm xúc, tình cảm cá nhân đối với đối với đối
tượng của thái độ . Tình cảm được hình thành trong quá trình tiếp cận với đối
tượng có ảnh hưởng của môi trường xã hội. Nó thể hiiện ở sự rung động, quá trình
tâm lí, hứng thú mạnh mẽ nỗ lực vượt qua . Trong cấu trúc thái độ thì xúc cảm –
tình cảm là thành phần vô cùng quan trọng, kích thích vào chủ thể hoạt động và
đánh giá hạt động của mình. Tình cảm tích cực có thể hình thành nên một thái độ
tích cực và ngược lại. Tình cảm tạo nên sự thích hay không thích, quan tâm không
quan tâm của cá nhân đối với sự vật hiện tượng. Tình cảm cs nhân hay việc nhận
thức các tình cảm đó và thể hiện chúng là điều kiện quan trọn của việc hình thành
thái độ và điều khiển hành vi của cá nhân.
Hành vi: Là những hoạt động hay ý định hoạt động mà chủ thể sẽ ứng xử
với đối tượng, là hệ thống biểu hiện của thái độ tuy đôi khi giữa thí độ và hành vi
có mâu thuẫn. Thái độ và hành vi luôn có sự quy định và ảnh hưởng lẫn nhau,
hành vi là một phần cảu thái độ, còn thí độ muốn biểu hiện phải thông qua hành
vi, hay nói cách khác: hành vi là thái độ bên ngoài. Đó chính là sự thống nhất của
chúng, nhưng cũng có khi xảy ra mâu thuẫn: có khi thái độ tiêu cực nhưng hành
vi lại tích cực và ngược lại. Đây chính là cơ sở cho ra đời những thuyết nói về
mối quan hệ giữa thái độ và hành vi như thuyết bất đồng nhận thức (Festinger),
thuyết tự tri giác (Paryl Ben).
Ba thành phần này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, sự thống nhất giữa
chúng tạo nên thái độ xác định của chủ thể, là cơ sở cho việc xây dựng các thang
đo về thái độ.
Cấu trúc của tháI độ được biểu hiện như sau:
15
Cấu trúc này được phần lớn các nhà Tâm lý học tán thành. Việc chúng tôi
nghiên cứu thái độ của các em học sinh phổ thông cũng xoay quanh những vấn đề
cơ bản trên. Cụ thể đó là muốn đánh giá chính xác và sâu sắc thái độ của các em

học sinh phổ thông khi được giáo dục SKSSVTN trong nhà trường thì phải thông
qua nhận thức, xúc cảm - tình cảm và hành động của các em đó.
5. Các yếu tố quyết định đến sự hình thành và phát triển thái độ:
Một số ý kiến cho rằng thái độ là bẩm sinh (VD: Thích khoái cảm hơn đau
đớn). Tuy nhiên, đa số các nhà Tâm lý học đều cho rằng phần lớn thái độ dược
hình thành trong quá trình phát triển nhân cách. Có rất nhiều yếu tố quyết định đối
với sự hình thành và phát triển thái độ, trong đó có 4 yếu tố cơ bản sau đây:
5.1. Thái độ của cá nhân hình thành trong quá trình thoả mãn nhu cầu
Con người hình thành và phát triển các thái độ nhằm thoả mãn các nhu cầu
của mình. Người ta sẽ hình thành thái độ tích cực với khách thể có lợi, tiêu cực
với các khách thể có hại trên con đường đạt tới mục đích nào đó để thoả mãn các
nhu cầu với khách thể có lợi, tiêu cực với các khách thể có hại cho họ trên con
đường đạt tới mục đích nào đó để thoả mãn các nhu cầu nhất định của họ. Thực tế
thái độ có thể phục vụ cho nhiều mục đích khác nhau do đó có các nhu cầu khác
nhau có thể hình thành trên một thái độ.
5.2. Thái độ của cá nhân được hình thành trong quá trình lĩnh hội các
thông tin
Các thông tin mới thường hình thành nên các thái độ: phù hợp, hài hoà với
các thái độ có liên quan đã tồn tại trước đó (theo Cartwright, D , & Hanary, F :
of Herder’s theory). Tuy nhiên không phải thái đô nào cũng phản ánh đúng thực
tế, ví dụ: thái độ thành kiến, khuôn mẫu, mê tín dị đoan, ảo tưởng , những kiểu
thái độ không có tính hợp lí, thiếu thông tin hoặc thông tin sai lệch (do cố tình
hoặc cố ý). Các loại thông tin này còn nguy hiểm hơn là không có thông tin.
16
Thông thường với mọi người những thông tin chính thức qua các phương tiện
thông tin đại chúng có ảnh hưởng rất lớn tới việc hình thành thái độ của cá nhân,
nhóm.
5.3. Giao tiếp nhóm là một trong những yếu tố quyết định quá trình hình
thành thái độ của cá nhân
Mỗi cá nhân là thành viên của nhiều nhóm khác nhau. Thái độ của các

nhóm thường phản ánh niềm tin, giá trị, chuẩn mực của nhóm mà anh ta là thành
viên. Sở dĩ có sự khác nhau là do niềm tin của họ khác nhau. Giá trị mà cả nhóm
theo đuổi chắc chắn có ảnh hưởng đến việc hình thành thái độ của các thành viên
trong nhóm. Chuẩn mực nhóm không chỉ xác định thái độ nào là “đúng”, “sai”
nữa. Thông qua cơ chế thưởng phạt nó tạo ra một áp lực ép các cá nhân phải tuân
theo. Chúng ta thường được thưởng (động viên khuyến khích vật chất hay tinh
thần) khi có thái độ đúng và ngược lại bị trừng phạt khi có thái độ sai. Các nhà
tâm lí học xã hội đều cho rằng vai trò của nhóm, nhất là nhóm nhỏ (gia đình, bạn
bè rất quan trọng) trong việc hình thành ý thức cá nhân. Nhưng các cá nhân các
thái độ phổ biến trong nhóm một cách có chọn lựa trong quá trình thoả mãn các
nhu cầu của chính cá nhân và ở đây nhân cách đóng vai trò quan trọng.
5.4. Nhân cách và sự hình thành thái độ của cá nhân.
Sự khác nhau về nhân cách của cá nhân dẫn tới cá nhân có thể tiếp nhận
thái độ của nhóm một cách có lựa chọn và theo mức độ, cách thức khác nhau. Qua
nhiều nghiên cứu mối quan hệ giữa nhân cách và thái độ tôn giáo, nhân cách và
chủ nghĩa dân tộc trung tâm có thể kết luận nhân cách có xu hướng tiếp nhận
phù hợp với nhân cách của mình.
Tuy nhiên, nhân cách con người không phải là một hệ thống hoàn toàn
thống nhất. Do đó nhân cách có thể tiếp nhận các thái độ mâu thuẫn lẫn nhau bởi
sự giao tiếp trong các nhóm xung đột nhau, cũng có thể bởi cả sự xung đột các
nhu cầu của chính nhóm đó.
17
Tóm lại, từ việc xem xét các nhân tố hình thành thái độ nói trên ta có thể
kết luận thái độ chủ yếu được hình thành bởi các yếu tố xã hội.
Nước ta đang trên đà phát triển và mở cửa nên du nhập nhiều lối sống văn
hoá và tư tưởng của nhiều nước khác nhau. Những con số về sự gia tăng số lượng
nạo thai ở các em gái tuổi vị thành niên đã làm cho các bậc cha mẹ và những
người có trách nhiệm lo ngại cho tương lai SKSS của các em. Tuy nhiên, những
phát hiện ban đầu về nguyên nhân, quan niệm về tình dục, lối sống, trạng thái tâm
lí của các em gái đi nạo thai cũng như những hoàn cảnh mà các em phải chịu

đựng khi đi đến quyết định này còn đáng quan tâm nhiều hơn nữa và một lần nữa
chứng minh sự cần thiết phải sớm giáo dục giới tính - một trách nhiệm của người
lớn với lứa tuổi vị thành niên. Trong một cuộc điều tra ở Việt Nam về thái độ của
thanh thiếu niên với vấn đề quan hệ tình dục cho thấy: 18% vị thành niên trong độ
tuổi 15 - 18 cho rằng ở tuổi họ, chuyện quan hệ tình dục không có gì quan trọng
miễn là cả hai cùng chấp nhân; 30% cho rằng tình yêu không thể thiếu yếu tố tình
dục (theo báo Giáo dục và Thời đại, số 52, năm 1996). Nhiều em còn coi chuyện
quan hệ tình dục là tất nhiên và bình thường nên đã bước vào quá sớm và quá dạn
dĩ đối với việc nạo thai. Điều tra của Đoàn thanh niên cho biết nhiều em không
biết mình có thai sau khi quan hệ tình dục, đến khi thai lớn mới biết. Điều tra ở
Thái Bình (1993) thấy 1/3 số trường hợp nạo thai muộn ở bệnh viện tỉnh là thanh
thiếu niên.
2. Những nguy cơ dễ xảy ra khi vị thành niên quan hệ tình dục sớm.
*. Mang thai và sinh đẻ sớm:
Những cô gái trẻ lỡ mang thai thường phải đối diện với nhiều sự lựa chọn
khắc nghiệt: giữ thai buộc bạn trai phải cưới hay phá thai để tránh tai tiếng và khó
khăn. Những thai nghén ở các bạn gái trẻ thường dễ bị đẻ non và tỉ lệ tử vong cao.
Nguy cơ cho thai nhi của các cô gái trẻ còn do bệnh của bạn tình đem lại (nhất là
HIV), do họ tìm mọi cách phá thai bằng thứ thuốc có hại, nên tăng tỉ lệ dị tật của
18
thai, tăng tỉ lệ tử vong của trẻ có mẹ quá trẻ, lớn hơn 30% so với trẻ có mẹ lớn
tuổi.
*. Nạo thai không an toàn:
Nạo thai không an toàn nghĩa là khi thủ thuật này không được thực hiện bởi
những người không được trang bị đầy đủ kĩ năng và tại cơ sở không có điều kiện
tốt, nên rất nguy hiểm cho sức khoẻ, thậm chí đe doạ tính mạng. Theo tạp chí
SKSS (1998), ước tính nạo thai ở tuổi 15 - 19 ít nhất cũng có khoảng 5 triệu ca
trong tổng số ước đoán là 50 triệu ca phá thai hàng năm (tức là chiếm 10% không
an toàn).
*. Các bệnh lây truyền qua đường tình dục: là hậu quả của hành vi tình dục

sớm. Các bệnh lây truyền tình dục là nguyên nhân chính của sự nhiễm khuẩn bộ
máy sinh sản. Theo tổ chức y tế thế giới (WHO): hàng năm có khoảng 250 triệu
trường hợp bị nhiễm các bệnh lây truyền tình dục, chiếm tỉ lệ cao ở nhóm 20 - 24
tuổi, sau đó là nhóm 15 - 19 tuổi. thanh thiếu niên có nguy cơ cao bị lây nhiễm
các bệnh lây truyền tình dục vì tỉ lệ bước vào tình dục sớm gia tăng và ít khi có sử
dụng biện pháp tránh thai. Nhiều bệnh nhân AIDS đã nhiễm HIV cũng làm lây
nhiễm sang bạn tình. Thanh thiếu niên dễ bị rơi vào hoàn cảnh nguy cơ vì họ có
thể là người kế tiếp của cuộc tình “sét đánh” nhưng ngắn ngủi (các em gái đang
độ tuổi vị thành niên là đối tượng có nguy cơ hơn các em trai về mặt lây nhiễm
các bệnh lây truyền tình dục và AIDS). Nhiều thanh thiếu niên còn dùng bao cao
su không đúng cách và thiết hiểu biết về các bệnh lây truyền tình dục này, khi đã
mắc bệnh lại chậm trễ hoặc không tìm đến nơi điều trị bệnh đáng tin cậy, do đó
càng lây truyền bệnh.
*. Bệnh ung thư cổ tử cung.
Nhiều nghiên cứu cho thấy các em gái hoạt động tình dục sớm có tỉ lệ cao
bị biến đổi bất thường ở lớp tế bào che phủ cổ tử cung và có thể dẫn tới ung thư.
Các em có nguy cơ cao bị nhiễm vi rút HPV (gây sùi ở đường tình dục) - loại vi
19
rút đã được biết rõ làm thay đổi tế bào cổ tử cung, từ đó phát sinh ra ung thư. Các
nhà nghiên cứu khuyên phụ nữ nói chung, nhất là các em gái có quan hệ tình dục
sớm cần định kì đi làm xét nghiệm tế bào cổ tử cung (pap smear) để phát hiện
những tế bào bất thương và cắt bỏ tránh khi chúng trở thành ác tính.
3 . Hậu quả tâm lí của những sự cố nói trên.
Người con gái chưa đủ 18 tuổi, hầu hết đang độ tuổi học phổ thông, kiến
thức khoa học cũng như kinh nghiệm sống còn quá ít ỏi, lại chưa thực sự trưởng
thành về mặt tâm - sinh lí cho nên họ là những người dễ bị tổn thương, dễ đi đến
các quan điểm tiêu cực (tự sát, buông thả, trầm cảm ) khi có những khủng
hoảng, bế tắc trong cuộc sống. Một cô gái mới lớn khi mang thai ngoài ý muốn
thường phải nạo thai. Xong việc thì hậu quả được giải quyết, nhưng còn ảnh
hưởng tâm - sinh lí và các tác động xã hội lên tinh thần còn non nớt như vậy sẽ ra

sao? Liệu họ có thể trưởng thành một cách bình thường?
II. KHÁI NIỆM HỌC SINH PHỔ THÔNG TRUNG HỌC.
1. Quan niệm về lứa tuổi.
Trong các lĩnh vực nghiên cứu, có rất nhiều quan điểm khác nhau về lứa
tuổi như sau:
- Quan điểm sinh vật: coi yếu tố dầu tiên để xác định lứa tuổi là sự tiến hoá
của cơ thể. Các quá trình sinh vật của sự trưởng thành quyết định mọi cái
khác.
- Quan điểm xã hội học: các nhà xã hội học chú ý hết sức đến tính xã hội hoá
và coi mức độ xã hội hoá của cá thể là tiêu chí quyết định sự phát triển.
- Quan điểm phân tâm học: các nhà phân tâm học quan tâm nhiều đến tính
dục, coi nó là nhân tố chi phối sự phát triển của lứa tuổi này.
- Quan điểm tâm lí học: các nhà lí luận tâm lí học tập trung vào quy luật tiến
hoá của tâm lí, ý thức là cái cơ bản quy định sự phát triển.
20
Ta biết rằng học sinh PTTH nằm trong độ tuổi 15 - 18. Có rất nhiều cách
gọi tên giai đoạn lứa tuổi này như:
+ Tuổi vị thành niên (Vũ Dũng - tâm lí học tuổi vị thành niên trên tạp chí
tâm lí học số 4 (8 -1998)).
+ Tuổi chưa thành niên (luật dân sự, điều 119; luật lao động, điều 1; nghị
định 141/HĐBT 13-11-1986).
+ Tuổi khủng hoảng, tuổi bất trị (tâm lí học phát triển).
2. Đặc điểm tâm - sinh lí lứa tuổi.
Bất cứ một con người nào để đánh giá một cách chính xác đều phải xem xét
cả hai mặt nội dung và hình thức. Và trong sự phát triển con người, hai yếu tố tâm
lí và sl không thể tách rời, đặc biệt là giai đoạn có nhiều biến chuyển mà được
Xoll (Mĩ) so sánh với “thời kĩ lãng mạn” trong lịch sử loài người, đó là lứa tuổi vị
thành niên, mà học sinh phổ thông th thuộc giai đoạn lứa tuổi này.
*. Về mặt sinh lí: học sinh phổ thông th phát triển cơ thể rất nhanh cả về
chiều cao và cân nặng (xương, cơ, trọng lượng). Đồng thời có sự phát triển khá

hoàn chỉnh về mặt tính dục - điều này ảnh hưởng lớn tới đời sống tâm lí của các
em.
*. Về tâm lí: đây là giai đoạn giữa tuổi thơ và tuổi trưởng thành (cao hơn
tuổi thơ, nhưng chưa đủ độ chín để đảm bảo có thể nhận thức và hoạt động được
như người lớn). Tâm lí của các em chưa ổn định, dễ bị khủng hoảng, dễ bị tác
động bởi nhóm. Đó chính là nguyên nhân dẫn tới hành vi sai lệch nếu gia đình và
nhà trường buông lỏng quản lí.
*. Về nhận thức:
Nhận thức của các em còn hạn chế, thiếu kinh nghiệm sống, khả năng đánh
giá đúng sự việc còn ít. Vì thế, các em có nhu cầu lớn về tìm hiểu cuộc sống và
giao tiếp bạn bè.
21
Giai đoạn này là thời kì chuyển tiếp, các em luôn có cảm giác mình đã
trưởng thành và muốn trưởng thành. Các em thường đặt ra những câu hỏi trong
đầu: Tôi là ai? Tôi có thể làm gì? Tôi là người như thế nào? Và đó chính là cơ
sở nảy sinh những mâu thuẫn như sau:
+ Mâu thuẫn giữa khả năng thực tế có hạn với nhu cầu quá hạn.
+ Mâu thuẫn giữa sự đánh giá về bản thân với sự tin tưởng của người lớn.
Bên cạnh đó, nhu cầu biểu hiện ý thức về cá tính của trẻ rất lớn: muốn mình
được người khác thừa nhận, thích cảm giác mới lạ Đây là cơ sở hình thành
phẩm chất tâm lí tích cực: hăng hái, nhiệt tình trong học tập và quan hệ xã hội,
ham hiểu biết, thích thử nghiệm bản thân để khẳng định mình. Những ý tưởng
sáng tạo và táo bạo sẽ xuất phát từ tác động tích cực đến sự phát triển nhân cách
(nếu có sự định hướng và quan tâm tốt). Đó cũng là nguyên nhân dẫn tới hành vi
lệch chuẩn như tò mò, thích cảm giác mới lạ. Đồng thời hình thành phẩm chất tâm
lí có ảnh hưởng tiêu cực, như dễ bị kích động, hành vi mang tính bản ngã chưa
được kiểm soát bởi cái siêu tôi (chuẩn mực xã hội).
Mặt khác, cũng cần thấy rằng vị thành niên ngày nay đang sống trong thời
đại hậu công nghiệp, thời đại của tin học và giao lưu văn hoá. Nhiều giá trị mới đã
hình thành ở những nước đã phát triển và đang được chấp nhận trên toàn thế giới.

Tuổi vị thành niên và tuổi tuổi được coi là người lớn được quan niệm khác nhau ở
mỗi nền văn hoá và mỗi thời đại. Nhưng có một thực tế là tuổi trẻ hiện nay chịu
nhiều ảnh hưởng xã hội bên ngoài, chúng nhìn vào bạn bè hơn là nhìn vào cha mẹ
để hình thành các giá trị, hoài bão và các kiểu hành vi Tuổi này cũng bắt đầu
tuổi yêu đương và tình yêu học trò phát triển nhẹ nhàng, hồn nhiên vì thiếu hiểu
biết về sinh lí sinh sảng và kĩ năng sống nên các em dễ vấp phải nhiều sự cố tới
sức khoẻ. Tình dục giờ đây cũng được nhìn nhận như một thực thể sức khoẻ và
con người cần được đảm bảo những quyền về tình dục. Thời đại ngày nay còn đặc
trưng là sự gia tăng sức ép dân số gây cản trở cho sự phát triển của xã hội và nâng
22
cao chất lượng dân số, xuất hiện đại dịch AIDS, các căn bệnh xã hội và nạn ma
tuý - nỗi lo cho con em và thế hệ mai sau của toàn nhân loại. Do đó, cách tiếp cận
những vấn đề của thanh thiếu niên không thể không tính đến bối cảnh này.
Như vậy, đặc trưng tâm lí và môi trường sống là những yếu tố quy định
đời sống xã hội chi phối đến nhiều mặt cuộc sống của con người mà theo chúng
tôi, nó ảnh hưởng lớn tới một vấn đề nào đó. Vì thế, khi nghiên cứu thái độ của
các em không thể bỏ qua đời sống tình cảm, đặc trưng tâm lí lứa tuổi của chúng
và đặc biệt là hoàng cảnh chúng sống có tác động về mặt tâm lí ra sao. Nắm rõ
được điều này, chúng ta như có một chiếc chìa khoá để mở cánh cửa đi vào tìm
hiểu các khía cạnh trong thái độ của các em để có những đánh giá xuất sắc nhất.
II. KHÁI NIỆM GIÁO DỤC SKSSVTN.
Giáo dục SKSSVTN là một chủ đề giáo dục lớn trong nhiều năm qua nhằm
thúc đẩy cuộc vận động kế hoạch hoá gia đình, phòng chống lây nhiễm
HIV/AIDS. Giáo dục SKSSVTN là nội dung lớn và rất quan trọng trong giáo dục
giới tính. Để có cái nhìn sâu hơn về thuật ngữ này, trước hết ta đi vào tìm hiểu về
khái niệm giáo dục giới tính.
1. Giáo dục giới tính là gì.
- Theo Đào Xuân Dũng (trung tâm nghiên cứu giới và gia đình): giáo dục
giới tính là môn học nhằm chuẩn bị cho thanh thiếu niên những hiểu biết để bước
vào đời, để biết ứng xử với nhau và với mọi người một cách tôn trong và có trách

nhiệm, để biết tự bảo vệ SKSS.
Môn học này đưa vào nhiều trường tuy sớm muộn khác nhau ở các nước
trên thế giới, những có điểm chung giống nhau là cộng đồng đi tới sự chấp nhận
của xã hội đều vất vả, gian nan (ngay cả ở Mĩ, Thuỵ Điển).
23
Có một thực tế là chúng ta vẫn chưa định hình được một chương trình giáo
dục giới tính đích thực và phù hợp với nền văn hoá dân tốc và xu thế phát triển
mới của xã hội ta.
- Mục đích của môn học là xác định nhân cách vị thành niên để phù hợp với
yêu cầu, . Nhưng điểm khác biệt của giáo dục giứoi tính với môn học khác
là ở chỗ: giáo dục giới tính định hướng mối quan hệ lành mạnh và có trách
nhiệm giữa nam và nữ, dạy cho họ biết cách ứng xử trước các vấn đề tình
dục và sinh sản, nâng cao sự hiểu biết về chính cơ thể mình, về những nguy
cơ tình dục không an toàn để từ đó biết tự bảo vệ (Trang 10, giáo dục giới
tính vì sự phát triển của vị thành niên, trung tâm nghiên cứu giới và gia
đình).
- Giáo dục giới tính gồm những nội dung sau:
+ Ứng xử của mỗi giới
+ Cách ăn mặc, thái độ, cử chỉ.
+ SKSS
+ Sự thay đổi về đặc điểm thể chất
+ Khác biệt cơ thể nam, nữ
+ Biến đổi xúc cảm, tình cảm giữa nam - nữ.
Trong giáo dục giới tính, những kiến thức về SKSS và sức khoẻ tình dục rất
cần thiết, nhưng mục đích giáo dục của nó không toàn diện như giáo dục giới tính
mà chỉ giúp cho vị thành niên biết tự bảo vệ mình, biết tôn trọng mối quan hệ nam
nữ bình đẳng và có trách nhiệm.
2. Giáo dục SKSSVTN.
Hiện nay, những vấn đề liên quan đến SKSSVTN đang nổi lên như là
những quan tâm lớn của cộng đồng, không riêng ở nước ta mà ở nhiều nước trong

khu vực và trên thế giới. Ngoài vấn đề giáo dục SKSS nằm trong giáo dục chính
24
thức thuộc công tác giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, thì giáo dục SKSS là thực sự
cần thiết trong chiến lược kiểm soát dân số và bảo vệ sức khoẻ con người.
Mối quan tâm lớn của xã hội đối với SKSSVTN nói chung đã được xác
định rõ qua bốn tiêu chí sau:
+ Những hiểu biết về sự phát triển tính dục.
+ Quan hệ tình dục sớm, dẫn tới nạo phá thai không an toàn và chấn thương
tâm lí.
+ Các bệnh có nguy cơ lây nhiễm qua đường tình dục.
+ Công tác kế hoạch hoá gia đình và phòng chống lây nhiễm HIV/AIDS.
Sở dĩ, giáo dục SKSS được cộng đồng hết sức quan tâm vì hai lí do sau:
*. Bối cảnh xã hội hiện đại có nhiều nguy cơ đe doạ SKSS của vị thành
niên.
Đất nước đang trên đà phát triển, nhiều hoàn cảnh cám dỗ và tiêu cực ảnh
hưởng xấu đến sự phát triển của vị thành niên (đua đòi hưởng thụ, xa rời truyền
thống văn hoá dân tộc ), sự đe doạ thường trực của nguy cơ lây nhiễm
HIV/AIDS mà vị thành niên chưa ý thức được đầy đủ; sự cần thiết phải khống chế
gia tăng dân số mà vị thành niên cần phải được giáo dục để có thể nhập cuộc có
hiệu quả. Những nỗ lực của xã hội nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống, bảo vệ
giống nòi và nếp sống có văn hoá càng đòi hỏi quan tâm đến SKSS. Những điều
tra, kiểm soát ở nước ta trong những năm gần đây về hành vi tình dục vị thành
niên đã cung cấp những thông tin đáng lo ngại: tỉ lệ nạo phá thai tăng, mang thai
và sinh đẻ sớm với những biến chứng tức thì và lâu dài của những động thái này.
Nếu vị thành niên hành động sai lệch với giá trị văn hoá và đạo đức thì sẽ ảnh
hưởng đến nhiều mặt của đời sống như sức khoẻ, đạo đức, phong tục tập quán,
chất lượng nòi giống, kiểm soát dân số và mối quan hệ nam nữ lành mạnh.
25

×