Tải bản đầy đủ (.doc) (81 trang)

tiểu luận Bước đầu tìm hiểu thực trạng vấn đề hướng nghiệp cho con cái của các bậc cha mẹ huyện Văn Giang– tỉnh Hưng Yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.73 MB, 81 trang )

Báo cáo thực tập Đỗ Thị Hường K49
TLH Tại chức
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Nghề nghiệp là một vấn đề quan trọng trong cuộc đời mỗi con người.
Việc có được nghề nghiệp phù hợp với năng lực, sở thích của cá nhận và nhu
cầu của xã hội sẽ giúp cho mỗi cá nhân có thể phát triển được tài năng, theo đó
tạo ra năng suất chất lượng lao động cao. Đây cũng là điều kiện quan trọng hàng
đầu để đảm bảo cuộc sống cá nhân, cũng như góp phần nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, đảm bảo sự cân đối giữa đặc điểm của cá nhân với yêu cầu của
nghề nghiệp và nhu cầu của xã hội đối với các ngành nghề. Sự cân đối này sẽ
góp phần tạo nên sự ổn định phát triển xã hội.
Khoản 1, điều 20 Bộ luật lao động của nước ta đã ghi: “Mọi người có
quyền tự do chọn nghề và học nghề phù hợp với nhu cầu việc làm của mình”. Vì
thế mọi thanh niên đều có quyền lựa chọn con đường vào đời, vào nghề một
cách tự nguyện, tự giác mà xã hội đã giành cho mình. Song, ở lứa tuổi thanh
niên mà nhất là lứa tuổi 17 – 18 không phải bất cứ ai và bất cứ lúc nào cũng có
thể trả lời được câu hỏi sau khi tốt nghiệp PTH mình sẽ “đi đâu”, làm “nghề gì”.
Những quyết định chọn nghề của thanh niên nói chung và của học sinh PTTH
nói riêng bị đan xen bởi những mâu thuẫn không dễ gì tháo gỡ được. Đó là mâu
thuẫn giữa những ước mơ, nguyện vọng nghề nghiệp của bản thân với mong
muốn, định hướng của cha mẹ, với nhu cầu nhân lực của xã hội; mâu thuẫn giữa
ước mơ học Đại học với số lượng hạn chế mà nhà trường Đại học có thể tiếp
nhận Hơn nữa khi bước vào đời, các em học sinh còn chưa có được những thái
độ đúng đắn trước khi lựa chọn nghề nghiệp cho bản thân mình, các em chưa
thấy được nghề nào trong xã hội cũng là cao quý, chưa thấy được và còn định
kiến với những nghề bình thuờng, và chỉ chú ý quan tâm tới những nghề mà
theo các em đó là những nghề thời thượng, vinh quang và cao quý. Từ đây có
thể dẫn đến rất nhiều sai lầm khi các em chọn nghề. Vấn đề đặt ra là: làm thế
nào để giúp các em học sinh có được sự lựa chọn nghề một cách đúng đắn và
khoa học, tức sự lựa chọn đó vừa phù hợp với nhu cầu, nguyện vọng, năng lực


cá nhân vừa phù hợp với nhu cầu nhân lực của nền kinh tế đất nước. Chỉ có một
Hướng nghiệp cho con cái của các bậc cha mẹ huyện Văn Giang - Tỉnh Hưng Yên
1
Báo cáo thực tập Đỗ Thị Hường K49
TLH Tại chức
hoạt động giúp các em học sinh có được sự lựa chọn nghề một cách đúng đắn,
khoa học khi chọn nghề, đảm bảo các yêu cầu nói trên, đó là công tác hướng
nghiệp.
Rõ ràng, vấn đề nghề nghiệp đang trở nên tối quan trọng. Nó không chỉ
ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống tương lai của một cá nhân, mà còn ảnh hưởng
đến gia đình, đến lợi ích của cộng đồng và của cả đất nước. Trong thế kỉ XXI
này, nghề nghiệp trong xã hội có những chuyển biến nhiều so với các giai đoạn
trước đây. Nó trở nên phong phú hơn, đa dạng hơn và đặt các bạn trẻ đứng
trứớc những sự lựa chọn và thách thức để có thể lựa chọn cho mình một nghề
nghiệp phù hợp. Xã hội mới, thế giới nghề nghiệp mới đòi hỏi mỗi người phải
có trong tay ít nhất một nghề và biết được nhiều nghề, có khả năng di chuyển
nghề nghiệp, có năng lực, tự tạo được việc làm trong bất kì hoàn cảnh sống nào.
Vì vậy, các bạn trẻ nhất thiết phải lựa chọn riêng cho mình một nghề nghiệp một
cách đúng đắn.
Để làm được điều này, các bạn trẻ rất cần tới sự hướng dẫn của những
người có kinh nghiệm. Sự trợ giúp đó là rất cần thiết để mỗi thanh niên có thể tự
lựa chọn cho mình một nghề nghiệp phù hợp. Nói khác đi đó chính là công tác
hướng nghiệp. Chủ thể điều khiển của hoạt động hướng nghiệp cho học sinh có
thể là nhà trường, gia đình, các tổ chức xã hội, trung tâm hướng nghiệp và các
nhóm không chính thức khác của học sinh. Xung quanh việc hướng nghiệp cho
các em học sinh có rất nhiều ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng việc hướng
nghiệp cho các em học sinh là vai trò chỉ thuộc về riêng nhà trường thầy cô giáo.
Cũng có ý kiến khác lại cho rằng: “Học sinh PTTH ngày càng ít chịu ảnh hưởng
của gia đình trong định hướng nghề nghiệp của mình. Gia đình hiện đại theo xu
thế mới là để con em mình tự giải quyết lấy nghề nghiệp trong tương lai”.

Những ý kiến đó đều hạ thấp hay không quan tâm đúng mức đến vai trò của gia
đình, nhất là các bậc cha mẹ với tư cách là chủ thể hướng nghiệp cho con cái.
Vì vậy, điều cần thiết hiện nay là phải có những nghiên cứu khoa học cần
làm sáng tỏ cơ sở lý luận và tìm hiểu thực trạng vấn đề hướng nghiệp cho con
cái của các bậc cha mẹ. Từ đó đưa ra những luận cứ khoa học và những biện
Hướng nghiệp cho con cái của các bậc cha mẹ huyện Văn Giang - Tỉnh Hưng Yên
2
Báo cáo thực tập Đỗ Thị Hường K49
TLH Tại chức
pháp hữu hiệu giúp các bậc cha mẹ có thể làm tốt vai trò của mình trong công
tác hướng nghiệp cho con cái, để con cái có được sự lựa chọn đúng đắn trong
thế giới nghề nghiệp. Với những lý do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài: “Bước
đầu tìm hiểu thực trạng vấn đề hướng nghiệp cho con cái của các bậc cha mẹ
huyện Văn Giang– tỉnh Hưng Yên” làm đề tài nghiên cứu khoa học của mình.
2. Đối tượng nghiên cứu:
Thực trạng vấn đề hướng nghiệp cho con cái của các bậc cha mẹ huyện
Văn Giang– tỉnh Hưng Yên.
3. Mục đích nghiên cứu:
Chỉ ra thực trạng vấn đề hướng nghiệp của các bậc cha mẹ huyện Văn
Giang– tỉnh Hưng Yên.
Đề xuất một số khuyến nghị, giải pháp góp phần nâng cao vai trò và hiệu
quả của công tác hướng nghiệp cho con cái của các bậc cha mẹ tại địa phương
nhằm giúp các em hóc sinh có được những lựa chọn nghề nghiệp đúng đắn, phù
hợp sau khi tốt nghiệp.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu:
4.1. Nghiên cứu lý luận: Làm sáng tỏ một số khái niệm có liên quan đế
đề tài:
- Khái niệm nghề nghiệp.
- Sự lựa chọn nghề nghiệp
- Khái niệm hướng nghiệp và bản chất tâm lý của hoạt động nghề nghiệp.

- Một số đặc điểm tâm lý của các bậc cha ẹm có con học bậc PTTH
( nhất là học lớp 12).
4.2. Nghiên cứu thực tiễn:
Nghiên cứu thực trạng vấn đề hướng nghiệp của các bậc cha mẹ huyện
Văn Giang– tỉnh Hưng Yên trên các mặt nhận thức, tình cảm, hành vi cụ thể. Từ
đó đề xuất một số khuyến nghị dựa trên cơ sở kết qủa nghiên cứu thực tiễn của
đề tài.
Hướng nghiệp cho con cái của các bậc cha mẹ huyện Văn Giang - Tỉnh Hưng Yên
3
Báo cáo thực tập Đỗ Thị Hường K49
TLH Tại chức
5. Khách thể và phạm vi nghiên cứu:
120 bậc cha mẹ có con học lớp 12 ở huyện Văn Giang– tỉnh Hưng Yên.
Trong đó:
Xã Lê Lợi: 40 bậc cha mẹ
Xã Đình Phùng: 30 bậc cha mẹ
Xã Nam Cao: 30 bậc cha mẹ
Xã Hồng Thái: 20 bậc cha mẹ
6. Phương pháp nghiên cứu:
6.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Chúng tôi nghiên cứu các tài liệu
có liên quan đến các kái niệm công cụ của đề tài.
6.2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: Chúng tôi tiến hành điều tra
bằng bản hỏi với các câu hỏi đóng, mở nhằm thu thập thông tin làm cơ sở thực
tế cho đề tài.
6.3. Phương pháp phỏng vấn sâu: Để có thêm thông tin cho đề tài một
cách chân thực và rõ ràng, chúng tôi tiến hành đưa ra một số câu hỏi phỏng vấn
sâu một số bậc cha mẹ tại địa phương.
6.4. Phương pháp thống kê toán học: Chúng tôi sử dụng phuơng pháp
này để xử lý những số liệu thu được từ kết quả điều tra.
7. Gỉa thuyết nghiên cứu:

Theo nhận định ban đầu, chúng tôi đưa ra một số giả thuyết:
- Đa phần các bậc cha mẹ huyện Văn Giang– tỉnh Hưng Yên đã có những
biểu hiện tích cực đối với việc hướng nghiệp cho con cái.
- Một số bậc cha mẹ chưa nhận thức đầy đủ và sâu sắc về vấn đề định
hướng nghề nghiệp cho con cái nên chưa có thái độ tích cực hoặc có thái độ sai
lệch về vấn đề này.
Hướng nghiệp cho con cái của các bậc cha mẹ huyện Văn Giang - Tỉnh Hưng Yên
4
Báo cáo thực tập Đỗ Thị Hường K49
TLH Tại chức
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề:
Vấn đề hướng nghiệp là đối tượng nghiên cứu được nhiều nhà tâm lý học
trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Có thể điểm một số nghiên cứu tiêu
biểu từ trước đến nay về vấn đề này.
Năm 1849, ở Pháp đã cho ra đời cuốn chỉ dẫn về chọn nghề, trong đó có
phân tích các nghề và những năng lực cần thiết để nắm vững nghề.
Năm 1908, Giáo sư của trường Đại học Harvard (Mỹ) là F.Parsons đã
thành lập hội đồng hướng nghiệp ở Boston. Năm 1910, một hội đồng hướng
nghiệp tương tự ở Newyork cũng được thành lập. Nhiệm vụ của các hội đồng
hướng nghiệp này là nghiên cứu các yêu cầu của nghề đối với con người, tìm
hiểu một cách chi tiết về năng lực của học sinh từ đó giúp cho các em học sinh
sâu khi tốt nghiệp phổ thông có đựợc sự lựa chọn nghề phù hợp với năng lực và
hứng thú cá nhân.
Từ sau Hội nghị quốc tế về hướng nghiệp tổ chức tại Bacelona (Tây Ban
Nha) năm 1921, hướng nghiệp và tư vấn nghề bắt đầu trở thành xu thế chung
rộng rãi trên thế giới.
Hiện nay, ở các nước tư bản trọng tâm của vấn đề nghiên cứu về công tác
hướng nghiệp là nhằm mục đích chủ yếu là xác định xu hướng và sự phù hợp

nghề của thanh niên đối với nghề này hay đối với nghề khác, và giúp đỡ thanh
niên chọn nghề.
Trong những năm 1970, nhà tâm lý học lao động người Liên Xô
E.A.Klimốp đưa ra trắc nghiệm: “Xác định kiểu nghề cần chọn trên cơ sở tự
đánh giá”, với 30 câu hỏi. Trong khoảng thời gian này A.E.Côlốmtốc cũng đưa
ra trắc nghiệm đo hứng thú nghề nghiệp với 78 câu hỏi.
Ở Việt Nam, từ trước đến nay cũng có nhiều công trình nghiên cứu liên
quan đến lĩnh vực nghề nghiệp và hướng nghiệp cho các em học sinh. Các
nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau đã đi sâu vào nhiều mảng, nhiều lĩnh
Hướng nghiệp cho con cái của các bậc cha mẹ huyện Văn Giang - Tỉnh Hưng Yên
5
Báo cáo thực tập Đỗ Thị Hường K49
TLH Tại chức
vực khác nhau của mối quan tâm hàng đầu này ở lớp trẻ. Có thể điểm qua một
vài công trình nghiên cứu lý luận và thực tiễn về vấn đề này.
Năm 1978, trong cuốn: Một số vấn đề cơ bản về tâm lý học lao động”, các
tác giả đã đề cập đến cơ sở khoa học trong việc tư vấn hướng nghiệp cho học
sinh. Đó là việc phải xác định được xu hướng nghề nghiệp thể hiện ở hứng thú
nghề nghiệp , khuynh hướng chọn nghề và nguyện vọng vươn lên nắm lấy
chuyên môn cần học.
Năm 1989, Phạm Tất Dong với cuốn Giúp bạn chọn nghề đã đưa ra
những cơ sở khoa học giúp cho các em học sinh lựa chọn cho mình nghề nghiệp
phù hợp, đó là trước khi chọn nghề, học sinh phải trả lời đựoc 3 câu hỏi: Tôi
thích làm nghề gì;Tôi làm đựơc nghề gì; Tôi cần làm nghề gì. Từ đó định hướng
cho việc chọn nghề nghiệp tương lai cho bản thân một cách phù hợp và đúng
đắn.
Giai đoạn 1991 đến nay cũng có nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến
vấn đề hướng nghiệp cho học sinh. Tiêu biểu là:
1. Đề tài KX.0710 nghiên cứu “Ảnh hưởng của nền KTTT đối với việc
hình thành và phát triển nhân cách con người Việt Nam” do Viện Khoa học giáo

dục chủ trì đã tìm hiểu định hướng giá trị của thanh niên Việt Nam trên một số
địa phương ở cả 3 miền: Bắc, Trung, Nam. Về định hướng giá trị của thanh niên
trong lĩnh vực nghề nghiệp và việc làm đề tài đã khẳng định nghề nghiệp và việc
làm là mối quan tâm hàng đầu, là giá trị quan trọng của thanh niên hiện nay. Kết
quả nghiên cứu cho thấy 73.2% trong số 1542 thanh niên được hỏi cho rằng
nghề nghiệp và việc làm là mối quan tâm số 1 của họ, so với 49.2% thanh niên
đặt tình yêu và hôn nhân gia đình lên hàng đầu.
Nghiên cứu hứng thú nghề nghiệp và động cơ chọn nghề của thanh niên,
đề tài kết luận thanh niên hiện nay chọn những nghề vừa dễ tìm việc làm vừa có
thu nhập cao. Biểu hiện: Thanh niên nông thôn có xu hướng chọn các nghề sản
xuất nông nghiệp nhiều hơn (53.1%) thanh niên thành phố chọn những nghề
kinh doanh (36.7%), tài chính (33.7). Đa số thanh niên có động cơ đúng đắn về
lựa chọn nghề nghiệp và tìm việc làm cho mình phù hợp với yêu cầu của xã hội.
Hướng nghiệp cho con cái của các bậc cha mẹ huyện Văn Giang - Tỉnh Hưng Yên
6
Báo cáo thực tập Đỗ Thị Hường K49
TLH Tại chức
Tuy nhiên, xu hướng chọn nghề của thanh niên còn mang tính tự phát cá nhân,
xuất phát từ những nhu cầu, sở thích của cá nhân và nhu cầu trước mắt của thị
trường lao động. Sỏ dĩ như vậy là vì vai trò định hướng nghề nghiệp cho thanh
niên của xã hội còn mờ nhạt chưa tích cực.
Ngoài ra công trình nghiên cứu này còn chỉ ra những mâu thuẫn trong
định hướng giá trị về nghề nghiệp và việc làm của thanh niên như mâu thuẫn
giữa nguyện vọng muốn có việc làm của thanh niên với khả năng giải quyết của
xã hội., mâu thuẫn giữa hứng thú chọn nghề yêu thích và chọn nghề có thu nhập
cao , mâu thuẫn giữa ý chí lập nghiệp cao và khă năng hạn hẹp về vốn, kinh
nghiệm sống.
Như vậy, dưới góc độ nghiên cứu về định hướng giá trị, đề tài này của
KX- 07 đã đưa ra những phân tích và nhận xét khách quan nhất về vấn đề thanh
niên và việc làm.

2. Trên quan điểm xã hội học, PTS Vũ Đào Quang khi nghiên cứu
“Những vấn đề cấp bách của gia đình nông thôn huyện Nam Ninh” đã tập trung
vào việc chỉ ra những giá trị cấp bách và trọng tâm của gia đình nông thôn Nam
Ninh , đặc biệt là giá trị nghề nghiệp.
Một số công trình xã hội học khác cũng đi sâu phân tích những khía cạnh
khác nhau có quan hệ đến định hướng nghề nghiệp chẳng hạn như ai là người
quyết định lựa chọn nghề nghiệp cho con cái; dự định chọn nghề nghiệp cho con
hoặc tác động của những yếu tố đến sự biến đổi cơ cấu nghề nghiệp.
Khoá luận tốt nghiệp Đại học ngành Xã hội học của tác giả Nguyễn Văn
Thành mang tên “Định hướng chọn nghề nghiệp cho con cái của các gia đình
nông thôn Đồng bằng Bắc Bộ trong thời kì đổi mới” đã đưa ra những nhận xét
sau:
- Trọng tâm của định hướng nghề nghiệp cho con cái của các gia đình
nông thôn là vào các ngành nghề có thu nhập cao hoặc có vị trí cao trong xã hội.
Các bậc cha mẹ có xu hướng chọn cho con những ngành nghề phi nông nghiệp.
- Có sự thay đổi đánh giá về truyền thống “sĩ, nông, công, thương” từ đó
hình thành định hướng giá trị mới về nghề nghiệp.
Hướng nghiệp cho con cái của các bậc cha mẹ huyện Văn Giang - Tỉnh Hưng Yên
7
Báo cáo thực tập Đỗ Thị Hường K49
TLH Tại chức
- Những gia đình hội đủ các yếu tố kinh tế, xã hội, văn hoá có sự thay đổi
về nhìn nhận giá trị nghề nghiệp và định hướng chọn nghề cho con rõ rệt hơn so
với các nhóm gia đình khác.
3. Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Ngọc Diệp về định hướng nghề nghiệp
của học sinh PTTH ở Hà Nội” cũng đưa ra những kết luận đáng lưu tâm về vấn
đề hướng nghiệp. Trong đó, tác giả xác định: “ Học sinh PTTH ngày càng ít
chịu ảnh hưởng của gia đình trong định hướng nghề nghiệp của mình. Gia đình
hiện đại theo xu thế mới là để con em mình tự giải quyết lấy nghề nghiệp trong
tương lai”.

Nhìn chung 3 nghiên cứu trên cùng với những công trình nghiên cứu khác
mà chúng tôi chưa đưa ra ở đây cho thấy hướng nghiệp cho thanh niên trong đó
có học sinh PTTH, mà nhất là các em học sinh đang học lớp 12 là một vấn đề
ngày càng trở nên quan trọng và cấp thiết. Tuy nhiên vai trò của gia đình, nhất là
các bậc cha mẹ với tư cách là chủ thể điều khiển hoạt động hướng nghiệp cho
học sinh PTTH (cùng với nhà truờng, các tổ chức xã hội) vẫn chưa được quan
tâm nghiên cứu một cách đầy đủ và khoa học. Vì vậy mà rất cần thiết có những
công trình nghiên cứu khoa học đánh giá đúng vai trò của các bậc cha mẹ trong
việc định hướng nghề nghiệp tuơng lai của con sau này. Từ đó nâng cao nhận
thức, tình cảm, hành vi của các bậc cha mẹ đối với vấn đề này, giúp cho việc
hướng nghiệp cho con cái có hiệu quả, phát huy vai trò của các bậc cha mẹ đối
với việc lựa chọn nghề nghiệp của con cái. Chính vì vậy, trong đợt nghiên cứu
khoa học này chúng tôi đã chọn vấn đề hướng nghiệp cho con cái của các bậc
cha mẹ làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Các khái niệm:
2.1. Nghề nghiệp:
Từ xa xưa, ông cha ta đã khẳng định vai trò của nghề nghiệp đối với cuộc
đời mỗi con người qua câu tục ngữ: “Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh” (nghĩa là
rất thạo 1 nghề, giỏi 1 nghề thì cuộc sống sẽ vẻ vang sung túc). Trên thực tế,
trong mỗi con người chúng ta, ai cũng mong muốn cuộc sống của mình được
đầy đủ, sung túc, song để giỏi 1 nghề, thạo 1 nghề lại không hề đơn giản. Muốn
Hướng nghiệp cho con cái của các bậc cha mẹ huyện Văn Giang - Tỉnh Hưng Yên
8
Báo cáo thực tập Đỗ Thị Hường K49
TLH Tại chức
giỏi một nghề trước hết phải lựa chọn được 1 nghề phù hợp nhất với hứng thú,
năng lực của bản thân và yêu cầu của xã hội Do vậy, để lựa chọn nghề 1 cách
phù hợp mỗi học sinh phải hiểu hết ý nghĩa, tầm quan trọng và bản chất của nó.
Vậy nghề nghiệp là gì? Đặc điểm, phân loại của nghề nghiệp ra sao? chúng ta
cần lần lượt làm rõ những vấn đề này. Cụ thể là:

2.1.1. Khái niệm nghề nghiệp và giá trị của nghề nghiệp.
2.1.1.1: Khái niệm nghề nghiệp:
Trong hoạt động sống và lao động, để thoả mãn những nhu cầu vật chất
và tinh thần của mình, mỗi con người cần lựa chọn cho riêng mình một hoặc
nhiều loại nghề nghiệp khác nhau tuỳ theo khả năng và điều kiện của bản thân.
Nghề nghiệp không chỉ là điều kiện để con người tồn tại và phát triển, mà còn là
nơi con người thể hiện ước mơ, lý tưởng và hoài bão của mình. Như vậy, chúng
ta có thể hiểu, nghề nghiệp là một hình thức lao động đặc thù của con người
được hình thành, phát triển và tồn tại cùng với sự phát triển của xã hội.
Cùng với sự thay đổi của công cụ sản xuất và sự phân công lao động mà
nghề nghiệp được thay đổi thường xuyên. Trong xã hội Cộng sản nguyên thuỷ,
ở trình độ sản xuất còn thấp kém, con người chỉ biết chế tạo, sử dụng những
công cụ lao động đơn giản, thô sơ, biết lao động để kiếm sống và biết tổ chức
nhau lại thành cộng đồng để cùng tồn tại và phát triển. ở thời kì này, xã hội chưa
phát triển, khả năng của con người còn hạn chế , nhu cầu của con nguời cũng
chưa cao, dẫn đến chưa có sự phân công lao động rõ ràng theo từng chuyên môn
nhất định. Vì vậy, khái niệm nghề chưa được hiểu một cách rõ ràng và đầy đủ.
Khi nền sản xuất xã hội dần dần phát triển, việc sử dụng công cụ bằng
kim loại để làm cho năng suất lao động tăng lên, dẫn đến có sự phân công lao
động trong xã hội. Chăn nuôi tách khỏi trồng trọt, lao động trí óc tách khỏi lao
động chân tay Từ đây xuất hiện các ngành nghề khác nhau trong xã hội. Từ
một nghề đơn giản phát triển dần thành nhiều nghề hơn, chuyên sâu và phức tạp
hơn. Trong thời đại ngày nay, thời đại của khoa học công nghệ, nghề nghiệp
trong xã hội có nhiều biến động cả về số lượng và sự đa đạng, có nhiều nghề
mới được xuất hiện và cũng có những nghề cũ đã không còn tồn tại. Hiện nay,
Hướng nghiệp cho con cái của các bậc cha mẹ huyện Văn Giang - Tỉnh Hưng Yên
9
Báo cáo thực tập Đỗ Thị Hường K49
TLH Tại chức
theo thống kê trên thế giới có khoảng “65.000 nghề chuyên môn khác nhau, mỗi

nghề lại có các ngành nhỏ hơn, thậm chí rất hẹp”. Ở Việt Nam, số lượng nghề có
trong xã hội cũng rất đa dạng và phong phú. Trong thế giới nghề đó chỉ có một
số nghề được đào tạo một cách chính quy tại các trường nghề, số còn lại là do cá
nhân được truyền nghề một cách không chính thức từ quá trình lao động hoặc
tự đào tạo, học hỏi Hiện nay trên cả nước có 552 ngành chuyên môn được Bộ
Giáo dục và Đào tạo cho phép các trường nghề được tuyển sinh và đào tạo nghề.
Về khái niệm nghề nghiệp, theo từ điển Laroisse của Pháp định nghĩa:
Nghề là hoạt động thường ngày được thực hiện bởi con người nhằm tự tạo
nguồn thu nhập cần thiết để tồn tại.
Theo E.A.Klimốp, nghề là một lĩnh vực sử dụng sức lao động vật chất và
tinh thần của con người một cách có giới hạn cần thiết cho xã hội (do sự phân
công xã hội mà có), nó tạo ra kỹ năng cho người sử dụng lao động của mình để
thu lấy những phương tiện cần thiết cho sự tồn tại.
Khi định nghĩa về nghề, các tác giả khác đã lưu ý đó là:
Nghề là một hoạt động chuyên nghiệp làm theo sự phân công của xã hội.
Người làm nghề phải có kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo và những phẩm chất
tâm lý cần thiết trong lĩnh vực đó thông qua một quá trình đào tạo và tự đào tạo.
Như vậy qua những định nghĩa trên, chúng tôi đưa ra một định nghĩa về
nghề như sau:
Nghề là một lĩnh vực hoạt động chuyên nghiệp do sự phân công lao độnh
xã hội quy định, sử dụng sức lao động vật chất và tinh thần của con người đã
được đào tạo và tự đào tạo nhằm tạo ra những sản phẩm cần thiết cho xã hội và
tạo ra những điều kiện để phát triển con người trong hoạt động đó.
2.1.1.2. Gía trị của nghề nghiệp:
Nghề nghiệp không tách khỏi giá trị, hay nói đúng hơn nghề nghiệp là
một giá trị. Gía trị là cái có ý nghĩa đối với cá nhân, tập thể và xã hội, phản ánh
mối quan hệ chủ thể, khách thể, được đánh giá xuất phát từ những điều kiện xã
hội – lịch sử cụ thể và phụ thuộc vào trình độ nhân cách. Khi đã nhận thức, đánh
giá và lựa chọn, giá trị trở thành một trong những động lực thúc đẩy con người
Hướng nghiệp cho con cái của các bậc cha mẹ huyện Văn Giang - Tỉnh Hưng Yên

10
Báo cáo thực tập Đỗ Thị Hường K49
TLH Tại chức
đi theo một xu hướng nhất định. Theo nhà xã hội học Mỹ T.H.Fitcher “Tất cả
cái gì cáo lợi, đáng ham chuộng, đáng kính phục đối với cá nhân hoặc xã hội
đều có một giá trị”.
Gía trị nghề nghiệp là những quan niệm về nghề nghiệp ( nghề chính,
nghề phụ) qua các đặc điểm văn hoá, giá trị tồn tại hiện hữu mang những ý
nghĩa chi phối hành vi, thái độ đánh giá như đề cao, coi thấp hoặc miệt thị nghề
nào đó.
2.1.2. Đặc điểm của nghề nghiệp:
Mỗi một loại nghề nghiệp có những đặc điểm riêng khác nhau, nhưng tựu
chung lại, khi tìm hiểu và mô tả một nghề nào đó, chúng ta cần phải đề cập đến
những đặc điểm sau:
- Đối tượng lao động: Đối tượng lao động của nghề là hệ thống những
thuộc tính, mối quan hệ qua lại của các sự vật, các hiện tượng, các quá trình mà
ở cương vị lao động nhất định con người phải vận dụng chúng. Ví dụ: Đối tựơng
lao động chủ yếu của ngành Y là con người và những bệnh lý cụ thể, các triệu
chứng, các nguyên nhân dẫn đến bệnh đó
- Mục đích lao động: Mục đích lao động là kết quả mà xã hội đòi hỏi,
trông đợi ở người lao động. Mục đích cuối cùng trong lao động phải trả lời được
câu hỏi: “làm được gì”. Ví dụ: Mục đích của việc dạy học là mang lại kiến thức,
học vấn cho con người, giúp con người hình thành một số phẩm chất nhân cách.
Trong khi đó mục đích của nghề hướng dẫn viên du lịch lại là hướng tới giới
thiệu với du khách tất cả những vẻ đẹp, sự hấp dẫn của cảnh quan thiên nhiên
cùng với những tông tin về lịch sử ,văn hoá nhằm tạo cho du khách sự thích
thú, tò mò muốn khám phá.
- Công cụ lao động: Công cụ lao động bao gồm các thiết bị kỹ thuật, các
dụng cụ gia công, các phương tiện làm tăng năng lực nhận thức của con người,
làm tăng sự tác động của con người đến đối tượng đó. Ví dụ: Công cụ lao động

của nghề giáo viên là tri thức khoa học, kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ sư
phạm, và toàn bộ nhân cách của người thầy giáo.
Hướng nghiệp cho con cái của các bậc cha mẹ huyện Văn Giang - Tỉnh Hưng Yên
11
Báo cáo thực tập Đỗ Thị Hường K49
TLH Tại chức
- Điều kiện lao động: Điều kiện lao động ở đây được hiểu là những đặc
điểm của môi trường làm việc: làm việc trong nhà hay ngoài trời, nhiệt độ, tiếng
ồn, các chất độc hại cũng như những sự cố nguy hiểm có thể xảy ra. Ví dụ: Điều
kiện lao động của nghề may là làm việc trong nha hay trong các dây chuyền sản
xuất ở các phân xưởng. Vì vậy, nghề thợ may không đòi hỏi sự thích ứng đặc
biệt của cơ thể đối với môi trường làm việc. Còn điều kiện lao động của nghề
hướng dẫn viên du lịch là thường xuyên phải ở ngoài trời, phải đi nhiều nơi nên
đòi hỏi người làm nghề này phải có sức khoẻ tốt, kiến thức xã hội sâu rộng, khả
năng giao tiếp tốt.
Ngoài ra nững đặc điểm về quy trình công nghệ, tổ chức quản lý, đặc
điểm tâm sinh lý của người làm nghề cũng không kém phần quan trọng.
2.1.3. Phân loại nghề nghiệp:
Hiện nay trong xã hội có rất nhiều ngành nghề khác nhau, việc phân loại
nghề không hề đơn giản. Tuy nhiên, từ bình diện nhận thức tổng quát có thể nói
rằng cách phân loại nghề nghiệp theo yêu cầu của nghề đối với xã hội của tác
giả Phạm Tất Dong – Nguyễn Thế Trường đã được hầu hết các nhà nghiên cứu
chấp nhận. Theo quan điểm này nghề nghiệp được phân thành 8 loại như sau:
- Những nghề thuộc lĩnh vực hành chính: Trong lĩnh vực này sẽ có những
cán bộ, nhân viên văn phòng, đánh máy, lưu trữ, soạn thảo văn bản Nghề này
đòi hỏi con người có đức tính thận trọng, chu đáo, ngăn nắp, tỉ mỉ. Mọi tác
phong và thói quen cẩu thả, thiếu ngăn nắp đều không phù hợp với nhóm nghề
này.
- Những ngành nghề thuộc lĩnh vực tiếp xúc với con người: Ở đây có thể
kể đến nhân viên bán hàng, thầy truốc, thầy giáo Những người này phải luôn

có thái độ niềm nở, cởi mở, chân thành với những người xung quanh. Thái độ,
hành vi lạnh nhạt, thiếu thông cảm, thiếu thiện chí đều không phù hợp với
những ngành nghề này
- Những nghề thợ (công nhân): Tính chất, nội dung lao động của nghề thợ
rất phức tạp và đa dạng. Nghề thợ đại diện cho ngành sản xuất công nghiệp. Tác
Hướng nghiệp cho con cái của các bậc cha mẹ huyện Văn Giang - Tỉnh Hưng Yên
12
Báo cáo thực tập Đỗ Thị Hường K49
TLH Tại chức
phong công nghiệp, tư duy kỹ thuật, tưởng tượng không gian, khéo tay là
những yếu rố tâm lý cơ bản không thể thiếu được ở những người thợ.
Nghề thợ đang có sự chuyển biến về cấu trúc: lao động chân tay ngày
càng giảm, lao động trí óc ngày càng tăng lên. Ở những nước công nghiệp như
Anh, Mỹ, Pháp số công nhân trí thức đông hơn số công nhân lao động chân
tay nặng nhọc.
- Những nghề trong lĩnh vực kỹ thuật: Nghề kỹ thuật rất gần với nghề thợ.
Nghề kỹ thật đòi hỏi người lao động lòng say mê với công việc thiết kế và vận
hành kỹ thuật, nắm chắc những tri thức khoa học hiện đại, có khả năng tiếp thu
công nghệ mới. Họ còn đóng vai trò tổ chức sản xuất, do đó năng lực tổ chức có
vị trí cơ bản.
- Những nghề trong lĩnh vực văn học và nghệ thuật: Văn học nghệ thuật là
một lĩnh vực hoạt động đa dạng mà tính sáng tạo là một đặc trưng nổi bật. Tính
sáng tạo, tính độc đáo và riêng biệt là những yếu tố tiên quyết trong mỗi tác
phẩm văn học và nghệ thuật. Họ phải có cảm hứng sáng tác, sự tinh tế và nhạy
bén trong cảm thụ và thể nghiệm cuộc sống; lối sống có cá tính và có văn hóa,
gắn bó với cuộc sống lao động và quần chúng. Ngoài ra người làm công tác văn
học nghệ thuật phải có khả năng diễn đạt tư tưởng, tình cảm, năng lực tác động
đến người khác bằng ngôn ngữ, năng lực thâm nhập vào quần chúng và vốn trải
nghiệm đời sống phong phú.
- Những nghề thuộc lĩnh vực nghên cứu khoa học: Đó là những nghề tìm

tòi, phát hiện những quy luật trong đời sống xã hội, trong thế giới tự nhiên cũng
như trong tư duy của con người. Người làm công tác nghiên cứu khoa học phải
biết say mê tìm kiếm chân lý, luôn luôn học hỏi, tôn trọng sự thật, thái độ thật
khách quan trước đối tượng nghiên cưú. Ngoài ra họ còn phải là những con
người thực sự cầu thị, khiêm tốn, chân thực, bảo vệ chân lý đến cùng.
- Những nghề thiếp xúc với thiên nhiên: Đó là nghề bảo vệ rừng, khai thác
gỗ, trồng rừng, trồng hoa và cây cảnh Muốn làm được nghề này con người
phải yêu mến thiên nhiên. Mặt khác họ còn phải cần cù, chịu đựng khó khăn,
thích nghi với hoạt động ngoài trời, cẩn thận và tỉ mỉ.
Hướng nghiệp cho con cái của các bậc cha mẹ huyện Văn Giang - Tỉnh Hưng Yên
13
Báo cáo thực tập Đỗ Thị Hường K49
TLH Tại chức
- Những nghề có điều kiện lao động đặc biệt: Thuộc lĩnh vực lao động
này có những nghề như lái máy bay thí nghiệm, du hành vũ trụ, khai thác tài
nghuên dưới đáy biển Những người làm nghề này phải có lòng quả cảm, ý chí
kiên định, say mê với tính chất mạo hiểm, không ngại khó khăn gian khổ, thích
ứng với cuộc sống không ổn định.
2.2. Sự lựa chọn nghề và bản chất tâm lý của “chọn nghề”
Chọn nghề đối với mỗi cá nhân trước ngưỡng cửa vào đời có một ý nghĩa
rất quan trọng. Nó “không đơn thuần là chọn một công việc cụ thể nào đó mà
còn là sự lựa chọn một cách sống, một con đường sống mai sau nữa. Nó không
chỉ có ý nghĩa cá nhân mà còn có ý nghĩa xã hội”.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của việc lựa chọn nghề, ngay từ lúc 17 tuổi
C. Mác đã viết trong bài luận: “Những suy nghĩ của một thanh niên khi chọn
nghề” như sau: “Cân nhắc cẩn thận vấn đề này, đó là trách nhiệm đầu tiên của
một thanh niên bước vào đời mà không muốn coi những việc quan trọng nhất
của mình là ngẫu nhiên”. Còn E.A.Kli mốp cho rằng: “Lựa chọn nghề nghiệp là
ngày sinh nhật thứ hai của con người, vị trí của nó trong xã hội, sự thoả mãn
trong công tác, tình hình sức khoẻ và thể chất cũng như tinh thần, niềm vui và

hạnh phúc đều phụ thuộc vào sự lựa chọn con đường đúng đắn đến mức nào”.
Lựa chọn nghề nghiệp là công việc không thể thiếu của mỗi người khi
bước vào ngưỡng cửa cuộc đời. Riêng đối với học sinh PTTH vào năm cuối cấp
chọn nghề nghiệp là mối quan tâm sâu sắc, chi phối mọi suy nghĩ, tình cảm, hoạt
động của các em.
Xét trong phạm vi nhà trường phổ thông, khi học sinh quyết định ghi tên
đăng kí thi vào một trường Đại học, Cao đẳng hay Trung cấp hoặc nộp đơn xin
học hay làm một nghề nào đó sau khi tốt nghiệp PTTH chính là một sự lựa
chọn nghề nghiệp. Sự lựa chọn nghề nghiệp của mỗi con người mà trước cuộc
sống tương lai của mình mỗi người đều có những suy nghĩ nhất định, mặc dù
mức sâu sắc, nghiêm túc của mỗi người là khác nhau.
Về bản chất tâm lý của sự lựa chọn nghề, xét trong phạm vi nhà trường,
chọn nghề là một quá trình kết hợp hợp lý các giá trị, hứng thú, khuynh hướng
Hướng nghiệp cho con cái của các bậc cha mẹ huyện Văn Giang - Tỉnh Hưng Yên
14
Báo cáo thực tập Đỗ Thị Hường K49
TLH Tại chức
và nguyện vọng nghề nghiệp của học sinh, là sự tự ý thức và hiểu biết vầ thực tế
nghề nghiệp, sự quyết định có căn cứ trong một tình huống lựa chọn cụ thể.
Về mặt lý thuyết, chọn nghề là một quyết định có căn cứ khi, “học sinh
quyết định chọn nghề trên cơ sở tính đến ba mặt: Nguyện vọng và năng lực cá
nhân, những đồi hỏi của nghề nghiệp và những yêu cầu của xã hội”. Và toàn bộ
công tác hướng nghiệp phải làm sao giúp học sinh tự giác đi đến quyết định này.
Từ những phân tích trên, chúng tôi có thể đưa ra định nghĩa về chọn nghề
của học sinh như sau:
Chọn nghề là một quá trình ra quyết định của học sinh chọn lấy một nghề
để học hoặc đi làm trên cơ sở nhận thức, hứng thú và nguyện vọng nghề nghiệp.
Tóm lại khi chọn nghề, mỗi người phải trả lời được 3 câu hỏi sau:
- Tôi thích làm nghề gì? (tức là mình có hứng thú với nghề đó không?)
- Tôi làm được nghề gì? (tức bản thân có năng lực theo đuổi nghề đó

không?)
- Tôi cần làm nghề gì? (tức nghề định chọn có nằm trong kế hoạch phát
triển không?)
 Những sai lầm thường mắc phải khi chọn nghề :
Trong khi chọn nghề nghiệp cho tương lai, chúng ta thường mắc phải
những sai lầm sau:
- Có sự phân biệt giữa lao động trí óc và lao động chân tay, nghề thợ và
nghề kỹ sư, do vậy mà hướn vào những nghề đào tạo bậc Đại học.
- Thành kiến với một nghề nào đó trong xã hội.
- Bị hấp dẫn bởi vẻ ngoài của nghề, thiếu hiểu biết nội dung lao động của
nghề đó.
- Cho rằng đạt thành tích học tập cao trong một môn văn hoá nào đó là
làm được nghề cần đến tri thức của môn đó.
- Không đánh giá đúng năng lực lao động của bản thân nên lúng túng khi
chọn nghề
- Dựa dẫm vào ý kiến cuẩ người khác, không độc lập quyết định chọn
nghề.
Hướng nghiệp cho con cái của các bậc cha mẹ huyện Văn Giang - Tỉnh Hưng Yên
15
Báo cáo thực tập Đỗ Thị Hường K49
TLH Tại chức
- Có quan niệm “tĩnh” về tính chất, nội dung lao động của các lĩnh vực
sản xuất, quên mất sự tác động mạnh mẽ của cách mạng khoa học kỹ thuật ngày
nay.
- Thiếu hiểu biết về thể lực và sức khoẻ của bản thân.
2.3. Hướng nghệp trong quá trình phát triển nghề nghệp
2.3.1 Sự cần thiết của công tác hướng nghiệp
Công tác hướng nghiệp sẽ giúp cho mỗi cá nhân lựa chọn cho mình một
nghề nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của các cá nhân, đáp
ứng mục tiêu kinh tế – xã hội của quốc gia. Vì vậy chọn nghề là một vấn đề có ý

nghĩa quan trọng không chỉ với cá nhân mà với cả xã hội nữa.
Có thể nói, chọn nghề là chọn cuộc đời, chọn số phận. Cuộc đời của con
người có ý nghĩa chính là ở chỗ bằng sức lao động của mình, đem lại lợi ích cho
bản thân và cho người khác. Nghề nghiệp mang đến cho con người “nguồn
sống” cả ưvề mặt thể chất lẫn tinh thần. Cuộc sống của con người và nghề
nghiệp có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nghề nghiệp là nơi con người thể hiện
ước mơ, hoài bão, lý tưởng của mình, là điều kiện đảm bảo cho sự tồn tại của
con người trong xã hội.
Nghề nghiệp xưa nay vẫn là nỗi lo, là khát vọng và trăn trở luôn canh
cánh từ trong sâu thẳm của biết bao thân phận con người. Do đó việc lựa chọn
nghề cho phù hợp không chỉ là quyết định quan trọng đối với cá nhân mà còn có
ý nghĩa đối với toàn xã hội. Khi có được nghề phù hợp, con người sẽ luôn say
mê, tìm tòi, học hỏi, hăng say sáng tạo, phát huy được khả năng của bản thân;
đồng thời tạo điều kiện cho qúa trình hoạt động nghề nghiệp của mình đạt hiệu
quả ngày càng cao, đáp ứng yêu cầu của xã hội. Lúc đó nghề nghiệp không còn
là nỗi nhọc nhằn mà trở thành niềm vui, hạnh phúc, sự thoả mãn nguồn cảm
hứng và sáng tạo của con người.
Thế nhưng, con người không hề dễ dàng gì lựa chọn trong biển nghề
mênh mông ấy lấy một nghề xác định. Trong thực tế không phải bao giờ thanh
niên cũng giải quyết một cách chính xác vấn nghề chọn nghề của mình. Thông
Hướng nghiệp cho con cái của các bậc cha mẹ huyện Văn Giang - Tỉnh Hưng Yên
16
Báo cáo thực tập Đỗ Thị Hường K49
TLH Tại chức
thường có hai loại nguyên nhân dẫn đến việc lựa chọn nghề không chính xác, đó
là:
Một là: Thái độ không đúng với các tình huống khác nhau của việc chọn
nghề. Ví dụ: Thường thì học sinh hướng vào một nghề có chuyên môn cao nhất,
mà quên rằng, muốn đi tới đó phải qua nhiều bậc thang và phải bước từ những
bậc thấp nhất; những kiến thức về tiếng tăm nghề nghiệp; sự ảnh hưởng trực tiếp

hay gián tiếp của bạn bè đến chọn nghề; di chuyển thái độ đối với người đại diện
cho một nghề nào đó sang chính bản thân nghề đó; sự say mê chỉ xuất phát từ
mặt bên ngoài hay một mặt cục bộ nào đó của nghề nghiệp.
Hai là: Sự thiếu tri thức, kinh nghiệm, thông tin về những tình huống như:
lĩnh vực hoạt động của nghề, lời khuyên hay hành vi của những người xung
quanh.
Vậy, yêu cầu đặt ra là làm thế nào để mỗi nguời có thể lựa chọn cho mình
một nghề nghiệp phù hợp, tránh được những thiếu sót, sai lầm kể trên? Đó chính
là công tác giáo dục hướng nghiệp. Trên thế gới, phòng hướng nghiệp đầu tiên
được thành lập (Boston) từ năm 1915. Từ 1916 những cơ quan chuyên môn về
hướng nghiệp đã được thành lập ở Đức, Pháp, Anh. Khái niệm hướng nghiệp đã
được truyền bá rộng rãi sau hội nghị Quốc tế năm 1921 (ở Barcelona).
Tóm lại, công tác hướng nghiệp có một tầm quan trọng không chỉ dừng
lại ở chỗ giúp cho thanh niên có được một nghề mà còn giúp họ chọn cách sống
cho tương lai, chọn con đường sống cho mai sau. Chúng ta có thể khẳng định,
công tác hướng nghiệp là nhiệm vụ vừa cơ bản vừa cấp bách trong thời đại
ngày nay, nó cần phải được đẩy mạnh hơn nữa.
2.3.2. Khái niệm hướng nghiệp và bản chất tâm lý của hướng nghệp
Bước vào tuổi trưởng thành, mỗi người sớm hay muộn cũng bước vào
đời, tìm cho mình một chỗ đứng tương lai có thể đóng góp tích cực cho xã hội
và qua đó, có thể tạo cho mình một cuộc sống tốt đẹp. Học xong bậc PTCS và
PTTH một số học sinh sẽ tiếp tục học lên tới trình độ Đại học, trong khi nhiều
em khác có thể đi ngay vào con đường lao động nghề nghiệp. Hứong đi trong
thực tế sẽ rất đa dạng, phức tạp, song “ việc lựa chọn nghề nghiệp trở thành
Hướng nghiệp cho con cái của các bậc cha mẹ huyện Văn Giang - Tỉnh Hưng Yên
17
Báo cáo thực tập Đỗ Thị Hường K49
TLH Tại chức
công việc khó khăn, quan trọng nhất và không thể gạt bỏ được đối với học sinh
lớp trên”. Để có được sự lựa chọn nghề một cách đúng đắn, mỗi người cần có sự

hỗ trợ, hướng dẫn của những người khác, hay nói khác đi là cần đẩy mạnh công
tác hướng nghiệp cho thanh niên, nhất là các em học sinh.
2.3.2.1. Định nghĩa, khái niệm hướng nghiệp
Khi phân tích về nhiệm vụ, nội dung và các hình thức của công tác hướng
nghiệp, Giáo sư K.K.Platơnốp đã nêu ra cái gọi là “tam giác hướng nghiệp”.
Theo ông, công tác hướng nghiệp là phải nhằm đảm bảo cho học sinh thấy 3 mặt
sau:
- Những yêu cầu, đặc điểm của các nghề nghiệp.
- Những yêu cầu của xã hội đối với các ngành nghề (còn gọi là thị trường
lao động xã hội).
- Những đặc điểm về nhân cách, đặc biệt là năng lực của bản thân học
sinh.
Ba mặt đó cũng chính là nội dung của công tác hướng nghệp, và để thực
hiện được các nội dung đó, công tác hướng nghiệp có các nội dung sau: giáo dục
và tuyên truyền nghề nghiệp, tư vấn nghề nghiệp và tuyển chọn nghề nghiệp.
Qua những phân tích ở trên, khái niệm hướng nghiệp có thể được hiểu
như sau:
Công tác hướng nghiệp là hệ thống các công việc của nhà trường, của
gia đình và xã hội nằm xác định phương hướng chọn nghề cho thanh niên. Vậy
công tác hướng nghiệp là việc làm của người lớn đối với mọi công dân thuộc lứa
tuổi lao động nói chung và đặc biệt là đối với thanh niên nói riêng.
2.3.2.2. Bản chất tâm lý của hoạt động hướng nghiệp
Bản chất tâm lý của hoạt động hướng nghiệp là một hệ thống điều khiển
các động cơ chọn nghề của học sinh. Hệ thống này bao gồm:
- Các chủ thể của sự điều khiển: Nhà trường, gia đình, các nhóm không
chính thức
Hướng nghiệp cho con cái của các bậc cha mẹ huyện Văn Giang - Tỉnh Hưng Yên
18
Báo cáo thực tập Đỗ Thị Hường K49
TLH Tại chức

- Các phương tiện và phương pháp điều khiển: Công tác hướng nghiệp
của nhà trường, sự giáo dục của gia đình, sự thông tin định hướng nghề của các
cơ quan chuyên môn nhà nước
- Đối tượng điều khiển: Các động cơ và định hướng giá trị của học sinh.
- Kết quả điều khiển: Sự sẵn sàng nghề nghiệp của học sinh, cụ thể là
chuẩn bị cho học sinh có khả năng chọn nghề phù hợp với đòi hỏi của nghề
nghiệp đúng với khả năng của mình và hợp với yêu cầu xã hội.
2.3.3. Mục đích của hướng nghiệp
- Mục đích tổng quát là giúp cho mọi người đang trong độ tuổi lao động
nói chung và cho thanh niên nói riêng có được một nghề, có được một tương lai,
có được một con đường sống phù hợp với bản thân; điều này góp phàn hiện thực
hoá các mục tiêu kinh tế – xã hội trong những giai đoạn lịch sử cụ thể và chiến
lược phát triển xã hội nói chung.
- Vậy, hướng nghiệp trong quá trình phát triển nghề nghiệp nhằm giúp
cho mỗi thanh niên lựa chọn được một nghề để học, nghề đó phải thoả mãn cả
các điều kiện khách quan và chủ quan đối với cá nhân trong điều kiện hiện tại và
tương lai.
2.3.4. Những nội dung của công tác hướng nghiệp
Công tác hướng nghiệp gồm 3 nội dung cơ bản sau:
- Công tác giáo dục nghề nghiệp.
- Tư vấn nghề nghiệp.
- Tuyển chọn nghề nghiệp.
2.3.4.1. Công tác giáo dục hướng nghiệp
Giáo dục nghề nghiệp trong công tác hướng nghiệp là sự tác động có
mục đích, có kế hoạch vào thế hệ trẻ, làm cho họ hiểu về các nghề, hiểu được
nhu cầu về cán bộ của các nghề, qua đó mà hình thành hứng thú và khuynh
hướng với nghề nghiệp nhất định.
Nội dung chủ yếu của công tác giáo dục nghề nghiệp là:
- Tuyên truyền nghề: Tuyên truyền về đặc điểm của nghề nghiệp, phạm vi
ứng dụng của nghề nghiệp, tầm quan trọng của mỗi nghề nhất định.

Hướng nghiệp cho con cái của các bậc cha mẹ huyện Văn Giang - Tỉnh Hưng Yên
19
Báo cáo thực tập Đỗ Thị Hường K49
TLH Tại chức
- Giáo dục trách nhiệm thanh niên phải tham gia vào các nghề mà Nhà
nước đang cần đến, đặc biệt là các nghề phải lao động trong các điều kiện khó
khăn, nặng nhọc.
- Giáo dục vai trò, vị trí của từng nghề đối với sự phát triển của đất nước.
Từ đó thấy được niềm vinh dự của từng nghề.
- Giáo dục về quyền lợi, trách nhiệm của các nghề trong hiện tại và trong
tương lai. Trong nhà trường cần phải tuyên truyền những thành tích đã đạt được
của học sinh do nhà trường đào tạo.
- Tổ chức hỗ trợ, diễn đàn, triển lãm ngắn hạn có trưng bầy các sản phẩm
lao động, công cụ lao động do học sinh tạo ra trong quá trình sáng tạo kỹ thuật.
- Tạo điều kiện để phụ huynh học sinh có điều kiện tiếp xúc và tác động
giáo dục nghề nghiệp, đặc biệt là giáo dục của nhà trường phổ thông và chuyên
nghiệp.
Qúa trình thông tin nghề nghiệp cần phải tuân thủ và đáp ứng một số yêu
cầu sau đây:
- Giúp học sinh định hướng vào những nghề cần phát triển, đặc biệt là
những nghề đang được quan tâm phát triển ở địa phương.
- Gây hứng thú nghề nghiệp ở học sinh, từng bước xoá bỏ những thành
kiến, những quan niệm lệch lạc về một số nghề trong xã hội.
- Tạo điều kiện để học sinh phát triển năng lực kỹ thuật tương ứng với
hứng thú nghề nghiệp đang hình thành.
- Làm cho mỗi học sinh có thái độ đúng đối với lao động nghề nghiệp,
biết tôn trọng người lao động và có ý thức bảo vệ của công, bảo vệ thành quả lao
động của người khác.
2. 3.4.2. Tư vấn nghề nghiệp
Tư vấn nghề nghiệp là gì? Là hệ thống những biện pháp tâm lý – giáo dục

để chuẩn đoán, phát hiện và đánh giá những năng lực về nhiều mặt của người
được tư vấn nhằm giúp họ chọn nghề một cách có hiểu biết.
Đây là hình thức tác động hướng nghiệp thông qua sự góp ý và lời khuyên
của những nhà chuyên môn đối với việc lựa chọn nghề. Thông thường, người ta
Hướng nghiệp cho con cái của các bậc cha mẹ huyện Văn Giang - Tỉnh Hưng Yên
20
Báo cáo thực tập Đỗ Thị Hường K49
TLH Tại chức
thành lập những ban tư vấn nghề nghiệp trong trường học hoặc trung tâm tư vấn
nghề nghiệp ngoài nhà trường. Tại đó, người ta nghiên cứu, theo dõi sự phát
triển những đặc điểm tâm sinh lý của học sinh, đối chiếu những đặc điểm đó với
yêu cầu của các nghề rồi giới thiệu một số nghề nên chọn. Tại những trung tâm
tư vấn nghề nghiệp ở nhiều nước, học sinh đến đó nhiều lần trong thời gin học
một cấp học. Người làm công tác tư vấn lập sổ hướng nghiệp cho từng học sinh,
trong đó có đủ những mục cần thiết liên quan đến việc chọn nghề. Sau mỗi lần
tiễp xúc với học sinh, người làm tư vấn ghi lại những gì cần thiết để cuối cùng,
trên cơ sở đó mà cho học sinh những lời khuyên chọn nghề bổ ích, thiết thực.
Ở nước ta hiện nay, việc tư vấn nghề cho thanh thiếu niên nói riêng và
cho mọi người trong cộng đồng nói chung là một trong những việc làm rất cấp
bách, công việc này cần phải đảm bảo một số tiêu chí sau:
- Thông qua tư vấn nghề nghiệp, thế hệ trẻ có những hiểu biết về nghề, từ
đó xác định nghề cho bản thân một cách phù hợp; nghĩa là chọn nghề có căn cứ
khoa học và phù hợp với sự vận động phát triển của xã hội.
- Tư vấn nghề cần được tiến hành ngay khi học sinh còn đang học trong
nhà trường phổ thông. Đây là sự góp sức của các thầy, các cô, các nhà chuyên
môn của các trung tâm tư vấn nghề.
- Tư vấn nghề có tầm quan trọng không chỉ đối với cá nhân mà với cả sự
phát triển xã hội nên cần tiến hành với từng cá nhân học sinh nhằm đảm bảo sự
phù hợp trong mối quan hệ: Cá nhân – nghề nghiệp – xã hội.
2.3.4.3. Tuyển chọn nghề nghiệp (tuyển chọn đầu vào cho học nghề)

Tiến hành khi thanh niên, học sinh chuẩn bị xin đi học, hoặc thi tuyển vào
các trường chuyên nghiệp và dạy nghề. Và cả giai đoạn đầu khi các em học ở cơ
sở đào tạo nào đó.
Tuyển chọn nghề nghiệp có mục đích xác định sự phù hợp nghề của
người dự tuyển. Ở đây, sự phù hợp nghề nghiệp được hiểu cả theo nghĩa những
yêu cầu của thị trường lao động. Đó là:
-Xác định về mặt sức khoẻ.
- Xác định lứa tuổi.
Hướng nghiệp cho con cái của các bậc cha mẹ huyện Văn Giang - Tỉnh Hưng Yên
21
Báo cáo thực tập Đỗ Thị Hường K49
TLH Tại chức
- Xác định nguyện vọng của người xin học.
- Xác định năng lực và các phẩm chất khác xem có phù hợp với các ngành
nghề cần đào tạo cho họ hay không.
Thực chất của tuyển chọn nghề nghiệp là căn cứ vào nhu cầu nhân lực của
một nghề cụ thể mà đi tìm những người có đặc điểm nhân cách phù hợp. Trong
trường phổ thông, mọi việc thuộc lĩnh vực tư vấn nghề nghệp và định hướng
nghề nghiệp lại phải tạo ra những cứ liệu cần để tạo ra những điều kiện thuận lợi
cho việc tuyển chọn nghề nghiệp sau này. Ví dụ, nếu mỗi học sinh đều có một
sổ hướng nghiệp khi tuyển các em vào các truờng dạy nghề, vào các trường
trung cấp chuyên nghiệp hoặc Đại học, vào nhà máy xí nghiệp, chắc chắn đó sẽ
là những cứ liệu quan trọng để tham khảo.
Như vậy là, hướng nghiệp có hai nhiệm vụ vơ bản: tìm một nghề phù hợp
nhất với những khả năng của các cá nhân và thoả mãn nhu cầu nhân sự cho tất
cả các lĩnh vực nghề nghiệp ở cấp độ quốc gia. Cá nhân cần phải được thông tin
đầy đủ về những yêu cầu, những sự thoả mãn, những khó khăn của một nghề mà
anh ta đang quan tâm bằng nhiều cách khác nhau: tham quan các nhà máy,
nghiên cứu các tài liệu, chuyên khảo có liên quan tới nghề, tham dự các cuộc hội
thảo, các cuộc họp của nhà máy.

Ba mặt trong nội dung công tác hướng nghiệp trên cho thấy, giữa việc
hướng nghiệp và việc tuyển chọn nghề nghiệp không có ranh giới rõ rệt, đặc biệt
trong các lĩnh vực nghiên cứu các khả năng của cá nhân thì cả hai quá trình này
sử dụng cùng một hệ thống phương pháp. Ngoài ra một loạt điều kiện gắn liền
với sự phát triển của các xí nghệp công nghiệp làm cho các vị trí lao động ngày
càng được mở rộng, phong phú hơn và điều này khiến cho việc tuyển chọn nghề
nghiệp ngày càng sát lại gần với việc hướng nghiệp. Trong khi tuyển chọn, nhìn
chung người ta không đặt vấn đề chấp nhận một thí sinh và loại bỏ một số khác,
mà đặt về vấn đề phân bố họ cho phù hợp với các vị trí lao động tương ứng căn
cứ vào các chức năng vốn có của họ.
Hướng nghiệp cho con cái của các bậc cha mẹ huyện Văn Giang - Tỉnh Hưng Yên
22
Báo cáo thực tập Đỗ Thị Hường K49
TLH Tại chức
2.3.5. Các nguyên tắc của hướng nghiệp và một vài quan điểm về định hướng
nghề hiện nay
2.3.5.1. Các nguyên tắc cơ bản của hoạt động hướng nghiệp
Khi tiến hành hoạt động hướng nghiệp, chúng ta cần phải đảm bảo một số
nguyên tắc sau:
- Nguyên tắc hình thành, giáo dục: Sự thích hợp nghề được hình thành
trong hoạt động, do vậy cần phải đào tạo, giáo dục cho con em có khả năng
thích ứng nghề nghiệp.
- Nguyên tắc tôn trọng như nhau đối với các loại lao động khác nhau.
- Nguyên tắc kết hợp công tác theo nhóm với công tác cá nhân, công tác
của nhà trường đối với công tác xã hội, gia đình nhằm đưa việc hướng nghiệp
đến từng học sinh.
- Nguyên tắc xem hướng nghiệp như là một khâu hữu cơ của việc giáo
dục Cộng sản chủ nghĩa cho thế hệ trẻ.
- Nguyên tắc đảm bảo quyền độc lập và tự giác lựa chọn nghề nghiệp của
học sinh gắn liền với việc đánh giá thực tế tình huống cụ thể của cuộc sống.

- Nguyên tắc tích cực hoá lập trường sống của học sinh trong việc tự xác
định nghề nghiệp và quyết định nghề nghiệp tương lai của mình.
2.3.5.2. Một vài quan niệm về định hướng nghề nghiệp hiên nay
Dưới đây là một vài quan niệm cơ bản về hướng nghiệp mà chúng tôi đã
thu thập được trên các phương tiện thông tin đại chúng:
- Saigonnet: Để chọn trường, chọn nghề, học sinh PTTH cần phải trang bị
những kiến thức sau:
+ Phải biết được thực chất năng lực của mình để thi đậu vào trường và để
tiếp thu kiến thức khi học nghề.
+ Hiểu biết về nội dung của một nghề: tên nghề, chức danh, bậc đào tạo,
đối tượng tiép xúc, môi trường làm việc, thời gian làm việc, sản phẩm của nghề.
+ Năng lực và tính chất mà nghề đòi hỏi ở người hành nghề.
+Những thông tin về đào tạo và tuyển sinh.
- Trang Wed về thi cử của Bộ Giáo dục và Đào tạo:
Hướng nghiệp cho con cái của các bậc cha mẹ huyện Văn Giang - Tỉnh Hưng Yên
23
Báo cáo thực tập Đỗ Thị Hường K49
TLH Tại chức
Để định hướng nghề nghiệp tương lai đúng đắn, mỗi người cần phải trả
lời 3 câu hỏi về thiên hướng cá nhân, lợi ích tài chính và khả năng thành công.
Tức là phát hiện thiên hướng cá nhân là gì, mức độ quan tâm đến công việc và
hướng phát triển nghề nghiệp như thế nào, khả năng phát triển trong một lĩnh
vực nào đó cũng là điều có ý nghĩa ngay cả khi trái ngành. Lợi ích tài chính mà
ngành nghề đem lại cũng cần phải đuợc cân nhắc kỹ lưỡng. Nguồn tài chính mà
nó mang lại có đáng kể hay không. Sau cùng nên lường trước mức độ thành
công của nghề.
- Góc học sinh, sinh viên: Bố mẹ định hướng nghề nghiệp cho con phải
căn cứ vào 4 yếu tố: năng khiếu của con, lòng nhiệt tình, hoàn cảnh (sức khoẻ,
điều kiện kinh tế gia đình), và hiệu quả làm việc.
2.3.6. Thực trạng hoạt động hướng nghiệp ở Việt Nam trong thời gian qua

Với đánh giá trong đề tài khoa học nghiên cứu động cơ chọn nghề của học
sinh PTTH của tác giả Phạm Nguyệt Lãng, kết quả cho thấy phần đông học sinh
PTTH chọn nghề theo đúng hứng thú cá nhân, theo sự phù hợp khả năng cá
nhân với nghề nghiệp, nghề có điều kiện học lên, nghề được xã hội coi trọng. Từ
số liệu của một cuộc điều tra học sinh PTTH năm 1981 thấy 89.4% trong số các
em được hỏi thích vào Đại học, Cao đẳng, đến năm 1996, con số này là 91.2%,
chỉ có 3.9% thích học nghề. Giáo sư Phạm Tất Dong khẳng định: Việc chọn
nghề của học sinh PTTH còn nhiều lệch lạc, biểu hiện ở tâm lý chuộng bằng
cấp, chọn nghề theo ý thích chủ quan và cảm tính, có khi a dua theo trào lưu thời
thượng trước mắt, lệ thuộc vào ý kiến của gia đình, thiếu thực tế. Đồng thời việc
chọn nghề đào tạo sau khi ra trường chưa xuất phát từ nhu cầu của thị trường lao
động. Chính điều này là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng sinh
viên tốt nghiệp Đại học chưa có việc làm ngày càng gia tăng, năm sau cao hơn
năm trước. Chúng ta có thể dẫn ra một vài con số:
Hơn 60% sinh viên ra trường chưa có việc làm, trong số những người tìm
được).
Hướng nghiệp cho con cái của các bậc cha mẹ huyện Văn Giang - Tỉnh Hưng Yên
24
Báo cáo thực tập Đỗ Thị Hường K49
TLH Tại chức
Năm 1993, trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh có 7830 kỹ sư, cử nhân,
bác sĩ ra trường không có việc làm, 2% trong đó có trình độ khá giỏi, 20% học
những ngành ít có nhu cầu tuyển dụng.
Đại học Y Hà Nội từ năm 1987 đến năm 1991 có tới 1000/1600 bác sĩ ra
trường không có việc làm, trong khi mới chỉ có 17.7% tổng số trạm xá xã trên cả
nước có bác sỹ. Tháng 5/2002 con số này lên tới 52.7%.
Những con số mà chúng tôi đưa ra ở trên cho thấy rằng thực tế công tác
hướng nghiệp chưa được chú trọng. Vì vậy trong nững năm tới để hạn chế
những tình trạng trên, chúng ta cần phải đẩy mạnh hơn nữa công tác hướng
nghiệp. Giáo dục hướng nghiệp cần thiết phải trở thành trách nhiệm chung của

gia đình, nhà trường và xã hội.
2.4. Một vài đặc điểm tâm lý của các bậc cha mẹ có con học bậc PTTH
2.4.1. Khái niệm gia đình
Đóng vai trò quan trọng đối với mỗi cá nhân và với toàn xã hội, gia đình
trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau: Tâm lý
học, xã hội học, giáo dục học
Theo lịch sử ngôn ngữ, từ “gia đình” xuất hiện từ thế kỉ thứ XVI nhưng
cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa nào hoàn toàn được công nhận.
Ở góc độ vĩ mô, xã hội học coi gia đình là một thiết chế xã hội, là một
đơn vị cơ sở được mọi người công nhận để thực hiện những chức năng xã hội
nhất định, mà trước hết là sự tái sinh các đặc trưng của loài người
(M.Horkheimer).
Ở góc độ vi mô, gia đình thường được mô tả là nhóm gồm một cặp vợ –
chồng chung sống với lớp kế cận trực tiếp của họ. Tuy nhiên định nghĩa này đã
quá nhấn mạnh về mặt sinh học và chỉ thu gọn khái niệm gia đình về gia đình
hạt nhân mà chưa đề cập đế sự gắn bó, giúp đỡ nhau giữa các thành viên trong
gia đình, trong khi trên thực tế đây mới là tiêu chuẩn của một gia đình thực sự.
Nhà nghiên cứu người Ba Lan J.Szepanski coi gia đình là một nhóm
những người gắn bó với nhau bằng qua hệ vợ chồng và huyết thống, đó là hai
quan hệ cơ bản quyết định sự hình thành và tồn tại của gia đình.
Hướng nghiệp cho con cái của các bậc cha mẹ huyện Văn Giang - Tỉnh Hưng Yên
25

×