Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

luận văn thạc sĩ Bình đẳng về giới trong gia đình ở nông thôn tại xã Nga Giáp, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (566.61 KB, 95 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, sự tiến bộ của con người được xem là tiêu chuẩn cao nhất
của phát triển xã hội. Sự phát triển xã hội đòi hỏi phải đem lại công bằng,
bình đẳng cho mọi người (cả nam và nữ) trong cơ hội và điều kiện cống hiến
cũng như hưởng thụ các thành quả của phát triển. Điều này hoàn toàn phù
hợp với mục tiêu của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, cuộc cách mạng
được xem là triệt để nhất trong lịch sử nhân loại. Trong công cuộc đổi mới
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng cộng sản Việt Nam luôn coi con
người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển, việc chăm lo phát
triển nguồn lực con người là một nhân tố quyết định thành công của công
cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Chăm lo phát
triển nguồn lực con người hướng vào cả nam và nữ với các tiêu chí: phát
triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tình cảm, đạo đức.
Nông thôn là đơn vị hành chính, vùng cư trú từ rất lâu trong lịch sử.
Cùng với tốc độ phát triển kinh tế đất nước thì nông thôn ngày nay cũng có
những thay đổi khá mạnh mẽ về cả đời sống vật chất lẫn tinh thần. Bên cạnh
đó, nó cũng làm cho nông thôn xuất hiện những vấn đề nổi cộm mang tính
cấp thiết và cần được xem xét để giải quyết. Một trong những vấn đề đáng
quan tâm đó là Bất bình đẳng giới trong gia đình ở nông thôn.
Bất bình đẳng giới là vấn đề xuất hiện rất lâu trong lịch sử loài người.
Do đó, cũng đã rất lâu cuộc đấu tranh của phụ nữ đấu tranh giành quyền bình
đẳng đối với nam giới đã xuất hiện và phát triển. Đặc biệt ở nước ta bất bình
đẳng giới diễn ra mạnh mẽ ở các vùng nông thôn, chủ yếu là với phụ nữ.
Thực trạng này đã và đang trở thành bài toán nan giải đặt ra với các nhà lãnh
đạo, hoạch định chính sách, các cơ quan chức năng có thẩm quyền, các chính
quyền địa phương. Đồng thời cũng đã để lại những hậu quả nghiêm trọng
đối với đời sống kinh tế xã hội nói chung. Xã Nga Giáp, huyện Nga Sơn, tỉnh
1
Thanh Hóa cũng là một vùng nông thôn như bao vùng nông thôn khác của
Việt Nam, nên cũng không nằm ngoài vòng của vấn đề bất bình đẳng giới


trong gia đình.
Trong xã hội người phụ nữ luôn là đối tượng yếu thế, chịu nhiều thiệt
thòi, bất công trong cuộc sống gia đình cũng như trong quan hệ xã hội. Họ là
người có nhiều cống hiến, hy sinh cho gia đình, xã hội nhưng công lao đó
không được công nhận, tôn vinh, mà phải chịu sự bất công, bất bình đẳng.
Chính sự bất công bằng đó là rào cản làm hạn chế năng lực phát triển của
người phụ nữ nói chung và đặc biệt là người phụ nữ nông thôn nói riêng.
Dường như những quy định, lễ giáo phong kiến, nề nếp gia phong của dòng
tộc, làng quê đã ăn sâu vào trong tiềm thức của mỗi người dân Việt Nam. Và
người phụ nữ nông thôn từ khi mới sinh ra đã bị giáo dục theo kiểu áp đặt bất
công, nên họ luôn cam chịu số phận, coi điều đó là điều tất nhiên phải tuân
theo. Và cứ như thế, những người phụ nữ nông thôn trở nên nhỏ bé trong gia
đình và ngoài xã hội; họ bị những quan niệm, thành kiến truyền thống đó đè
nặng mà không sao thoát ra được, hết thế hệ này đến thế hệ khác chấp nhận
sự bất bình đẳng đó.
Xã hội hiện đại - xã hội chủ nghĩa cộng sản là xây dựng một xã hội
không còn bất công, không còn bất bình đẳng giới. Nhưng để thực hiện được
điều đó không phải điều đơn giản có thể thực hiện trong một sớm một chiều
được. Nó cần có sự nỗ lực, hợp tác của tất cả các thành viên trong xã hội, các
cơ quan tổ chức có thẩm quyền cùng tham gia giải quyết. Đây chính là vấn đề
quan tâm của toàn xã hội và là đối tượng nghiên cứu của ngành công tác xã
hội. Với tư cách là sinh viên ngành công tác xã hội tôi xin nghiên cứu vấn đề:
Vận dụng phương pháp phát triển cộng đồng nhằm làm giảm bất bình
đẳng giới trong gia đình ở nông thôn tại xã Nga Giáp, huyện Nga Sơn,
tỉnh Thanh Hóa hiện nay. Để từ đó giúp nâng cao nhận thức và thay đổi thái
độ của mọi người trong xã hội, đặc biệt là những người ở nông thôn để lấy lại
công bằng, khẳng định vị thế của người phụ nữ trong gia đình và xã hội.
2
Bài làm của tôi không tránh khỏi những thiếu sót do hạn chế về tài liệu
tham khảo, kiến thức chuyên môn và thời gian nghiên cứu hạn hẹp rất mong

nhận được sự quan tâm, bổ sung và đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo để
bài làm của tôi được hoàn thiện hơn.
2. Tổng quan nghiên cứu của đề tài
Vấn đề giải phóng phụ nữ được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác -
Lê Nin đề cập rất sớm trong nhiều tác phẩm. Ở Việt Nam, vấn đề giải phóng
phụ nữ cũng được Đảng cộng sản Việt Nam quan tâm ngay từ khi mới thành
lập (năm 1930). Từ góc độ nghiên cứu lịch sử, trong tác phẩm "Phụ nữ Việt
Nam qua các thời đại" (1975), của giáo sư Lê Thị Nhâm Tuyết, NXB Khoa học
xã hội, Hà Nội (tái bản lần thứ hai) đã đề cập khá sâu sắc vị thế người phụ nữ
Việt Nam trong gia đình và ngoài xã hội suốt chiều dài lịch sử, từ khi khai
phá nền văn minh của dân tộc cho đến những năm 60. Song, có lẽ việc
nghiên cứu về phụ nữ và gia đình ở Việt Nam chỉ được đặt ra và giải quyết
như một bộ môn khoa học mới từ năm 1987 với sự ra đời của Trung tâm
Nghiên cứu phụ nữ (sau đổi thành Trung tâm Nghiên cứu khoa học về gia
đình và phụ nữ năm 1993). Cho đến nay, ở Việt Nam đã có nhiều trung tâm
nghiên cứu về phụ nữ và gia đình như:
- Trung tâm Nghiên cứu khoa học về gia đình và phụ nữ thuộc Trung
tâm Khoa học xã hội và Nhân văn quốc gia.
- Trung tâm Nghiên cứu giới, gia đình và môi trường trong phát triển.
- Trung tâm Nghiên cứu lao động nữ thuộc Bộ Lao động, Thương binh và
Xã hội.
- Trung tâm Nghiên cứu và đào tạo về phụ nữ - Đại học Quốc gia
Việt Nam.
- Khoa Phụ nữ học - Trường đại học Mở, thành phố Hồ Chí Minh.
Mặc dù thời gian chưa nhiều nhưng được sự quan tâm của Đảng, Nhà
nước, sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế và sự tâm huyết của nhiều nhà khoa
học, một số vấn đề lý luận và thực tiễn nghiên cứu phụ nữ và gia đình Việt
3
Nam đã được đặt ra, xem xét và có hướng giải quyết đúng đắn, trong đó có
những chủ đề nghiên cứu về phụ nữ, gia đình nông thôn.

Nhiều công trình nghiên cứu được tiến hành độc lập hoặc tổ chức theo
liên ngành mà kết quả đã được công bố trên các sách, báo, tạp chí. Nhiều cuộc
hội thảo được tổ chức đã góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực
tiễn trong việc nghiên cứu sự bình đẳng giới trong gia đình ở nông thôn. Nhiều
tác giả đã tập trung nghiên cứu và xuất bản nhiều tác phẩm có giá trị như: "Phụ
nữ, giới và phát triển" (1996) của tiến sĩ Trần Thị Vân Anh và tiến sĩ Lê Ngọc
Hùng, NXB Phụ nữ, Hà Nội; "Phụ nữ và bình đẳng giới trong đổi mới ở Việt
Nam" (1998) của giáo sư Lê Thi, NXB Phụ nữ, Hà Nội; là những tác phẩm đặt
cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu phụ nữ và gia đình theo phương pháp tiếp cận
giới - một phương pháp nghiên cứu mới mẻ nhưng rất hiệu quả. Nhiều đề tài
nghiên cứu cấp bộ đã được tiến hành và nghiệm thu như: "Vai trò của phụ nữ
nông thôn trong phát triển kinh tế ở đồng bằng sông Hồng" (1996 - 1997) và
"Phụ nữ nông thôn và việc phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp ở một số
xã vùng đồng bằng sông Hồng" (1995 - 1996) là hai đề tài cấp Bộ của Trung
tâm Nghiên cứu khoa học về phụ nữ và gia đình. Nhiều công trình được đăng
trên các sách và tạp chí đã đề cập một phần thực trạng sự bình đẳng giới trong
gia đình ở nông thôn đồng bằng sông Hồng. Trên cơ sở nghiên cứu thực tế,
nhiều tác phẩm đã đề cập tới việc xây dựng các chính sách như: "Chính sách xã
hội đối với phụ nữ nông thôn" (1998) của tiến sĩ Lê Thị Vinh Thi, NXB Khoa
học xã hội, Hà Nội; "Gia đình Việt Nam ngày nay" (1996) do giáo sư Lê Thi
chủ biên, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội; đã đặt cơ sở cho việc hoạch định các
chính sách phát triển nông thôn theo hướng tiến bộ, đáp ứng yêu cầu giới. Thời
gian gần đây, Trung tâm Nghiên cứu Khoa học về phụ nữ và gia đình cũng đang
tiến hành các điều tra cơ bản về gia đình ở đồng bằng sông Hồng, một số công
trình đã được công bố trên các sách báo và tạp chí của trung tâm.
Các công trình nghiên cứu kể trên là những tư liệu tham khảo hết sức
quan trọng để tôi thực hiện đề tài của khóa luận. Nhưng nhìn chung, các
4
nghiên cứu mới đặt vấn đề trên diện rộng, chưa có công trình nào đi sâu
nghiên cứu một cách cơ bản và có hệ thống về bình đẳng giới trong gia đình

ở nông thôn trong công cuộc đổi mới. Trước tình hình đó, tôi chọn đề tài này
mong muốn góp phần nhỏ bé của mình vào việc nghiên cứu "Bình đẳng về
giới trong gia đình ở nông thôn tại xã Nga Giáp, huyện Nga Sơn, tỉnh
Thanh Hóa" cả về phương diện lý luận và thực tiễn dưới góc độ chuyên
ngành công tác xã hội.
Vì vậy đã có nhiều các chương trình, dự án nghiên cứu đề ra các biện
pháp nhằm giải quyết vấn đề này. Có một số chương trình, dự án đã mang lại
kết quả và được áp dụng rộng rãi trong thực tế. Tiêu biểu như:
- Chương trình bất bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ của Liên
Hiệp Quốc.
- Chương trình thúc đẩy bất bình đẳng giới để chống buôn bán phụ nữ và
trẻ em.
- Chiến lược quốc gia về bất bình đẳng giới.
- Quy định về các biện pháp bảo đảm về bất bình đẳng giới.
- Chương trình hành động quốc gia nhằm thúc đẩy bình đẳng giới và
nâng cao năng lực cho phụ nữ.
- Luật bình đẳng giới của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Hội thảo tham vấn dự thảo chiến lược quốc gia về bình đẳng giới.
- Huấn luyện bình đẳng giới tại cộng đồng.
- Lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong dự thảo luật phòng chống bạo
hành gia đình.
- Bất bình đẳng giới trong chăm sóc sức khỏe sinh sản.
Trong thực tế, đã có nhiều người nghiên cứu và tìm hiểu về vấn đề
này. Cụ thể như:
- Vấn đề bình đẳng giới của gia đình nông thôn ven đô thành phố Mỹ
Tho – tỉnh Tiền Giang trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa –
Nguyễn Thị Uyên.
5
- Vấn đề giới trong gia đình, nghiên cứu tại xã Chuế Lưu, huyện Hạ
Hòa, tỉnh Phú Thọ - Lê thế Nam.

- Bình đẳng về giới trong gia đình ở nông thôn đồng bằng sông Hồng
hiện nay- Nhóm sinh viên trường Đại học Đà Lạt.
Những nghiên cứu trên là cơ sở, nền tảng để tôi có thể tham khảo và
phát triển khóa luận của mình hoàn chỉnh hơn.
3. Mục đích và mục tiêu nghiên cứu
* Mục đích
Mục đích khi nghiên cứu vấn đề này là khai thác, tìm hiểu sâu vấn đề
bất bình đẳng giới trong gia đình ở nông thôn tại xã Nga Giáp, huyện Nga
Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Từ đó nhằm nâng cao nhận thức của người dân nói
chung, người phụ nữ nông thôn nói riêng về vấn đề bất bình đẳng giới trong
gia đình. Thông qua đó áp dụng các biện pháp, mô hình của phát triển cộng
đồng để giảm thiểu thực trạng bất bình đẳng trong gia đình ở nông thôn, cũng
như làm thay đổi nhận thức của mọi người dân trong xã hội về vấn đề này.
* Mục tiêu cụ thể
- Tìm hiểu lịch sử đấu tranh về bất bình đẳng giới trong gia đình ở trên
thế giới, ở Việt Nam.
- Nghiên cứu đặc điểm tâm lý của phụ nữ nói chung và phụ nữ nông thôn
nói riêng.
- Tìm hiểu đặc trưng của vùng nông thôn xã Nga Giáp, huyện Nga sơn,
tỉnh Thanh Hóa.
- Nghiên cứu các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về giải
quyết vấn đề bất bình đẳng giới trong gia đình tại nông thôn.
- Trình bày thực trạng bất bình đẳng giới trong gia đình ở nông thôn tại
xã Nga Giáp, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
- Tìm ra các nguyên nhân dẫn đến bất bình đẳng giới trong gia đình ở
nông thôn tại xã Nga Giáp, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
6
- Đưa ra những hậu quả do bất bình đẳng giới trong gia đình ở nông thôn
gây ra.
- Đề xuất các biện pháp, xây dựng mô hình của phương pháp phát triển cộng

đồng để nâng cao nhận thức và thay đổi thái độ của người dân như:
+ Nâng cao vai trò của người phụ nữ trong gia đình ở nông thôn.
+ Khẳng định vị trí của người phụ nữ trong gia đình.
+ Tôn trọng ý kiến của người phụ nữ trong gia đình trong việc ra quyết
định quan trọng như: chuyện học hành của con cái, chuyện cưới xin của
con…
+ Thu hút sự tham gia của người phụ nữ vào các công hoạt động sản
xuất kinh tế của gia đình.
+ Nâng cao nhận thức của người nam giới cũng như thái độ, suy nghĩ
của họ về vai trò của người phụ nữ.
+ Thu hút sự tham gia của người nam giới vào các công việc đồng áng,
chăm sóc con cái, …
- Vai trò của nhân viên công tác xã hội.
+ Áp dụng các biện pháp trợ giúp về tham vấn tâm lý cho phụ nữ và
nam giới ở nông thôn tại xã Nga Giáp, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
+ Tổ chức các buổi tập huấn, giao lưu, tuyên truyền về vấn đề bất bình
đẳng giới trong gia đình tại địa phương.
+ Kết nối, khai thác các nguồn lực trong gia đình, tại địa phương để
giúp đỡ giải quyết vấn đề.
+ Tham mưu cùng với các cơ quan chức năng liên ngành trong việc
hoạch định các chính sách và đề ra các biện pháp giải quyết mang lại hiệu
quả cao.
4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
4.1. Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian: Từ tháng 12 năm 2010 đến tháng 05 năm 2011.
- Về không gian: Tại xã Nga Giáp, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
7
4.2. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Vấn đề bất bình đẳng giới trong gia đình nông
thôn tại xã Nga Giáp, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa.

- Chủ thể nghiên cứu: Phụ nữ trong gia đình ở nông thôn.
- Khách thể nghiên cứu: Các gia đình nông thôn tại xã Nga Giáp,
huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp quan sát: quan sát cách tổ chức, sinh hoạt của từng gia
đình trong địa phương; quan sát không khí của gia đình; quan sát thái độ của
các thành viên trong gia đình…
- Phương pháp phỏng vấn: cá nhân(nam giới, phụ nữ, con cái);gia
đình; hàng xóm láng giềng; chính quyền địa phương…
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: được thực hiện đối với từng đối
tượng, từng gia đình trong địa bàn. Có phân tích, xử lý các số liệu cụ thể.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: dựa trên các tài liệu liên quan, các
báo cáo, chương trình, dự án có liên quan đến bất bình đẳng giới.
6. Những đóng góp về mặt khoa học của khóa luận
- Từ góc độ triết học, chuyên ngành công tác xã hội, bước đầu khóa
luận đã kết hợp chặt chẽ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam với phương pháp công
tác xã hội trong xem xét, lý giải vấn đề bình đẳng giới. Sự kết hợp này được
coi là bước phát triển lôgíc của quá trình nhận thức, làm sáng tỏ hơn những
vấn đề lý luận về giải phóng phụ nữ, thực hiện bình đẳng nam nữ.
- Từ việc khảo sát thực tiễn quan hệ về giới trong gia đình ở nông thôn xã
Nga Giáp, khóa luận đề xuất phương hướng cơ bản và giải pháp chủ yếu
nhằm nâng cao sự bình đẳng về giới trong gia đình, coi đây như một điều
kiện, tiền đề quan trọng nhằm phát huy nguồn nhân lực ở nông thôn hiện nay.
8
7. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Đề tài nhằm khái quát sơ lược bức tranh về sự bất bình đẳng giữa nam
giới và phụ nữ trong việc phân công lao động, tiếp cận nguồn lực về y tế,
giáo dục và vấn đề quyền lực trong gia đình. Cho thấy sự bất bình đẳng về
mức độ đóng góp và thụ hưởng giữa hai giới. Đề ra một số biện pháp nhằm

góp phần giảm thiểu bất bình đẳng, nâng cao nhận thức của người phụ nữ về
vị thế, vai trò, quyền lợi và tự khẳng định chính mình trong bối cảnh xã hội
hiện nay. Giúp nam giới có cách nhìn khác về phụ nữ, đem lại sự công bằng
cho người phụ nữ.
Việc nghiên cứu đề tài là một cơ hội để em được trải nghiệm thực tế,
áp dụng những kiến thức đã được học, đặc biệt là kiến thức chuyên ngành
công tác xã hội. Qua đó, thu được nhiều kinh nghiệm và bài học bổ ích, cần
thiết cho bản thân.
Và em mong rằng những kết luận, nhận định của đề tài sẽ là tài liệu
tham khảo cho những ai muốn tìm hiểu vấn đề này sâu hơn và mong được sự
đóng góp ý kiến của các thầy cô, các bạn để đề tài của em hoàn thiện hơn.
8. Kết cấu của đề tài khóa luận
Ngoài phần lời nói đầu thì khóa luận tốt nghiệp gồm có 3 chương:
- Chương 1: Tổng quan chung về vấn đề bất bình đẳng giới trong gia
đình ở nông thôn
- Chương 2: Thực trạng bất bình đẳng giới trong gia đình ở nông thôn tại
xã Nga Giáp, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa hiện nay
- Chương 3: Vận dụng phương pháp phát triển cộng đồng vào trợ giúp
giải quyết vấn đề bất bình đẳng giới trong gia đình ở nông thôn tại xã Nga Giáp,
huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa hiện nay
9
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN CHUNG VỀ VẤN ĐỀ BẤT BÌNH ĐẲNG GIỚI
TRONG GIA ĐÌNH Ở NÔNG THÔN
1.1. Khái niệm chung
1.1.1. Giới
Là một khoa học nghiên cứu sự khác biệt về sinh học và mối quan hệ
xã hội giữa nam và nữ về mặt xã hội. Nói về giới là nói về vai trò, trách
nhiệm và quyền lợi mà xã hội quan niệm hay quy định cho nam và nữ.
1.1.2. Giới tính

Là khái niệm khoa học chỉ sự khác biệt giữa nam và nữ về mặt sinh
học. Sự khác biệt này chủ yếu liên quan đến quá trình tái sản xuất con người,
di truyền nòi giống.
1.1.3. Phụ nữ
Phụ nữ là một lực lượng cơ bản, nhân tố phát triển của xã hội, có chức
năng xã hội cao quý, đóng góp to lớn vào sự phát triển nhân loại song họ
được hưởng rất ít những thành quả vật chất và tinh thần do họ làm ra. Lịch sử
luôn ghi nhận người phụ nữ là nguồn hạnh phúc, chăm sóc chồng con, đỡ đần
cha già mẹ yếu, là chỗ dựa cho gia đình trong nhiều phương diện cuộc sống.
Phụ nữ có vai trò kép, nhưng trước đây, nói đến phụ nữ người ta
thường nghĩ đến trách nhiệm của họ trong gia đình. Ngày nay người ta đã
thừa nhận một hiện thực là phụ nữ tham gia công việc xã hội không chỉ ngày
càng nhiều mà còn rất thông minh sáng tạo, vị trí quan trọng của phụ nữ đang
ngày càng được khẳng định, song khoảng cách giới vẫn còn là một thách thức
đối với toàn thế giới trong đó có Việt Nam.
1.1.4. Bình đẳng giới
Là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ
hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình
và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó.
10
1.1.5. Định kiến giới
Là nhận thức, thái độ và đánh giá thiên lệch, tiêu cực về đặc điểm, vị
trí, vai trò và năng lực của nam hoặc nữ.
1.1.6. Phân biệt đối xử về giới
Là việc hạn chế, loại trừ, không công nhận hoặc không coi trọng vai
trò, vị trí của nam và nữ, gây bất bình đẳng giữa nam và nữ trong các lĩnh
vực của đời sống xã hội và gia đình.
1.1.7. Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới
Là biện pháp nhằm bảo đảm bình đẳng giới thực chất, do cơ quan nhà
nước có thẩm quyền ban hành trong trường hợp có sự chênh lệch lớn giữa

nam và nữ về vị trí, vai trò, điều kiện, cơ hội phát huy năng lực và thụ hưởng
thành quả của sự phát triển mà việc áp dụng các quy định như nhau giữa nam
và nữ không làm giảm được sự chênh lệch này. Biện pháp thúc đẩy bình đẳng
giới được thực hiện trong một thời gian nhất định và chấm dứt khi mục đích
bình đẳng giới đã đạt được.
1.1.8. Chỉ số phát triển giới (GDI)
Là số liệu tổng hợp phản ánh thực trạng bình đẳng giới, được tính trên
cơ sở tuổi thọ trung bình, trình độ giáo dục và thu nhập bình quân đầu người
của nam và nữ.
1.1.9. Nông thôn
Là một phân hệ xã hội có lãnh thổ xác định đã định hình lâu trong lịch
sử, có hệ thống độc lập tương đối ổn định; là một tiểu hệ thống không gian –
xã hội. Các thành phần cơ bản của nó đồng nhất với đô thị, song mặt khác lại
tách biệt với đô thị.
1.1.10. Mục tiêu bình đẳng giới
Mục tiêu bình đẳng giới là xoá bỏ phân biệt đối xử về giới, tạo cơ hội
như nhau cho nam và nữ trong phát triển kinh tế - xã hội và phát triển nguồn
nhân lực, tiến tới bình đẳng giới thực chất giữa nam, nữ và thiết lập, củng cố
11
quan hệ hợp tác, hỗ trợ giữa nam, nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội
và gia đình.
1.2. Lý thuyết ứng dụng
1.2.1. Lý thuyết tiếp cận giới
Quan điểm giới, xuất phát từ những lý thuyết nữ quyền cho rằng nam
giới và nữ giới trải nghiệm thực tế cuộc sống và cảm nhận về đời sống gia
đình rất khác nhau. Từ quan điểm giới, gia đình không phải là một đơn vị hài
hòa, hợp tác, dựa trên cơ sở lợi ích chung và giúp đỡ lẫn nhau, gần giống
quan điểm tiếp cận xung đột mà đây là nơi diễn ra sự phân công lao động
theo giới, quyền lực và cơ hội tiếp cận nguồn lực không ngang nhau và luôn
bất lợi cho phụ nữ.

Trong quá trình phân tích sự biến đổi gia đình, quan điểm giới và
phương pháp luận phân tích giới sẽ được lồng ghép vào các nội dung nghiên
cứu. Những vấn đề cơ bản sẽ được chú trọng phân tích là: sự phân công lao
động theo giới; sự tiếp cận với nguồn lực, quyền ra quyết định, sự đóng góp
và thụ hưởng của các thành viên trong gia đình.
1.2.2. Lý thuyết nữ quyền
Nữ quyền là đề cập đến phong trào phụ nữ thế kỷ XIX, những người
tìm cách chấm dứt sự phụ thuộc của phụ nữ. Quan điểm về nữ quyền bao
gồm các lý thuyết xã hội khác nhau: nữ quyền tự do, nữ quyền mác xít, nữ
quyền xã hội chủ nghĩa. Tất cả đều nhằm giải thích nguyên nhân của việc phụ
nữ bị áp bức trong xã hội và phong trào nữ quyền là một lực lượng xã hội để
thay đổi quan hệ giới nhằm làm nâng cao địa vị của phụ nữ.
1.2.3. Học thuyết nhu cầu của A. Maslaw
Theo Abraham Maslaw nhu cầu của con người phù hợp với sự phân
cấp từ nhu cầu thấp nhất đến nhu cầu cao nhất. Khi một nhóm các nhu cầu
được thỏa mãn thì loại nhu cầu này không còn là động cơ thúc đẩy nữa.
Maslaw xây dựng tháp nhu cầu của con người gồm 5 bậc: nhu cầu sinh lý là
nhu cầu cơ bản để có thể duy trì sự sống của con người; nhu cầu an toàn là
12
những nhu cầu tránh sự nguy hiểm về thân thể; nhu cầu xã hội là sự liên kết
và chấp nhận; nhu cầu cần được tôn trọng; nhu cầu về sự phát triển hoàn
thiện bản thân. Vì vậy, khi làm bất cứ vấn đề gì cũng cần xét đến các nhu cầu
của con người.
1.2.4. Thuyết về quyền con người
Con người khi sinh ra đã được tự nhiên ban cho những quyền cơ bản
như: quyền sống còn, quyền tự do, quyền hạnh phúc… Trong đó, có quyền
thiêng liêng không thể xâm phạm được là quyền được tự do, công bằng và
bình đẳng, quyền này phải được nhà nước, pháp luật công nhận. Và quyền
con người đó phải được phát triển cùng với sự phát triển của xã hội.
Quyền con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển.

Đó sẽ là cơ sở để mọi hoạt động của con người hướng tới và chỉ khi nào
quyền của con người được đảm bảo thì xã hội mới phát triển bền vững.
1.3. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam
về bình đẳng giới
1.3.1. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về bất bình đẳng giới
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định phụ nữ là lực lượng
đông đảo của cách mạng. Trong lớp học ở Quảng Châu, khi nói về vai trò
của phụ nữ, Người đã nhắc lại quan điểm của Mác: Ai đã biết lịch sử thì
biết rằng muốn sửa sang xã hội mà không có phụ nữ giúp vào thì chắc
không làm nổi. Và Người chỉ rõ Việt Nam Kách mệnh cũng phải có nữ
giới mới thành công. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá đúng vai trò và
khả năng của phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội, Người khẳng định:
“Non sông gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ cũng như già, ra sức dệt
thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ”. Dưới chế độ phong kiến, thực dân, phụ nữ là
lớp người bị áp bức bóc lột nhiều nhất, chịu nhiều nỗi bất công, đau khổ
nhất. Thông cảm và bênh vực cho quyền lợi của phụ nữ, Người xác định
giải phóng phụ nữ, giành quyền bình đẳng cho phụ nữ là một trong các
mục tiêu của cách mạng: “Nếu không giải phóng phụ nữ thì không giải
13
phóng một nửa loài người. Nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng Chủ
nghĩa xã hội chỉ một nửa”. Đây là tư tưởng vừa thể hiện sự kế thừa, vừa
phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lê nin về cách mạng giải phóng dân
tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng đó thể hiện quan điểm nhân
đạo thực hiện nam nữ bình đẳng. Quan điểm “nam, nữ bình quyền” của
Đảng và Bác Hồ được xác định ngay trong Cương lĩnh đầu tiên của
Đảng năm 1930. Trong những năm tháng ác liệt của cuộc kháng chiến
chống đế quốc Mỹ xâm lược, ngày 10-01-1967, Ban Bí thư Trung ương
Đảng đã ban hành Nghị quyết số 152-NQ/TƯ về một số vấn đề lãnh đạo
công tác phụ vận, chỉ rõ: “Tư tưởng phong kiến đối với phụ nữ còn tồn tại
sâu sắc trong một số cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ lãnh đạo. Thể hiện rõ

nhất tư tưởng hẹp hòi “trọng nam, khinh nữ’’, chưa tin vào khả năng lãnh
đạo và khả năng quản lý kinh tế của phụ nữ, chưa thấy hết khó khăn trở
ngại của phụ nữ ’’.(Tài liệu tham khảo 14).
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định vị trí, vai trò của phụ nữ trong
sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta, Người luôn căn dặn các cấp
uỷ đảng, cơ quan, đơn vị phải quan tâm chăm lo công tác phụ nữ, đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ nữ, vì sự nghiệp giải phóng phụ nữ. Trong 80 năm qua,
quan điểm đó luôn được thể hiện trong các chỉ thị, nghị quyết của Đảng.
Quan điểm của Bác Hồ ngời sáng niềm tin vững chắc vào tinh thần yêu
nước và khả năng lao động sáng tạo của phụ nữ. Người chỉ rõ: Con đường
giải phóng phụ nữ Việt Nam chỉ có thể là con đường đưa phụ nữ tham gia
cách mạng đánh đổ áp bức, bóc lột và chỉ ra những điều kiện chủ yếu để giải
phóng phụ nữ. Điều kiện đó không chỉ là sự phát triển văn hoá, giáo dục, mà
còn phải thu hút, tạo điều kiện để họ tham gia vào các hoạt động kinh tế - xã
hội của đất nước. Phụ nữ phải được giải phóng khỏi thân phận là kẻ giúp
việc trong gia đình, trở thành lực lượng lao động của toàn xã hội. Người phê
phán một số nhận thức chưa đúng về bình đẳng, giải phóng phụ nữ. Bình
đẳng không chỉ là “Hôm nay anh nấu cơm, rửa bát, quét nhà, hôm sau em
14
quét nhà, nấu cơm, rửa bát mà phải có sự phân công, sắp xếp lại lao động
trong toàn xã hội để phụ nữ tham gia vào các ngành nghề như nam
giới”. Trong thời kỳ hoạt động bí mật ở nước ngoài, Bác Hồ đã trực tiếp
tổ chức các lớp bồi dưỡng cán bộ cách mạng nước ta, trong đó có những
cán bộ nữ ưu tú đầu tiên như chị Nguyễn Thị Minh Khai Sau cách mạng
tháng Tám năm 1945, ngày 20-10-1946, Bác Hồ ra Chỉ thị thành lập Hội
liên hiệp Phụ nữ Việt Nam để tập hợp phụ nữ thành một khối thống nhất.
Hầu hết các ngày kỷ niệm Quốc tế Phụ nữ 8-3, ngày thành lập Hội liên hiệp
Phụ nữ Việt Nam 20-10 hằng năm, các hội nghị, đại hội đại biểu phụ nữ
toàn quốc, Người đều đến dự hoặc gửi thư đến động viên, khen thưởng và
chỉ ra nhiệm vụ của phụ nữ.(Tài liệu tham khảo 12).

Muốn có phong trào phụ nữ thì phải có cán bộ nữ. Người quan tâm
đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ nữ và nhắc nhở phải đặc biệt chú ý cất
nhắc cán bộ nữ vào các cơ quan lãnh đạo, nhất là các ngành hoạt động
thích hợp với phụ nữ. Cán bộ nữ là mối dây nối liền giữa Đảng với quần
chúng phụ nữ, là những người tiên phong của phong trào phụ nữ.
Bác tin tưởng khả năng to lớn của người phụ nữ. Người nhận thấy
cán bộ nữ có nhiều ưu điểm: “ít mắc tệ tham ô, lãng phí, không hay chè
chén, ít hống hách, mệnh lệnh như một số cán bộ nam”. Những ưu điểm đó
xuất phát từ đặc điểm tâm lý, đức tính tốt đẹp của phụ nữ là cẩn thận, chu
đáo, tiết kiệm trong chi tiêu, gần gũi với quần chúng Bố trí cán bộ nữ vào
đúng những vị trí, chức vụ phù hợp với khả năng, chị em phụ nữ sẽ có điều
kiện để phát huy năng lực của mình.
Đối với cán bộ nữ, Bác Hồ dành tình cảm đặc biệt, Người luôn
bao dung, độ lượng, thông hiểu hoàn cảnh và đặc điểm riêng của phụ nữ.
Đến dự hội nghị nào, Người cũng quan tâm đến số lượng, tỷ lệ đại biểu nữ
và ân cần mời chị em lên ngồi hàng ghế đầu, động viên chị em phát biểu ý
kiến. Có lần đến thăm một lớp học của cán bộ huyện vào tháng 1 năm 1967,
Người không hài lòng khi biết chỉ có 16 học viên là nữ trên tổng số 288
15
đồng chí. Bác động viên khuyến khích kịp thời khi cán bộ nữ trưởng
thành. Trong bài nói chuyện nhân dịp kỷ niệm lần thứ 20 ngày thành lập
Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Bác nói: “Phó tổng tư lệnh quân giải
phóng là cô Nguyễn Thị Định. Cả thế giới chỉ có nước ta có vị tướng quân
gái như vậy. Thật là vẻ vang cho miền Nam, cho cả dân tộc ta”.(Tài liệu
tham khảo19)
Hiểu, thông cảm, động viên và khuyến khích kịp thời để cán bộ nữ
phát huy ưu điểm, đồng thời Bác cũng chỉ ra những thiếu sót để cán bộ nữ
khắc phục. Bác nhắc nhở phụ nữ phải vươn lên để bình đẳng với nam giới về
trình độ, về năng lực quản lý kinh tế và quản lý xã hội. Muốn vậy phụ nữ
phải cố gắng học tập, chủ động quyết tâm khắc phục khó khăn, phải tự tin,

tự lực, tự cường, không nên tự ti, “ngồi chờ Chính phủ giải phóng cho
mình”. Người chỉ rõ: Công bằng cho phụ nữ là sự phân công một cách hợp
lý công việc đến từng người, tuỳ theo khả năng, hoàn cảnh cá nhân và sức
khoẻ. Sự bình đẳng phải được thể hiện trên mọi mặt chính trị, kinh tế, văn
hoá, xã hội. Bác luôn căn dặn, khi giao công tác cho phụ nữ, các cấp uỷ
Đảng, các ngành phải căn cứ vào trình độ của từng người và hết sức giúp
đỡ họ. Người cho rằng, việc chị em phụ nữ tham gia vào các cơ quan lãnh
đạo các cấp, các ngành là một cố gắng vượt bậc, nhiệm vụ của Đảng phải
quan tâm giúp đỡ họ thường xuyên, không phải đề bạt cán bộ nữ vào cơ
quan lãnh đạo cốt để đạt cơ cấu có nam, có nữ.
Bác Hồ đặc biệt quan tâm đến việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ.
Theo Bác, muốn giải phóng phụ nữ một cách triệt để thì phải bằng các
hình thức thích hợp đào tạo và bồi dưỡng họ trở thành những cán bộ giỏi
đủ sức thực hiện tốt nhiệm vụ được giao. Có thể nói, Bác Hồ là hiện thân
mẫu mực về sử dụng đúng cán bộ, nhất là đối với cán bộ phụ nữ. Người đã
khởi công xây dựng, phát huy phong trào phụ nữ thực hiện hai nhiệm vụ
chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Việc
phát huy hơn nữa vị trí vai trò của các tầng lớp phụ nữ xây dựng đội ngũ cán
16
bộ phụ nữ theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện
đại hóa đất nước là yêu cầu, đòi hỏi lớn. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X của Đảng tiếp tục khẳng định. Nâng cao trình độ mọi mặt và
đời sống vật chất, tinh thần tiếp tục thực hiện bình đẳng giới. Tạo điều
kiện để phụ nữ thực hiện tốt vai trò của người công dân, người lao động,
người mẹ, người thầy đầu tiên của con người. Bồi dưỡng, đào tạo để phụ nữ
tham gia ngày càng nhiều vào các hoạt động xã hội, các cơ quan lãnh đạo và
quản lý ở các cấp, chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ bà mẹ, trẻ em. Bổ sung và
hoàn chỉnh các chính sách về bảo hộ lao động, bảo hiểm xã hội, thai sản, chế
độ đối với lao động nữ, kiên quyết đấu tranh chống các tệ nạn xã hội và các
hành vi bạo lực, xâm hại và xúc phạm nhân phẩm phụ nữ. Đây là nhiệm vụ

của các cấp uỷ đảng, trước hết là của người đứng đầu.
Ngay trong Lời kêu gọi tại Hội nghị thành lập Đảng họp ngày 03 tháng
02 năm 1930, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã xác định: “Thực hiện nam nữ bình
quyền” là một trong 10 mục tiêu của Đảng khi mới vừa ra đời. Và trong suốt
cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Người luôn khẳng định vị trí, vai trò
của phụ nữ trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta; Người luôn
căn dặn các cấp uỷ Đảng, cơ quan, đơn vị phải quan tâm chăm lo công tác vận
động phụ nữ, đào tạo bồi dưỡng cán bộ nữ, vì sự nghiệp giải phóng phụ nữ…
Và như lời Bác đã viết, cùng với sự tiến bộ về chính trị, kinh tế, văn
hóa, pháp luật của đất nước, sự nghiệp “giải phóng phụ nữ”, “nam, nữ bình
quyền”, vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam ngày càng thu được nhiều thành
tựu. Trong hai cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm và hơn 20 năm thực
hiện đường lối đổi mới, phụ nữ Việt Nam đã luôn vững vàng, cùng sát cánh
với nam giới nỗ lực thi đua, phấn đấu và đóng góp công sức, trí tuệ để xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. (Tài liệu tham khảo 19).
1.3.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về bất bình đẳng giới
Trong quá trình cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan tâm
đến vấn đề phụ nữ và thực hiện mục tiêu bình đẳng giới. Ngay từ những năm
17
đầu thành lập Đảng, trong Án nghị quyết Trung ương toàn thể hội nghị của
Đảng Cộng sản Đông Dương (tháng 10-1930) về công tác phụ nữ vận động
đã nhận định “Phải làm cho quần chúng phụ nữ lao khổ tham gia vào những
cuộc đấu tranh cách mạng của công nông, đó là điều cốt yếu nhất, nếu phụ
nữ đứng ngoài cuộc đấu tranh cách mạng của công nông thì sẽ không bao
giờ đạt mục đích phụ nữ giải phóng được”. (Tài liệu tham khảo 19).
Thấm nhuần quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, vì thế
ngay từ những buổi đầu thành lập, Đảng đã khẳng định: trong một nước nửa
thuộc địa, nửa phong kiến như Việt Nam, người phụ nữ chịu nhiều tầng áp
bức (áp bức của thực dân, áp bức của phong kiến), lại thêm sự phân biệt đối
xử “trọng nam khinh nữ”. Do vậy, con đường giải phóng phụ nữ không thể

tách rời sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp.
Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (1946) quan
điểm bình đẳng nam nữ đã được ghi trong điều 9 “Đàn bà ngang quyền với
đàn ông trên mọi phương diện”, đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng về quan
điểm bình đẳng giới và chống phân biệt đối xử nam - nữ. Các văn bản Hiến
pháp tiếp theo (1959, 1980, 1992) đều kế thừa quan điểm bình đẳng nam - nữ
có từ Hiến pháp 1946. Điều này đã tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc thực
hiện quyền bình đẳng giới trong xã hội Việt Nam.
Khi nước nhà mới giành được độc lập, Việt Nam chưa hề có “phong
trào nữ quyền” với các mục tiêu, đường lối như các phong trào nữ quyền
của các nước phương Tây. Mặc dù vậy, người phụ nữ Việt Nam đã có được
quyền công dân ngay sau khi đất nước được độc lập, trong đó có quyền bầu
cử. Đây là một minh chứng hùng hồn cho thấy địa vị xã hội của người phụ nữ
Việt Nam có được sự bình đẳng với nam giới là nhờ thắng lợi của cách mạng
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp đem lại.
Trong thời kỳ đất nước đổi mới, chủ trương của Đảng về công tác phụ
nữ và bình đẳng giới được thể hiện xuyên suốt trong nghị quyết Đại hội
Đảng, các nghị quyết và chỉ thị của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban bí
18
thư về công tác quần chúng, công tác vận động phụ nữ, công tác cán bộ nữ.
Chính phủ cũng đã ban hành nhiều chính sách cụ thể nhằm tạo điều kiện để
phụ nữ phát triển và thúc đẩy bình đẳng giới. Nhờ vậy, “Phụ nữ được tôn
trọng và bình đẳng hơn, địa vị của người phụ nữ trong xã hội và gia đình
ngày càng được cải thiện. Bình đẳng giới ở Việt Nam được Liên hợp quốc
đánh giá là điểm sáng trong thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ” (nghị
quyết số 11-NQ/T.Ư của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, báo Nhân dân ngày 3-5-2007).
1.4. Các hình thức bất bình đẳng giới trong gia đình ở nông thôn
1.4.1. Bất bình đẳng giới trong quyền chủ nhà
Phụ nữ là người tiếp cận nguồn lực nhiều hơn nam giới nhưng lại ít

quyền kiểm soát nguồn lực đó. Việc hưởng thu nhập từ công việc cũng không
công bằng vì phụ nữ thường hy sinh những lợi ích vì chồng con.
Việc tiếp cận và quản lý đất đai đối với phụ nữ cũng hết sức khó khăn.
Ngay giấy chứng nhận quyền sở hữu đất đai ghi tên cả vợ và chồng cũng chỉ
chiếm một tỷ lệ rất nhỏ. Quyền sử dụng đất do nam giới nắm giữ đã ảnh
hưởng rất lớn đến quyền quyết định của họ trong gia đình trên nhiều công
việc quan trọng. Vẫn còn tồn tại khoảng cách khá lớn về giới đối với quyền
sử dụng đất. Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cần phải ghi tên cả vợ và chồng đối với đất chung của hai
người. Điều đó có ý nghĩa đặc biệt quan trọng để đảm bảo bình đẳng giới vì
điều đó có liên quan tới sản xuất, thu nhập, khả năng vay vốn tín dụng, quyền
sở hữu tài sản chung cũng như an ninh cho phụ nữ và trẻ em. Tuy nhiên, ba
năm sau khi bộ luật này được thông, Tổng cục thống kê thông báo rằng mới
chỉ có 2,3% số giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên cả vợ và chồng.
Ở nhiều gia đình, khi vợ chồng sống êm đẹp, thường người chồng đứng tên là
chủ sở hữu các tài sản lớn. Khi xảy ra mâu thuẫn, tranh chấp trong gia đình,
đặc biệt trong khi ly hôn, ly thân hay phân chia tài sản sẽ rất khó khăn.
Trong nhiều trường hợp, người chồng dành hết phần về mình vì theo pháp lý
19
họ đứng tên là người chủ, người vợ ra đi tay không và chịu nhiều thua thiệt.
(Tài liệu tham khảo 18).
Mặc dù Luật Đất đai không phân biệt nam nữ, thế nhưng giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất đai trong gia đình lại phổ biến là ghi tên chồng. Mặc
dù giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ấy không ngăn cấm quyền cùng tiếp
cận và kiểm soát đất đai giữa vợ và chồng, thế nhưng trong thực tế, phần lớn
người chồng có quyền quyết định hơn cả đối với sử dụng đất đai. Cho nên,
trong một điều tra mới đây của Tổ chức Nông Lương thực và Chương trình
phát triển của Liên Hiệp Quốc nhìn toàn bộ diện tích đất canh tác ở nước ta
phân loại theo giới tính (nam, nữ) của người quản lý canh tác thì: "Trung
bình, đất đai canh tác do phụ nữ quản lý chỉ bằng khoảng một nửa đất canh

tác do nam giới quản lý".(Tài liệu tham khảo 14).
1.4.2. Bất bình đẳng giới trong phân công lao động của gia đình
Phụ nữ sản xuất nhiều khi vất vả hơn nam giới nhưng không có tiếng nói
quyết định trong gia đình, từ việc định hướng sản xuất kinh doanh đến việc sử
dụng kết quả làm ra. Không chỉ thế, họ lại phải đảm nhiệm gánh nặng lao động
gia đình. Trong khi thời gian sản xuất của phụ nữ cũng như nam giới, thì mỗi
ngày họ vẫn phải làm công việc nội trợ gấp 3 lần nam giới, một thứ lao động
không được trả công, không được đánh giá có giá trị như lao động sản xuất
1.4.2.1. Lao động sản xuất
Lao động sản xuất là bao gồm các công việc do nam và nữ giới đảm
trách để lấy tiền hoặc công hoặc bằng hiện vật. Qua khảo sát, quan hệ giữa
nam và nữ trong cộng đồng thoạt nhìn cũng theo kiểu truyền thống, người đàn
ông được trông đợi là trụ cột của gia đình, được coi là ông chủ, người chịu
trách nhiệm về kinh tế cho gia đình và cũng có mọi quyền hành. Người vợ
được kỳ vọng là đảm đang mọi công việc trong gia đình như sinh con đẻ cái,
chăm sóc và nuôi dạy chúng, đồng thời lo lắng phục hồi về thể chất cho mọi
thành viên trong gia đình. Nhưng trong bối cảnh công nghiệp hóa – hiện đại
hóa thì sự phân công lao động có sự thay đổi.
20
Theo kết quả khảo sát cho thấy: Ngoài công việc nội trợ, phụ nữ cũng
tham gia lao động kiếm sống như làm việc tại công sở, nhà máy, trên đồng
ruộng, buôn bán, chăn nuôi, làm mướn… Người phụ nữ thường chọn việc
buôn bán nhỏ vì công việc này có nhiều thời gian chăm sóc con cái, quán
xuyến nhà cửa và có thể tạo ra thu nhập thêm cho gia đình. Ngoài ra họ còn
chăn nuôi heo, gà để tạo thêm thu nhập.(Tài liệu tham khảo 3).
Trong những gia đình làm ruộng, người vợ thường phụ giúp chồng các
công việc như làm cỏ, bán sản phẩm, người chồng thường làm công việc
kiếm sống, đóng vai trò trụ cột gia đình như lao động sản xuất trên đồng
ruộng (cày bừa, bón phân, phun thuốc sâu, thu hoạch ), làm việc tại công sở,
nhà máy…

Việc làm nhiều nghề cùng với sự đảm bảo trách nhiệm theo sự phân
công lao động xã hội – việc nội trợ đã mang lại nhiều bất lợi cho phụ nữ. Đối
với những người bị buộc phải làm thêm, ngày làm việc của họ sẽ bị kéo dài
hơn, đồng thời đối với những người có nghề nghiệp chuyên môn, những trách
nhiệm gia đình có thể là sự cản trở đối với tiến bộ nghề nghiệp.
Người vợ vừa làm nội trợ vừa tham gia vào lĩnh vực sản xuất vì nhu
cầu sản xuất của xã hội, vì sự bình đẳng giữa vợ và chồng trong việc đóng
góp thu nhập vào hộ gia đình, thì trong lĩnh vực nội trợ cũng cần đến sự chia
sẽ, tuy nhiên tình hình không hoàn toàn như vậy.
Kết quả phân tích ấy người vợ vẫn là người làm chính các công việc
nội trợ và làm thêm các công việc lao động sản xuất khác trong gia đình như:
làm ruộng, chăn nuôi, buôn bán… Đây là một lĩnh vực của đời sống gia đình
thể hiện sự bất bình đẳng giới. Người phụ nữ gắn liền với vai trò người vợ,
người mẹ, người nội trợ trong gia đình, người phụ nữ phải chịu gánh nặng
kép.(Tài liệu tham khảo 15).
1.4.2.2. Lao động tái sản xuất
Ở Việt Nam phụ nữ thường có vai trò đặc biệt quan trọng trong công
việc nội trợ, vừa là người thực hiện, vừa là người trực tiếp “tay hòm chìa
21
khóa”. Vì vậy sự phân công lao động theo giới đưa tới việc nam là nguồn lo
động, nguồn lao động chính và nữ giới là người quản lý và thực hiện công
việc gia đình, tức là vai trò của “nội tướng”.
Đặc trưng của phân công vai trò theo giới truyền thống trong gia đình là
người chồng giữ vai trò trụ cột về kinh tế, còn người vợ làm nội trợ. Trong mô
hình, cả hai giới đều có quan niệm chung là người phụ nữ gắn liền với vai trò
người vợ, người nội trợ. Quan niệm đó cũng cho rằng công việc nội trợ là công
việc nhẹ, không căng thẳng và điều quan trong là không có giá trị về kinh tế
Phụ nữ Việt Nam trong gia đình được trông đợi là phải sinh con, đẻ cái
quán xuyến việc nhà, cho dù chị ta có tham gia vào lao động tăng thu nhập hay
không. Đó là vai trò tái sản xuất, bao gồm trách nhiệm sinh đẻ hoặc nuôi con và

công việc nhà do phụ nữ đảm nhiệm để duy trì tái sản xuất sức lao động.
Vai trò đó không chỉ bao gồm sự sản xuất sinh học mà còn bao gồm cả
việc chăm lo và duy trì lực lượng lao động (con cái và chồng đang làm việc)
và lực lượng lao động sau này (trẻ nhỏ và trẻ đang đi học).
1.4.3. Bất bình đẳng giới trong giáo dục nuôi dạy con cái
Từ ngày xưa ông cha ta đã có câu “Đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ
ấm”, người đàn ông thì ra ngoài làm, đảm nhận việc kiếm tiền nuôi gia đình,
còn người phụ nữ thì ở nhà chăm sóc, dạy bảo con cái, lo toan công việc nhà.
Chính vì thế mà người vợ, người mẹ luôn gần gũi, thường xuyên tiếp xúc với
con cái, dạy bảo chúng học hành, chăm lo cho chúng. Người chồng ít quan
tâm đến vấn đề học hành của con cái hơn là người vợ.
Trong gia đình, người phụ nữ là người chăm sóc và giáo dục con cái
chủ yếu trong gia đình. Những đứa con từ khi mới sinh ra đến khi trưởng
thành, phần lớn thời gian là gần gũi và thường là chịu ảnh hưởng từ người mẹ
hơn từ cha. Chúng được mẹ cho bú sữa, bồng ẳm, dỗ dành, tắm giặt, ru ngủ,
cho ăn uống, chăm sóc rất nhiều khi ốm đau Với việc nhận thức thông qua
quá trình bé tự quan sát, học hỏi tự nhiên hàng ngày và ảnh hưởng đặc biệt
các đức tính của người mẹ, đã hình thành dần dần bản tính của đứa con theo
22
kiểu "mưa dầm, thấm lâu". Ngoài ra, những đứa trẻ thường là thích bắt chước
người khác thông qua những hành động của những người gần gũi nhất, chủ
yếu là người mẹ.
1.4.4. Bất bình đẳng giới trong ra quyết định quan trọng
Nhiều nghiên cứu cho rằng mô hình về quyền quyết định trong gia đình
hiện nay đó là người đàn ông vẫn có quyền quyết định nhiều hơn người vợ.
Mặc dù trong gia đình người vợ là người phải đảm nhận hầu hết các công
việc, thậm chí họ còn là người mang lại thu nhập chính cho gia đình, nhưng
phần lớn quyền quyết định chính thuộc về người chồng, người vợ chỉ là
người thực thi các quyết định đó. Lý giải cho điều này các nghiên cứu chỉ ra
rằng đây là do ảnh hưởng của định kiến giới vẫn còn tồn tại trong gia đình

nông thôn, do tư tưởng trọng nam kinh nữ, đề cao vai trò địa vị của nam giới
nghiên cứu đã nghiên cứu tại các vùng nông thôn trên cả nước ở các thời
điểm khác nhau đều chỉ ra rằng trong các công việc đã có sự bàn bạc giữa hai
vợ chồng, nhưng việc ra quyết định chính vẫn là do người chồng và định kiến
giới chính là yếu tố ảnh hưởng.
Về quyền quyết định các công việc trọng đại của gia đình trong mấy
thập kỷ qua đã có rất nhiều tiến bộ trong gia đình Việt Nam. Quyết định
việc học hành của con cái, hướng nghiệp, cưới xin cho con, đưa người đi
chữa bệnh, quyết định về các chi tiêu lớn như sửa nhà, xây nhà đã có sự
bàn bạc và cùng quyết định, nhiều việc phụ nữ đưa ra cách giải quyết đầy
sức thuyết phục và khi thực hiện rất có hiệu quả. Tuy nhiên, nếu xét tương
quan giữa vợ và chồng thì người có vai trò quyết định cá nhân chiếm tỷ lệ
cao thuộc về người chồng. Song phải thừa nhận rằng khoảng cách giới của
lĩnh vực ra quyết định là không lớn lắm, phụ nữ Việt Nam đã có bước cải
thiện về địa vị rất nhiều so với trước và so với nhiều nước đang phát triển
hiện nay.(Tài liệu tham khảo 9).
Nhìn chung các công việc lớn trong gia đình, đàn ông nắm quyền quyết
định nhiều hơn, nhưng vẫn bàn bạc với vợ. Trong các lĩnh vực mua sắm đồ đạc
23
đắt tiền, quan hệ gia đình họ hàng và quan hệ chung của hai vợ chồng thì quyền
quyết định nhiều nhất vẫn thuộc về cả hai vợ chồng cùng quyết định, tiếp sau đó
là người chồng. Người vợ vẫn là người có tiếng nói quyết định ít nhất.
Trong các yếu tố ảnh hưởng đến quyền quyết định của hai vợ chồng thì
yếu tố đóp góp của người chồng cho kinh tế gia đình hầu như không ảnh hưởng
đến quyền quyết định của họ. Cho dù đóp góp nhiều hay ít thì quyền quyết định
của người chồng hầu như không thay đổi và nếu có thay đổi thì rất ít.
Tuy nhiên yếu tố này lại ảnh hưởng đáng kể đến quyền quyết định của
người vợ. Đóng góp của người vợ cho kinh tế gia đình tăng thì quyền quyết
định của người họ tăng, ngược lại đóng góp của người vợ giảm thì quyền
quyết định giảm.(tài liệu tham khảo 13).

1.4.5. Bất bình đẳng giới trong cách cư xử
1.4.5.1. Phụ nữ bị bạo hành gia đình
Thực trạng bạo lực phụ nữ - về cả thể xác và tinh thần - vẫn diễn ra
một cách dai dẳng và công khai ở xã hội Việt Nam, đặc biệt là tại các vùng
nông thôn, vùng sâu vùng xa nơi trình độ dân trí thấp kém, quyền lợi phụ nữ
không được coi trọng. Gánh nặng âu lo đặt quá lên vai phái nữ - khi mà họ
quá ít sức lực. Thói quen cho mình quá nhiều đặc quyền - trong lúc không tự
gán cho mình những trách nhiệm tương đương - của đàn ông. Nạn bạo lực gia
đình, đánh đập, uy hiếp tinh thần của người chồng với người vợ vấn diễn ra
hàng ngày nhưng thiếu sự can thiệp kịp thời của chính quyền và cộng đồng.
(Tài liệu tham khảo 10).
Ở Việt Nam, bạo lực gia đình không phải là mới, chế độ phụ hệ, tư
tưởng trọng nam, khinh nữ đã kéo theo sự bất bình đẳng giữa phụ nữ và nam
giới. Trước đây những người phụ nữ bị hành hạ chủ yếu là sống phụ thuộc
vào chồng. Khi chuyển sang kinh tế thị trường, vai trò của phụ nữ cũng thay
đổi, song thực tế đã ghi nhận rất nhiều trường hợp phụ nữ kiếm được nhiều
tiền hơn lại bị chồng đánh. Theo nghiên cứu của Hội liên hiệp phụ nữ Việt
Nam thì những trường hợp này chiếm 72% trong số những vụ xung đột gia
24
đình Việt Nam có đến 66% các vụ ly hôn liên quan đến bạo hành gia đình,
5% phụ nữ được hỏi thừa nhận bị chồng đánh đập thường xuyên, 82% hộ
dân nông thôn và 80% hộ ở thành phố có xảy ra bạo lực. Tỷ lệ phụ nữ bị
ngược đãi trong những gia đình khá giả ở mức cao 76%. (Thống kê của
Viện Xã hội học, Viện KH-XH VN) - 25/02/2006
1.4.5.2. Phụ nữ bị cấm đoán
Theo quan niệm truyền thống, phụ nữ gắn liền với vai trò chăm sóc gia
đình, còn nam giới đảm nhận những việc lớn. Quan niệm này được thể hiện
thông qua câu ngạn ngữ “đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm”.
Thói trọng nam khinh nữ đã ăn sâu vào cộng đồng dân cư. Tiếng nói
của người phụ nữ ít có trọng lượng trong việc quyết định không chỉ trong

cộng đồng, dòng họ mà còn cả trong gia đình.
Thiên kiến giới tạo cho người phụ nữ có thói quen ít đứng tên sở hữu
các tài sản giá trị trong gia đình.
Chế độ phụ hệ là chế độ mà người phụ nữ trong gia đình không được
nắm giữ quyền lực, quyền lãnh đạo. Hầu hết mọi quyền lực đều nằm trong
tay người chồng, người phụ nữ chỉ là người thực thi quyết định hoặc nếu có
thì cũng chỉ là người được tham gia một phần ý kiến.
Nếp sống gia trưởng vẫn giữ vai trò chủ đạo trong các gia đình ở nông thôn
1.5. Các chủ trương, chính sách và pháp luật của Nhà nước để giải quyết
bất bình đẳng giới trong gia đình ở nông thôn
1.5.1. Chủ trương, chính sách và pháp luật trên thế giới
Văn bản của Liên hợp quốc đã nói rõ: “Bình đẳng về giới là nam nữ
được công nhận có vị thế xã hội ngang nhau, có những điều kiện như nhau
để thực hiện đầy đủ các quyền con người, có cơ hội như nhau để đóng góp và
hưởng lợi từ sự phát triển chính trị, kinh tế, xã hội và văn hoá của đất nước”.
Quyền bình đẳng giữa nam và nữ là một nội dung cơ bản của Luật nhân
quyền quốc tế.
25

×